intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng đối với HS. Đưa ra các biện pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm tăng cường giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4” Lĩnh vực: Chủ nhiệm Tác giả: Lê Thị Thanh Huyền Lê Thị Hương Số điện thoại: 0942120486 Nghệ An, tháng 3 năm 2023
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4” Lĩnh vực: Chủ nhiệm
  3. DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nội dung viết tắt BCH Ban chấp hành Bộ GD & ĐT Bộ giáo dục & đào tạo CBQL Cán bộ quản lý GD Giáo dục GDPT Giáo dục phổ thông GV Giáo viên GVBM Giáo viên bộ môn GVCN Giáo viên chủ nhiệm KNS Kỹ năng sống NQ Nghị quyết NGLL - HN Ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp THPT Trung học phổ thông TN,HN Trải nghiệm, hướng nghiệp TW Trung ương Sở GD & ĐT Sở giáo dục & Đào tạo UBND Ủy ban nhân dân
  4. MỤC LỤC TT MỤC LỤC Trang PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Lý do chọn đề tài 1 2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2 4 Phương pháp nghiên cứu đề tài 2 5 Thời gian nghiên cứu đề tài 2 6 Tính mới của đề tài 2 PHẦN II NỘI DUNG Cơ sở lý luận về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học Chương 1 sinh THPT 1.1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề 3 Một số vấn đề lí luận về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho 1.2 4 học sinh THPT Thực trạng kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ của học sinh lớp Chương 2 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 Thuận lợi và khó khăn trong việc giáo dục kỹ năng tìm 2.1 8 kiếm sự hỗ trợ cho học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 4 2.2 Một vài nét chung về lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 9 2.3 Khái quát về khảo sát thực trạng 10 Thực trạng giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ tại lớp 2.4 11 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 Các giải pháp sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, Chương 3 chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 3.1 Nguyên tắc đề xuất giải pháp 17 Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm 3.2 17 rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp
  5. TT MỤC LỤC Trang 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề 3.3 43 xuất 3.4 So sánh thực nghiệm 51 3.5 Kết quả nghiên cứu 52 3.6 Tính khoa học 54 PHẦN III KẾT LUẬN 1 Kết luận 54 2 Kiến nghị 55 3 Hướng phát triển của đề tài 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII 1của Đảng có nhấn mạnh: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ... Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”. Chiến lược giáo dục đó là nhằm đào tạo thế hệ trẻ – Chủ nhân tương lai của đất nước, không chỉ có tri thức, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn rất cần phải có kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập. Chính vì thế, giáo dục kỹ năng sống trở thành một mục tiêu, một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết với ngành giáo dục nước nhà. Thực tế cho thấy, ở lứa tuổi học sinh THPT, do các em thiếu các kỹ năng sống cơ bản nên việc ứng xử của học sinh với thầy cô, với gia đình, với những người xung quanh còn chưa thực sự văn minh, vấn đề bạo lực học đường, vi phạm pháp luật ở học sinh ngày càng có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là điều hết sức cần thiết bởi nó sẽ để lại trong quá trình phát triển nhân cách một định hướng tốt. Và cái nôi đầu tiên cho việc hình thành kỹ năng sống, không đâu khác chính là môi trường trường học, mà giáo viên chủ nhiệm chính là người đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình rèn luyện đó. Trong bối cảnh hiện nay, học sinh phải đối diện với rất nhiều những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, tư vấn của những người khác, giúp các em giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng trong cuộc sống. Chính vì vậy, rèn luyện cho học sinh kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong các trường THPT hiện nay, việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và việc rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng vẫn tồn tại nhiều bất cập, vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chưa thực sự được chú trọng và phát huy hiệu quả. Sau một thời gian nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn công tác chủ nhiệm chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sử dụng phương pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4”. 1 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/bao-cao-chinh- tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-3734 1
  7. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực, chủ động các nhằm rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. Phát huy hiệu quả vai trò của GVCN trong công tác giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. 2.2. Nhiệm vụ Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng đối với HS. Đưa ra các biện pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm tăng cường giáo dục kỹ năng tìm kiễm sự hỗ trợ cho HS. Tiến hành thực nghiệm đề tài đang nghiên cứu. Tổng kết kết quả thực nghiệm. Lấy ý kiến từ HS, phụ huynh, đồng nghiệp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu HS lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu và đề ra một số giải pháp tăng cường kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp điều tra quan sát; Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm; Phương pháp đàm thoại; Phương pháp thống kê toán học; Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia. 5. Thời gian nghiên cứu Thời gian thực hiện giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ để đúc rút kinh nghiệm trong 2 năm học từ 2021 – 2022 đến năm 2022 – 2023. Thời gian thực hiện, áp dụng đề tài 1 năm học 2022 – 2023. 6. Tính mới của đề tài Đây là đề tài hoàn toàn mới, chưa có đồng nghiệp hay đề tài nghiên cứu nào đề cập đến. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ - một kỹ năng rất quan trọng đối với HS lứa tuổi THPT trong bối cảnh xã hội phức tạp như hiện nay lại gần như không được chú ý và tập trung nghiên cứu. Các giải pháp được chúng tôi xây dựng lấy HS làm trung tâm, điều này là cơ sở, là tiền đề của việc hình thành và củng cố các KNS cơ bản nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ ở các em HS. Qua đó đã tạo ra sự hào hứng, phấn khởi cho HS khi tham gia vào từng giải pháp, GVCN cũng thực hiện được mục tiêu là giáo dục KNS cho các em HS. Việc thực hiện giải pháp cũng không đòi hỏi phải 2
  8. đầu tư quá công phu về thời gian, cơ sở vật chất nên thuận lợi trong quá trình thực hiện và áp dụng. PHẦN II: NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG TÌM KIẾM SỰ HỖ TRỢ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Vào đầu thập niên 90, thuật ngữ kỹ năng sống (KNS) lần đầu tiên xuất hiện trong một số chương trình của tổ chức Liên Hợp Quốc như WHO (tổ chức y tế thế giới), UNESCO (tổ chức giáo dục văn hóa và khoa học) và các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm ra cách giáo dục để tạo ra cho thanh thiếu niên năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng hàng ngày. Đó là giáo dục KNS nhằm giúp trẻ ở lứa tuổi này biến nhận thức thành hành động, nghĩa là các em không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu. Năm 2013, Mari-Jane Williams có bài báo được đăng trên tờ The Washington Post với nội dung các KNS tuổi teen cần có sau khi tốt nghiệp THPT (Lifes skills all teens should have before graduating from high school). 2Nội dung được đề cập là định hướng những kỹ năng HS cần có trong gia đình và xã hội tương lai. Năm 2003, tiến sĩ Elizabet Dunn và J.Gordon Arbuckle của trường Đại học Missouri thuộc Colombia đã công bố kết quả nghiên cứu về KNS của trẻ em phạm tội và chỉ ra những thiếu hụt về KNS của những trẻ y như vậy. Đồng thời có sự phân tích và đo lường mức độ KNS mà các em có được khi tham gia chương trình KNS. Ở đa số nước phát triển hiện nay, trong nhà trường phổ thông, đặc biệt chú ý giáo dục KNS nhằm giáo dục toàn diện cho HS ngay từ trong nhà trường, nhất là các nước tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển năng lực; coi trọng giáo dục nhân văn, giáo dục sáng tạo, giáo dục phẩm chất và KNS… Kinh nghiệm thực tiễn về giáo dục KNS cho HS ở các nước phát triển, xu thế mới của các nước đang phát triển cũng như các công trình nghiên cứu về KNS là cơ sở quan trọng làm nền tảng để chúng tham khảo nghiên cứu về đề tài này. 1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Năm 1996, thuật ngữ KNS lần đầu tiên xuất hiện tại một chương trình của UNICEF “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng trách HIV/AIDS 2 https://orilearning.com/life-skills-for-teens-to-have/ 3
  9. cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” do các chuyên gia Australia tập huấn. Cho tới thời điểm hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến vấn đề KNS nói chung và KNS trong nhà trường nói riêng như: Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Luân đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sỹ với đề tài “Biện pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường THPT Mông Dương tỉnh Quảng Ninh”, 3luận văn về các báo cáo biện pháp tăng cường quản lý giáo dục KNS cho HS trường THPT. Năm 2014, tác giả Nguyễn Thị Tính với đề tài nghiên cứu “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT khu vực miền núi phía Bắc trong bối cảnh hiện nay”, đề tài đã đề xuất các biện pháp giáo dục KNS cho HS THPT khu vực miền núi phía Bắc. Năm 2014, tác giả Phan Văn Hiên với đề tài “Quản lý giáo dục KNS qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tại trường THPT Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn để xuất hiện biện pháp quản lý giáo dục KNS qua hoạt động giáo dục NGLL-HN tại trường THPT Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh hiện tại. Như vậy, các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục KNS đã đi sâu nghiên cứu một số lĩnh vực nội dung và phương thức giáo dục KNS, phân tích và làm rõ thực trạng của giáo dục KNS cho HS ở các trường THPT hiện nay. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung đi sâu nghiên cứu về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ và phát huy vai trò của GVCN trong việc giáo dục kỹ năng này cho HS. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn và tập trung nghiên cứu về đề tài này. 1.2. Một số vấn đề lí luận về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh THPT 1.2.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài Kỹ năng sống: Theo UNESCO: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Theo UNICEF: Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và phát triển kỹ năng. Cách tiếp cận này nhấn mạnh việc luyện tập thường xuyên, lặp đi lặp lại để củng cố. 3 https://xemtailieu.net/tai-lieu/quan-ly-giao-duc-ky-nang-song-thong-qua-hoat-dong-xa-hoi-cho-hoc-sinh-cac- truong-thpt-huyen-thuy-nguyen-thanh-pho-hai-phong-2575171.html 4
  10. Như vậy, có thể rút ra, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Là kỹ năng giúp HS giải quyết những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ bao gồm các yếu tố sau: Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ; Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy; Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó; Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp. 1.2.2. Mục đích của giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh ở trường THPT Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ giúp HS có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp các em không cảm thấy đơn độc, bi quan và trong nhiều trường hợp, giúp các em có cái nhìn mới, hướng đi mới. Khi tìm đến các địa chỉ cần hỗ trợ, HS cần: Cư xử đúng mực và tự tin; Cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn; Giữ bình tĩnh khi gặp sự cố đối xử thiếu thiện chí. Nếu vẫn cần sự hỗ trợ của người thiếu thiện chí, cố gắng tỏ ra bình thường, kiên nhẫn nhưng không sợ hãi; Nếu bị cự tuyệt, đừng nản chí, hãy kiên trì tìm kiếm sự hỗ trợ từ các địa chỉ khác, người khác. Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ rất cần thiết để giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn và ứng phó với căng thẳng. Đồng thời để phát huy hiệu quả của kĩ năng này, cần kĩ năng lắng nghe, khả năng phân tích thấu đáo ý kiến tư vấn, kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách giải quyết tối ưu sau khi được tư vấn. 1.2.3. Vai trò của giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ đối với học sinh THPT Giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội: Kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng giúp HS biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Có KNS tốt các em sẽ luôn vững vàng trước khó khăn và thử thách, biết ứng xử và giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp, làm chủ cuộc sống của chính mình. Được trang bị kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, HS sẽ biết bảo vệ bản thân trước những khó khăn, thách thức gặp phải, những tệ nạn học đường, xã hội. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ là yêu cầu cấp thiết của thế hệ trẻ: Lứa tuổi của các em HS là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, thích tìm tòi, khám phá, song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị dụ dỗ, lôi kéo, kích động… Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường, thế hệ trẻ luôn đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, đương đầu 5
  11. với khó khăn, thách thức, cám dỗ, áp lực tiêu cực. Nếu không được trang bị KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng, các em rất dễ bị sa ngã và lệch lạc về nhân cách. Giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông: Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có nguồn nhân lực mới phát triển toàn diện, do vậy việc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng là yêu cầu cấp thiết. Giáo dục KNS nói chung và giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng với bản chất là hình thành và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống trong học tập và cuộc sống là phù hợp với mục tiêu đổi mới của giáo dục phổ thông. Giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ ở trường phổ thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới: Hiện nay đã có hơn 170 nước trên thế giới đưa giảng dạy KNS vào các trường THPT, qua đó để thấy được giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng hết sức cần thiết, có vai trò quan trọng và trở thành xu thế chung của các nước trên thế giới. 1.2.4. Các nguyên tắc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh ở trường THPT Tương tác: Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ hình thành chủ yếu thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Nhiều KNS được hình thành trong quá HS tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong nhà trường. Trong khi tham gia các hoạt động có tính tương tác, HS có dịp thể hiện các ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng một cách hiệu quả. Trải nghiệm: Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. HS chỉ có kĩ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi HS được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế. GV cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho HS có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm, biết phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người khác. Tiến trình: Giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng không thể hình thành trong “Ngày một, ngày hai" mà đòi hỏi phải có cả quá trình: Nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mọi yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó, GV có thể tác động lên bất kì mắt xích nào trong chu trình trên: Thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn 6
  12. thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ. Thay đổi hành vi: Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp HS thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục KNS thúc đẩy HS thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ và hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời, có thời điểm HS lại quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó, GV cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để HS duy trì hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho HS điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị, thái độ và hành vi mới. Thời gian – môi trường giáo dục: Giáo dục KNS nói chung và giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt. Môi trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho HS áp dụng kiến thức và kĩ năng vào các tình huống “thực" trong cuộc sống. Giáo dục KNS được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô, là bạn cùng học hay các thành viên cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo dục KNS được thực hiện trên các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục NGLL-HN và các hoạt động giáo dục khác. 1.2.5. Một số phương pháp giáo dục kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS trong các môn học và hoạt động giáo dục Phương pháp giải quyết vấn đề: Giải quyết vấn đề là xem xét, phân tích những vấn đề /tình huống cụ thể thường gặp phải trong đời sống hằng ngày và xác định cách giải quyết, xử lí vấn đề /tình huống đó một cách có hiệu quả. Quy trình thực hiện: Xác định, nhận dạng vấn đề /tình huống. Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề /tình huống đặt ra. Liệt kê các cách giải quyết có thể có. Phân tích, đánh giá kết quả mọi cách giải quyết. So sánh kết quả các cách giải quyết. Lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất. Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn. Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác. Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành, “làm thử" một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phuơng pháp nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn" không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. Quy trình thực hiện: Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau: Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm. Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. Các nhóm lên đóng vai. Lớp thảo 7
  13. luận, nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn; về ý nghĩa của các cách ứng xử. GV kết luận, định hướng cho HS về cách ứng xử tích cực trong tình huống đã cho. Phương pháp trò chơi: Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Quy trình thực hiện: GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS. Chơi thử (Nếu cần thiết). HS tiến hành chơi. Đánh giá sau trò chơi. Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi. 1.2.6. Một số văn bản chỉ đạo Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung Ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Công văn số 463/BGD ĐT- GDTX ngày 28/01/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục KNS tại các cơ sở GDMN, GDPT và GDTX; Công văn số 3414/BGDĐT - GDTrH ngày 04/09/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2020 – 20214. Đề tài này dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về đổi mới giáo dục và đào tạo; Dựa trên những công văn chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở GD & ĐT Nghệ An. Chương 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TÌM KIẾM SỰ HỖ TRỢ CỦA HỌC SINH LỚP 11A1 TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4 2.1. Thuận lợi và khó khăn trong việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 4 Hiện nay, chương trình giáo dục KNS cho học sinh đã được triển khai đại trà và KNS đã trở thành môn học bắt buộc ở một số trường thuộc bậc tiểu học. Ở bậc THPT, KNS được lồng ghép, tích hợp vào các môn học, hoạt động TNHN, NGLL-HN, từ năm 2022 đã được lồng ghép vào hoạt động TNHN lớp 10 – chương trình GDPT 2018. Chình vì vậy, công tác giáo dục KNS nói chung và rèn luyện kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng tại trường THPT Quỳnh Lưu 4 có những thuận lợi và khó khăn. Về thuận lợi: Nhận thức của đa số CBQL, GVBM, HS về vai trò của giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng khá đầy đủ. Nhà trường đã huy động, phát huy khá tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài nhà trường trong quá trình giáo dục KNS cho HS. Mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục KNS bước đầu thể hiện được sự linh hoạt và linh động tạo 4 https://moet.gov.vn/van-ban/vbdh/Pages/chi-tiet-van-ban.aspx?ItemID=2799 8
  14. điều kiện cho hiệu quả giáo dục KNS được cải thiện đáng kể. Kết quả giáo dục KNS từng năm có chuyển biến tích cực góp phần nâng cao giáo dục toàn diện cho nhà trường. Về khó khăn: Về phía nhà trường, nhận thức của một số CBQL, GV về vai trò của giáo dục KNS đối với HS vẫn chưa đầy đủ; Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục KNS còn nhiều bất cập; Việc huy động, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài nhà trường trong quá trình giáo dục KNS cho HS còn chưa đều, chưa đồng bộ; Mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục KNS chưa đa dạng, toàn diện, kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ gần như chưa được đề cập đến; Kết quả giáo dục KNS từng năm có chuyển biến nhưng chưa vững chắc; Các hoạt động giáo dục KNS chỉ chủ yếu được thực hiện ở mảng công tác Đoàn, trong buổi hoạt động NGLL-HN, vai trò của GVCN đối với việc giáo dục KNS cho HS vẫn chưa được chú trọng, khuyến khích. Về phía GVCN, một bộ phận GV chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục KNS cho HS mà chỉ chú trọng đến việc quản lý các hoạt động, học tập. Các tiết sinh hoạt đầu giờ và cuối tuần chủ yếu GVCN tập trung và việc nhận xét HS, triển khai các nội dung liên quan đến việc học tập và hoạt động trong tuần. Một số GVCN có tiến hành giáo dục KNS nhưng hầu như chỉ mang tính đối phó, thường sử dụng các hình thức và phương pháp truyền thống, làm mất sự hứng thú của HS. Về phía HS, một bộ phận không nhỏ HS hiện nay còn thụ động, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Các em còn thiếu các KNS căn bản như không có kỹ năng điều chỉnh cảm xúc cá nhân, không biết cách xử lí các tình huống trong cuộc sống, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gỗ lẫn nhau, không có kỹ năng ứng phó với bạo lực học đường và đặc biệt khi gặp khó khăn, các em thường hay chán nản, mất phương hướng không biết cách tìm kiếm sự hỗ trợ. Về phía phụ huynh, đa số phụ huynh của HS trường THPT Quỳnh Lưu 4 là nông dân, cuộc sống khó khăn do phải mưu sinh hàng ngày nên việc giáo dục KNS cho con em mình không được chú trọng, quan tâm. Một số phụ huynh là công nhân, viên chức nhà nước thì chỉ chú trọng việc học tập kiến thức, chứ chưa nhận thức được vai trò của việc giáo dục KNS. Bản thân các bậc phụ huynh cũng chưa ý thức được con em mình cần phải trang bị những kỹ năng gì khi ở lứa tuổi này. 2.2. Một vài nét chung về lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 Lớp 11A1 có sỉ số 44, trong đó có 24 HS nam, 20 HS nữ. Các em chủ yếu sinh sống trên địa bàn xã Quỳnh Châu, Quỳnh Tam, Tân Sơn, Quỳnh Thắng, có một số ít HS sinh sống tại xã Tân Thắng, Diễn Lâm, Đông Hiếu. Đa số HS trong lớp có bố mẹ là nông dân, một bộ phận nhỏ có bố mẹ là công nhân viên chức, buôn bán. 9
  15. Chất lượng đầu vào của các em HS lớp 11A1 khá tốt, đa số các em HS đều chăm ngoan, học giỏi, có ý chí phấn đấu vươn lên trong học tập. Tập thể lớp đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lần nhau. Tuy nhiên, vì phần lớn thời gian các em tập trung vào học tập nên thời gian vui chơi, tham gia hoạt động tập thể, thể dục, thể thao còn hạn chế. Nhiều em KNS còn yếu; ít trò chuyện chia sẻ với các bạn trong lớp. Một số em còn nhút nhát, thờ ơ với các hoạt động của lớp; ít thể hiện cảm xúc, thái độ hay chính kiến của bản thân. Có một vài em sa vào yêu đương dẫn đến sao nhãng việc học tập. 2.3. Khái quát về khảo sát thực trạng 2.3.1. Mục đích khảo sát Trên cơ sở khảo sát đội ngũ CBQL, GV, HS, phụ huynh (Qua phiếu trưng cầu ý kiến phụ lục 1, 2, 3, 4) và khảo sát qua google form, chúng tôi thu thập các thông tin về thực trạng nhận thức, nội dung, hình thức, điều kiện - phương tiện, khó khăn tổ chức giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ; từ đó đề xuất các biện pháp giáo dục tích cực, chủ động nhằm tăng cường giáo dục kỹ năng tìm kiễm sự hỗ trợ cho HS lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4. 2.3.2. Đối tượng khảo sát - Khảo sát CBQL, GV nhà trường: 77 GV (4 BGH, 5 BTV Đoàn, 5 BCH công đoàn, 12 GVCN, 12 GVBM, 12 TT, TP, NT; 5 GV tổ tư vấn tâm lý, 10 GV dạy TN,HN; 12 GV trường THPT Quỳnh Lưu 1, Quỳnh Lưu 3). - Khảo sát phụ huynh HS lớp 11A1: 79 phụ huynh (44 phụ huynh lớp 11A1 và 35 chi hội trưởng phụ huynh các lớp). - Khảo sát HS lớp 11A1: 44 HS. 2.3.3. Nội dung khảo sát Qua 3 phiếu trưng cầu ý kiến (Phụ lục 1, phụ lục 2, phụ lục 3) chúng tôi hướng đến khảo sát các nội dung sau: - Thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS, phụ huynh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. - Thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS, phụ huynh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về vai trò của giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. - Thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS trường THPT Quỳnh Lưu 4 về các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. 2.3.4. Phương pháp khảo sát - Xây dựng phiếu khảo sát (Phụ lục). - Tổ chức khảo sát: Khảo sát qua google form. - Xử lý số liệu, phân tích kết quả thông qua tính %. 10
  16. 2.4. Thực trạng giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ tại lớp 11A1 trường THPT Quỳnh Lưu 4 2.4.1. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, phụ huynh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS Để khảo sát về nhận thức của CBQL, GV, HS, phụ huynh của trường THPT Quỳnh Lưu 4 về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ. Chúng tôi sử dụng câu hỏi số 1, phụ lục 1,2,3 và thu được kết quả như sau: Biểu đồ 2.1: Nhận thức của CBQL, GV Biểu đồ 2.2: Nhận thức của phụ huynh về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ5 về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ6 Từ kết quả khảo sát của biểu đồ 2.1 có thể thấy, đa số CBQL, GV có nhận thức đúng về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ (chiếm 64,2%), tuy nhiên, vẫn còn có một bộ phận CBQL, GV chưa quan tâm đến kỹ năng này (chiếm 35,8%), đặc biệt có 7,8% CBQL, GV chưa hề nghe qua, hay nghiên cứu về kỹ năng này. Đây vừa là điều kiện thuận lợi để thực hiện đề tài cũng là thực trạng cần phải tăng cường công tác giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ tại trường THPT Quỳnh Lưu 4. Qua số liệu khảo sát biểu đồ 2.2, có 46,2% phụ huynh có nhận thức đúng về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, nhưng vẫn có 26,9% phụ huynh có nhận thức chưa đầy đủ về kỹ năng này, đặc biệt có tới 26,9% phụ huynh chọn câu trả lời chưa tìm hiểu. Từ đó có thể thấy, đa số phụ huynh vẫn chưa quan tâm đầy đủ đến việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho con em mình. Đây là thực trạng cần phải có những giải pháp phù hợp để tăng cường nhận thức cho phụ huynh, cũng như sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong công tác giáo dục KNS cho HS. 5 https://forms.gle/TNTccWHJP9W8wGTU7 6 https://forms.gle/qB5UqCfLKaa6YUn4A 11
  17. Biểu đồ 2.3: Nhận thức của học sinh về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ7 Từ số liệu khảo sát biểu đồ 2.3, có thể thấy, có 57,3% HS lớp 11A1 nhận thức đúng về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ và vẫn còn 28% HS chưa nhận thức đầy đủ về kỹ năng này, đáng lưu ý là có 14,7% HS chưa nghiên cứu, chưa tìm hiểu. Đây cũng là một thực trạng đáng lưu ý về công tác giáo dục KNS cho các em HS tại nhà trường. 2.4.2. Thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS, phụ huynh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về vai trò của giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS Để khảo sát về nhận thức của CBQL, GV, HS, phụ huynh của trường THPT Quỳnh Lưu 4 về kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ. Chúng tôi sử dụng câu hỏi số 2, phụ lục 1,2,3 và thu được kết quả như sau: Biểu đồ 2.4: Nhận thức của CBQL, GV về vai Biểu đồ 2.5: Nhận thức của phụ huynh về vai trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS Từ số liệu khảo sát thu được ở biểu đồ 2.4, có thể nhận thấy, đại đa số CBQL, GV nhận thức đúng vai trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ đối với việc giáo dục 7 https://forms.gle/Ab5Sfc7ApeShXz1Q8 12
  18. HS, nhưng vẫn còn 32,7 % CBQL, GV có nhận thức chưa đầy đủ, và có 7,3% CBQL, GV còn chưa quan tâm đến vai trò của kỹ năng này. Đây là cơ sở để những người thực hiện đề tài tăng cường các biện pháp để phối hợp, kết nối với các lực lượng trong nhà trường tăng cường nhận thức và giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. Qua số liệu khảo sát của biểu đồ 2.5, nhận thấy, có 47,8% phụ huynh có nhận thức đầy đủ về vai trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ đối với việc giáo dục HS, tuy nhiên, vẫn còn một số lượng lớn phụ huynh, chiếm 52,2% chưa thực sự quan tâm đến vai trò của kỹ năng này, trong đó có tới 15,2% phụ huynh chưa tìm hiểu. Đây cũng là thực trạng cần phải lưu ý về công tác phối hợp giáo dục KNS cho HS giữa nhà trường và gia đình cần phải tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa. Biểu đồ 2.6: Nhận thức của học sinh về vai trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ Từ kết quả khảo sát của biểu đồ 2.6, có thể thấy, có 56,8% HS đã có nhận thức đúng về vai trò của kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, tuy nhiên, vẫn còn 43,2% HS chưa nhận thức đầy đủ, đặc biệt trong đó có 4,55% không quan tâm. Điều đó đặt ra yêu cầu nhà trường cần phải tăng cường giải pháp phù hợp để giáo dục về nhận thức và hành động cho các em HS về kỹ năng này. 2.4.3. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 4 về các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh Để đánh giá thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS trường THPT Quỳnh Lưu 4 về các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, chúng tôi đã tiến hành khảo sát câu hỏi số 4,5 phụ lục 1; câu hỏi số 5 phụ lục 2 và thu được kết quả như sau: 13
  19. Biểu đồ 2.7: Thực trạng nhận thức của CBQL, GV về các lực lượng giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ Từ số liệu khảo sát thu được qua biểu đồ 2.7, có thể nhận thấy, đa số CBQL, GV nhận thức rõ được vai trò của các lực lượng nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS (trong đó có 54,6% lựa chọn lực lượng BGH, 53,3% chọn GV phụ trách hướng nghiệp; 50,7% lựa chọn tổ chức Đoàn; và 49,4% chọn phụ huynh), tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ CBQL, GV chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của các lực lượng này, đặc biệt là một số CBQL, GV chưa đánh giá cao vai trò của GVBM (chiếm 75,3%) và GVCN (chiếm 54,8%) trong việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS. Đây là thực trạng chung của các trường THPT khi công tác giáo dục KNS hầu hết giao cho Đoàn trường, GV phụ trách giảng dạy hoạt động NGLL – HN mà chưa có các giải pháp phối hợp, liên kết để nâng cao hiệu quả giáo dục KNS giữa GV, phụ huynh và nhà trường. Biểu đồ 2.8. Thực trạng nhận thức của HS về các lực lượng giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ 14
  20. Qua biểu đồ 2.8, có thể thấy, đa số HS nhận thức đúng về vai trò của các lực lượng trong công tác giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ. Tuy nhiên, các em chủ yếu lựa chọn lực lượng Đoàn trường (chiếm 70,4%), GV phụ trách dạy NGLL-HN (chiếm 54,6%) và phụ huynh (chiếm 63,6%) mà chưa nhận thức rõ được vai trò của GVCN (chiếm 36,4%), GVBM (chiếm 22,7%) trong việc giáo dục kỹ năng này. Thực trạng này chứng tỏ, trong quá trình giáo dục KNS cho HS, nhà trường vẫn chưa chú ý phát huy vai trò của GVCN, GVBM, và bản thân các thầy cô giáo cũng chưa nhận thức đúng được vai trò quan trọng của mình trong việc giáo dục các kỹ năng này. Biểu đồ 2.9. Thực trạng đánh giá của GV về hoạt động góp phần giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS Qua số liệu khảo sát từ biểu đồ 2.9, có thể nhận thấy, đại đa số CBQL, GV nhận thấy rõ được vai trò của các hoạt động nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS, có 66,2% GV lựa chọn công tác Đoàn và phong trào thanh niên, 61% GV lựa chọn hoạt động NGLL – HN, tuy nhiên vẫn còn một số bộ phận CBQL, GV đánh giá chưa đúng vai trò của hoạt động lồng ghép kỹ năng vào dạy học kiến thức (chiếm 66,2%), sinh hoạt chủ nhiệm (chiếm 55,5%) và lồng ghép dạy kỹ năng trong các môn học (chiếm 51,9%). Điều này chứng tỏ việc giáo dục KNS nói chung và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ nói riêng trong nhà trường chưa tổ chức đa dạng, chưa có chiến lược kết hợp các hình thức hoạt động, đặc biệt là chưa chú trọng đến vai trò của GVCN, GVBM trong việc giáo dục KNS cho HS. 2.4.4. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, phụ huynh về sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho học sinh Để khảo sát nhận thức của CBQL, GV, HS và phụ huynh về sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cho HS, chúng tôi tiến hành khảo sát câu hỏi số 6 phụ lục 1, câu 5 phụ lục 2 và câu 4 phụ lục 3, thu được kết quả như sau: 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2