Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản
lượt xem 5
download
Mục tiêu nghiên của đề tài là sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) và đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Bước sang thế kỉ XXI, do tốc độ phát triển của xã hội hết sức nhanh chóng, với những biến đổi liên tục và khôn lường; để chuẩn bị cho thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống, vai trò của giáo dục ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước. Ở Việt Nam, hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI ngày 4.11.2013 đã thông qua chủ trương “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong giáo dục, quy trình đào tạo được xem như là một hệ thống bao gồm các yếu tố: mục tiêu, chương trình đào tạo, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học... Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học được coi là vấn đề then chốt của đổi mới giáo dục. Bộ môn Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử là một yêu cầu cấp thiết góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đã và đang được nhiều giáo viên quan tâm song còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu của xã hội. Nhiều giáo viên vẫn còn dạy theo lối truyền thống, sử dụng tư liệu lịch sử chỉ mang tính minh họa, không phát huy được tính tích cực của học sinh, do đó các em không hứng thú học tập môn Lịch sử và dẫn đến coi nhẹ bộ môn. Để khắc phục tình trạng trên một yêu cầu đặt ra đối với mỗi giáo viên Lịch sử là phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) ,lớp 10, Ban cơ bản”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. - Mục đích: Sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học phần Lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) và đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thưc hiện mục đích trên, đề tài tập trung vào giải quyết một số nhiệm vụ sau: 1
- + Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. + Tìm hiểu chương trình lịch sử phong kiến Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) từ đó xác định nội dung tư liệu lịch sử cần sử dụng và đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy học phần lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) . + Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp từ đó rút ra kết luận khoa học về việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản. - Phạm vi nghiên cứu: Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản. 4. Đóng góp của đề tài. - Khẳng định được vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông - Phản ánh được thực trạng sử dụng tư liệu lịch sử trong trường phổ thông - Đề xuất một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản. 2
- PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận và thực tiễn 1. Cơ sở lý luận 1.1. Quan niệm 1.1.1. Quan niệm về tư liệu lịch sử Lịch sử là những gì đã xẩy ra trong quá trình phát triển của xã hội loài người, đồng thời nó cũng tồn tại khách quan với chúng ta. Do xẩy ra trong quá khứ cho nên con người không thể quan sát trực tiếp các sự kiện, quá trình lịch sử đó; do vậy việc nhận thức lịch sử phải dựa vào nhiều tư liệu lịch sử khác nhau. Tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học lịch sử nói chung cũng như việc học lịch sử nói riêng. Khoa học lich sử tồn tại được trên cơ sở các sự kiện lịch sử, mà các sự kiện lịch sử lại là những tế bào cấu thành lịch sử mà các tế bào đó là từ các tư liệu lịch sử. Tư liệu lịch sử tồn tại cho khoa học lịch sử và ngược lại khoa học lịch sử không thể thiếu nó. Tư liệu lịch sử như một cầu nối nhà nghiên cứu với quá khứ nói cách khác nó như một thứ nguyên vật liệu để chế tạo ra sản phẩm khác. Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về tư liệu lịch sử: Theo phương diện xã hội, tư liệu lịch sử là một phương diện xã hội để bảo tồn, lưu giữ, truyền bá. Theo phương diện triết học Lapađanhiepxki định nghĩa tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật có thể được thu nhận tri thức của hiện vật khác. Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả những gì còn sót lại của cuộc sống đã qua. Rê-bans cho rằng tư liệu lich sử là tổng hợp thành quả từ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương diện xã hội. Trong Bách khoa toàn thư tư liệu lịch sử là những gì phản ánh trực tiếp quá khứ. Xét về mặt lý luận có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm tư liệu lịch sử. Song ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đó của con người. Như vậy, chúng ta có thể hiểu tư liệu lịch sử là các sự kiện, tài liệu mà mỗi giáo viên cần phải sưu tầm để tìm hiểu quá trình lịch sử đang học. Tư liệu càng sinh đông, phong phú bao nhiêu thì sự kiện càng cụ thể, càng hay bấy nhiêu. Trong dạy học lịch sử, điều kiện cơ bản nhất để tái tạo hình ảnh quá khứ là tư liệu lịch sử. Nếu không có nguồn tư liệu phong phú, không cung cấp được nguồn tư liệu cụ thể chân thực thì dù có vận dụng phương pháp giảng dạy nào đi chăng nữa cũng không thể đạt hiệu quả mong muốn. Nói như vậy để hiểu rằng, các nguồn tư liệu lịch sử có vai trò cực kì quan trọng, như nhà sử học Ba Lan J.iopolski đã viết: Tư liệu luôn là tài sản quý giá nhất của nhà sử học, không có 3
- nó ta không thể là nhà sử học. Và nếu xem một công trình nghiên cứu lịch sử là một món ăn thì các nguồn tư liệu chính là những sản phẩm, những gia vị để chế biến nên món ăn đó. Không có nguồn tư liệu lịch sử thì lịch sử không thể được viết ra “ không có cái gì có thể thay thế tư liệu, không có chúng thì không có lịch sử” Khoa học lịch sử có nguồn sử liệu hết sức phong phú và đa dạng. Tùy theo nội dung phản ánh và tính chất của sử liệu người ta thường chia tư liệu thành nhiều nhóm khác nhau nhưng tựu chung lại có ba nhóm tư liệu lịch sử chính: Tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật và tư liệu trực quan. Trong mỗi nhóm này lại bao gồm nhiều loại tư liệu mang những đặc điểm, nội dung phản ánh và xuất xứ khác nhau. Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối. Nhóm tư liệu thành văn: Tư liệu thành văn hay còn gọi là tư liệu chữ viết vì mọi nội dung lịch sử của nó đều được biểu thị bằng chữ viết. Nguồn tư liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng, đôi khi chiếm địa vị chủ yếu trong các nguồn sử liệu, có thể sử dụng trong giảng dạy bất cứ bài học lịch sử nào. Hơn nữa tư liệu thành văn có nội dung phong phú, gọn nhẹ, dễ sưu tầm và sử dụng. Với khối lượng lớn và hết sức đa dạng như vậy nên người ta đã chia tư liệu thành văn thành những nhóm hoặc loại khác nhau: có loại mang tính chất văn học như sử biên niên, hồi ký..., có loại mang tính chất khế ước, chế định như các loại văn tự, luật pháp... Song mọi sự phân loại chỉ có tính chất tương đối vì nguồn sử liệu này được viết ra không hoàn toàn theo những khuôn khổ nhất định cho một giai đoạn lịch sử. Dù được phân loại theo nhiều cách khác nhau, nhìn một cách tổng thể tư liệu thành văn có ưu điểm nổi bật là phản ánh tương đối toàn diện và chi tiết các sự kiện, nhất là về đời sống chính trị, xã hội. Cũng do ưu điểm đó, tư liệu thành văn bao giờ cũng được sử dụng phổ biến và tập trung hơn. Nhóm tư liệu hiện vật: là những sản phẩm trong quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người, tồn tại dưới dạng các hiện vật như các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ học. Tư liệu hiện vật cực kì phong phú và đa dạng. Đây chính là những tư liệu “biết nói” có giá trị rất lớn, không chỉ đối với các nhà nghiên cứu mà cả trong giảng dạy lịch sử, nó như một minh chứng nói lên sự thật lịch sử mà không ai chối bỏ được. Hiện nay chúng ta còn giữ được một số lượng di tích lịch sử khá lớn ở hầu khắp các địa phương trong cả nước. Thông qua các di tích này chúng ta có thể tiến hành các hoạt động ngoại khóa, tham quan trải nghiệm cho học sinh. Bên cạnh các di tích lịch sử, tư liệu hiện vật còn bao gồm các di vật khảo cổ học hiện đang được lưu giữ, trưng bày tại các bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân tộc học. Đây là những bằng chứng xác thực, trực quan sinh động rất hấp dẫn đối với học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức. 4
- Tư liệu trực quan: Bao gồm nhiều loại khác nhau như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, phim ảnh, băng ghi âm...Tư liệu trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng “ hiện đại hóa” lịch sử của học sinh. 1.1.2. Quan niệm, đặc điểm, yêu cầu về năng lực và dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử ở trường phổ thông. 1.1.2.1. Quan niệm về năng lực và dạy học năng lực. Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Chương trình giáo dục phổ thông của New Zealand đã định nghĩa năng lực: “ Năng lực là một khả năng hành động hiệu quả hoặc là sự phản ứng thích đáng trong các tình huống phức tạp nào đó” Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục cũng đã cố gắng định nghĩa khái niệm năng lực. F.E. Weinert cho rằng: “ Năng lực được thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể”; còn J. Coolahan thì viết rằng: năng lực được xem như là “những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông qua thực hành giáo dục”... Có thể thấy dù cách phát biểu có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên, hành động (làm) hay thực hiện ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kỹ năng, chứ không phải làm một cách máy móc, mù quáng, đúng như chương trình giáo dục phổ thông của Indonesia đã xác định: “ Năng lực là những kiến thức, kỹ năng và các giá trị được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Thói quen tư duy và hành động kiên trì, liên tục có thể giúp một người trở nên có năng lực, với ý nghĩa làm một việc gì đó trên cơ sở có kiến thức, kỹ năng và các giá trị cơ bản” Phân loại năng lực là một vấn đề rất phức tạp. Kết quả phụ thuộc vào quan điểm và tiêu chí phân loại. Nhìn vào chương trình thiết kế theo năng lực của các nước có thể thấy hai loại chính. Đó là năng lực chung và năng lực cụ thể, chuyên biệt. Năng lực chung là năng lực cơ bản thiết yếu của con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình thành và phát triển do một lĩnh vực hoặc môn học nào đó. 5
- Tiếp thu quan niệm về năng lực của các nước phát triển, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Việt Nam ( 7/2017) đã xác định: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Có hai loại năng lực lớn: Năng lực cốt lõi và năng lực đặc biệt. - Năng lực cốt lõi: là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả. - Năng lực đặc biệt: là những năng khiếu về trí tuệ, văn nghệ, thể thao, kỹ năng sống...nhờ tố chất sẵn có ở mỗi người. Cũng theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, năng lực cốt lõi gồm năng lực chung và năng lực chuyên môn. - Năng lực chung là năng lực được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển như: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. - Năng lực chuyên môn là năng lực được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Có thể nói, dạy học theo hướng nội dung lấy khối lượng kiến thức, kĩ năng làm mục tiêu hướng tới; do đó càng cung cấp nhiều nội dung, học sinh biết càng nhiều càng tốt. Cách dạy học này không quan tâm nhiều đến việc vận dụng kiến thức đã biết và hiểu vào thực hành, liên hệ và ứng dụng vào các tình huống của đời sống. Hệ quả học sinh có thể biết rất nhiều nhưng làm thì không được bao nhiêu; kiến thức rất uyên bác nhưng thực hành rất lúng túng, vụng về. Dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên của dạy học theo nội dung. Vì thế, mục tiêu cuối cùng của dạy học phát triển năng lực không phải là hệ thống kiến thức, là khối lượng nội dung, là biết thật nhiều mà là năng lực cần có để sống tốt hơn, làm việc hiệu quả hơn, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội đang thay đổi từng ngày. Như thế nội dung kiến thức ở đây là phương diện để đạt được mục đích cuối cùng là năng lực. Tư tưởng này chi phối cách lựa chọn nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Mỗi khi dạy một vấn đề, một kiến thức nào đó, người giáo viên cần phải xác định rõ dạy cái gì, để làm gì, giúp ích gì cho người học. Tuy nhiên, chú ý mục tiêu phát triển năng lực không có nghĩa là xem nhẹ kiến thức. Không có kiến thức thì không thể có năng lực. Kiến thức vẫn là cốt lõi để tạo ra năng lực. Năng lực giống như một khối bê tông trong đó tổng hợp 6
- nhiều chất liệu: sắt thép, xi măng, cát, sỏi, đá, nước và các chất phụ gia khác. Trong cái khối bê tông ấy sắt thép làm rường cột. Sắt thép chính là kiến thức. Tóm lại, dạy học phát triển năng lực vẫn coi trọng nội dung kiến thức tuy nhiên chỉ mình nội dung kiến thức chưa đủ; cần thay đổi cách dạy và cách học theo hướng học sinh chủ động tham gia kiến tạo nội dung kiến thức, vận dụng tri thức vào cuộc sống và hình thành phương pháp tự học để có thể học suốt đời. 1.1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử ở trường phổ thông. Năng lực môn Lịch sử là một thành phần của năng lực tìm hiểu xã hội trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Đối với học sinh cấp trung học phổ thông, yêu cầu tìm hiểu về năng lực xã hội bao gồm những nội dung sau đây: - Một là, hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội: Vận dụng được các nguyên tắc, phương pháp, kỹ thuật cơ bản thu thập và xử lý thông tin; Biết trình bày và phân tích các nhân vật, sự kiện, quá trình xã hội từ những góc độ, chiều cạnh khác nhau; Nắm được cách trình bày các ý kiến, lập luận, tranh luận về các vấn đề xã hội. - Hai là, nắm được các tri thức cơ bản về đối tượng của các khoa học xã hội: Hiểu được một số khái niệm cơ bản liên quan đến đối tượng của khoa học xã hội như: phân hóa xã hội, khác biệt xã hội và xung đột xã hội, chiến tranh, cách mạng, tiến bộ xã hội...; Hiểu được những tri thức cơ bản về một số đối tượng của khoa học xã hội như quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại, lịch sử các nền văn minh, giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa và giao lưu văn hóa, quá trình phát triển nhân cách, ... - Ba là, nắm được những tri thức cơ bản về xã hội loài người, hiểu được những quy luật chung của quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mối liên hệ với khu vực và thế giới; hiểu được các xu hướng vận động cơ bản của nhân loại trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật, quốc phòng và an ninh... - Bốn là, vận dụng những tri thức về xã hội và văn hóa vào cuộc sống: Biết tự nghiên cứu về một vấn đề của xã hội; Biết tham gia tranh luận về một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội đương đại, nhất là các vấn đề có liên quan đến thế hệ thanh niên hiện nay; Có thái độ tích cực với những chính sách của Nhà nước và biết cách tuyên truyền, giải thích cho gia đình, bạn bè, cộng đồng hiểu và tham gia ủng hộ; Có niềm tin vào tính đúng đắn của các chuẩn mực đạo đức và những giá trị xã hội tốt đẹp, có trách nhiệm đối với bản thân và xã hội. Trên cơ sở những yêu cầu về tìm hiểu xã hội, môn Lịch sử ở trường phổ thông giúp học sinh phát triển và hoàn thiện những năng lực chuyên môn Lịch 7
- sử, bao gồm: Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng lực nhận thức và tư duy Lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực tiễn giúp học sinh có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có khả năng xâu chuỗi các sự kiện lịch sử có liên quan, đưa ra nhận xét cá nhân về các sự kiện lịch sử, xây dựng năng lực phản biện và sáng tạo, từ đó có khả năng vận dụng những kinh nghiệm lịch sử vào thực tiễn, dùng tri thức lịch sử để giải thích những vấn đề hiện tại. Trên nền tảng đó, học sinh được truyền cảm hứng để yêu thích môn Lịch sử, có định hướng để lựa chọn nghề nghiệp, đồng thời trân trọng truyền thống lịch sử, di sản lịch sử. Năng lực tìm tòi khám phá lịch sử : Thể hiện qua việc nhận diện và sử dụng tư liệu lịch sử, phân biệt được các loại hình tư liệu lịch sử ( văn bản chữ viết, hiện vật lịch sử, tranh ảnh, biểu đồ, bản đồ...), hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. Tái hiện và trình bày lịch sử như mô tả, trình bày (nói hoặc viết) diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp, xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể. Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử : Thể hiện qua việc giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lý giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử. Đưa ra những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử. Năng lực vận dụng kiến thức lịch sử vào thực tiễn: Thể hiện qua khả năng kết nối quá khứ với hiện tại, vận dụng kiến thức lịch sử để lý giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Trên nền tảng đó, học sinh có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời. 1.1.3. Quan niệm về sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không có nghĩa là để cho học sinh tự làm việc với các tư liệu lịch sử trong giờ học bộ môn, càng không phải giáo viên đặt nhiều câu hỏi đối với các tư liệu lịch sử mà mình đưa ra cho các em, cũng không phải càng sử dụng được nhiều tư liệu lịch sử trong một giờ học lịch sử là đã phát huy được tính tích cực của các em. Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nghĩa là trong các hoạt động học tập, giáo viên luôn điều khiển, hướng dẫn các em chủ động làm 8
- việc với các tư liệu lịch sử để tự mình tạo được các biểu tượng lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó hình thành các khái niệm và rút ra các quy luật, bài học lịch sử. Khi sử dụng các tư liệu lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, các em luôn tỏ ra thích thú, chú ý học tập, hăng hái tham gia phát biểu ý kiến, ghi chép bài. Chủ động tìm thêm các tư liệu khác ngoài tư liệu mà giáo viên cung cấp, luôn hứng thú học tập, hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà thầy cô giao cho. Ham mê nghiên cứu và vận dụng những kiến thức đã học vào học tập và lao động. Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh, các em sẽ độc lập, chủ động làm việc với các tư liệu, giải quyết các vấn đề dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giáo viên. 1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh. Tư liệu lịch sử là phương tiện cần thiết đối với việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông. Mỗi loại loại tư liệu có một vị trí cụ thể trong việc sử dụng và có vai trò nhất định đối với hiệu quả bài học. Sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa to lớn về mặt kiến thức, kĩ năng và thái độ. Về mặt kiến thức: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tư liệu lịch sử là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng cho học sinh. Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có ý nghĩa to lớn về mặt bồi dưỡng kiến thức cho học sinh. Tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính chất sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của các em. Trong dạy học lịch sử, giáo viên hướng dẫn, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh thông qua hệ thống các tư liệu lịch sử khiến các em tích cực hoạt động, phát huy trí sáng tạo, lựa chọn tốt các kiến thức từ các tư liệu lịch sử và tạo biểu tượng lịch sử. Khi đã tạo được những biểu tượng lịch sử quá khứ chân thực, cụ thể, giúp học sinh tránh được hiện tượng “hiện đại hóa” lịch sử. Ví dụ, khi dạy về “Tình hình Nông nghiệp nước ta ở các thế kỷ XVI- XVIII”, giáo viên sử dụng các tư liệu thành văn sau: “Nhiều người nuớc ngoài có mặt thời đó đã rất ngợi ca sự trù phú của đất đai. Giáo sĩ Marini trong tập ký sự về Đường ngoài đã để hẳn một chương để mô tả "sự màu mỡ của Vương quốc" này ("Vương quốc xứ Đàng ngoài"). Marini viết: "Đất đai màu mỡ và không lúc nào nghỉ sản xuất. Nhân dân rất hiểu giá trị của ruộng đất nên không bỏ hoang và những người nội trợ giỏi, sau khi thu hoạch mùa màng xong, lập tức lại cày bừa ngay và gieo hạt. Và như vậy mỗi năm họ thường thu được 2, 3 vụ. Ở những nơi nào không trồng lúa được thì họ trồng cây ăn quả và thu hoạch 9
- lớn. Cây cối tươi tốt đến nỗi lúc nào cũng chỉ thấy một màu xanh tựa như một khu rừng với một mùa xuân vĩnh viễn". Về giống lúa, theo ghi chép của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII: Vùng châu thổ sông Hồng có 8 giống lúa chiêm, 27 giống lúa mùa, 29 giống lúa nếp. Nông nghiệp Đàng Trong có 26 giống lúa nếp, 23 giống lúa tẻ. "Tháng tư hàng năm lúa chín đầy đồng, gặt hái không kịp, mỗi mẫu thu hoạch từ 90 đến 120 gánh lúa." Theo giáo sĩ Bo-ri: "Đất đai màu mỡ và sinh lợi....đến nỗi hàng năm họ gặt lúa 3 lần, thu hoạch được một lượng thóc phong phú đến mức không ai cần lao động thêm để kiếm sống....quanh năm họ có nhiều hoa quả, những thứ lạ như dưa bở, dưa chuột, dưa hấu, mít, sầu riêng, dừa, trầu cau, bắp cải, thuốc lá, mía....đồng ruộng của họ đầy những gà vịt nhà và gà rừng." Trên cơ sở những tư liệu trên giúp học sinh hiểu được sự phát triển trù phú của Nông nghiệp với nhiều loại giống cây trồng phong phú. Việc sử dụng tư liệu lịch sử sẽ giúp học sinh ít tốn công sức mà thu nhận có hiệu quả kiến thức lịch sử; những đoạn trích ngắn gọn, súc tích giúp học sinh xích lại gần hơn với hiện thực quá khứ. Bên cạnh đó việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh góp phần nâng cao trình độ nhận thức của học sinh. Lịch sử phản ánh những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, khi học sinh được dựng lại bức tranh trong quá khứ cũng là lúc các em tự trau dồi cho mình những kiến thức của nhân loại. Ví dụ, khi học về “Những thành tựu văn hóa nước ta thời phong kiến”, giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm và viết báo cáo về sự hiểu biết các công trình kiến trúc thời đó. Thông qua đó, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét về nghệ thuật kiến trúc nước ta thời phong kiến. Khi các em tự sưu tầm và tìm hiểu về các công trình nghệ thuật kiến trúc dưới sự định hướng của giáo viên thì sự hiểu biết về văn hóa của các em được nâng lên đáng kể. Về thái độ: Việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh không chỉ giúp học sinh có biểu tượng chính xác, sinh động về sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn khơi dậy cho các em những cảm xúc lịch sử, là cơ sở để giáo dục đạo đức cho học sinh. Ví dụ khi dạy về “Các cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên thời Trần ở thế kỉ XIII” giáo viên trích dẫn lời “Hịch tướng sỹ” của Trần Hưng Đạo và những câu trả lời của Trần Hưng Đạo đối với vua Trần trong kế sách đánh giặc. Từ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra được nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và giải thích vì sao nhân dân lại đoàn kết với triều đình để chống giặc. Qua đó khơi dậy lòng yêu nước, khâm phục và biết ơn đối với các anh hùng dân tộc từ đó các em có ý thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc. Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh đòi hỏi học sinh phải tự làm việc nhiều với các nguồn tư liệu, điều này góp phần rèn luyện cho 10
- các em tinh thần chuyên cần, hăng say và sáng tạo trong lao động và học tập, chủ động trong công việc. Về phát triển: Sử dụng tư liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh có tác dụng to lớn trong việc phát triển toàn diện học sinh đặc biệt là tư duy. Để hiểu các sự kiện hiện tượng lịch sử một cách cụ thể, sinh động, học sinh phải chủ động quan sát, tri giác, phát huy trí tưởng tượng, phán đoán, so sánh, đối chiếu những sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm hiểu bản chất của vấn đề. Khi học sinh tích cực độc lập hoạt động tư duy nhận thức, làm việc với các tư liệu lịch sử sẽ giúp các em phát triển ngôn ngữ, trí nhớ và tư duy của mình. Ví dụ, khi dạy chủ đề “Văn hóa Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX” giáo viên hướng dẫn học sinh tìm các tư liệu lịch sử nói tình hình tôn giáo nước ta giai đoạn này hoặc giáo viên cung cấp cho các em tư liệu lịch sử về tôn giáo nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX rồi hướng dẫn học sinh tự làm việc với các tư liệu thông qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên. - Vì sao Phật giáo trở thành “Quốc giáo” thời Lí, Trần? - Nho giáo du nhập vào nước ta khi nào, vị trí của nó qua các thời kì ? Vì sao từ thời Lê sơ Nho giáo giữ vị trí độc tôn và Phật giáo bị hạn chế? - Nhà Nguyễn có chính sách gì trước sự du nhập Thiên chúa giáo ? Vì sao? Để trả lời các câu hỏi trên, học sinh phải đọc các tư liệu mà giáo viên cung cấp, phải nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá, rút ra kết luận. Thông qua việc hoàn thành nhiệm vụ học tập đó sẽ giúp cho học sinh phát triển được khả năng tri giác. Mặt khác việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh góp phần phát triển các thành phần nhân cách của các em. Khi sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sẽ tạo ra trong các em những cảm xúc lịch sử như sự yêu ghét, khâm phục hay căm thù, kích thích các hứng thú học tập, ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ. Bằng sự tích cực tư duy, chủ động hoạt động học tập, sáng tạo qua sử dụng tư liệu lịch sử và kiến thức trong sách giáo khoa, các em sẽ trở nên năng động hơn, tự tin, linh hoạt trước tập thể và ngày càng làm chủ được kiến thức của mình. Chẳng hạn khi dạy về “Sự thành lập và chính sách của nhà Mạc” giáo viên nêu rõ những ý kiến đánh giá khác nhau về Mạc Đăng Dung. Có ý kiến cho rằng: “Mạc Đăng Dung là kẻ “ nghịch thần”, cướp ngôi nhà Lê, đáng bị lên án. Tuy nhiên lại có nhận định cho rằng sự xuất hiện của Mạc Đăng Dung trên chính trường là một tất yếu, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội lúc bấy giờ. Ông là một danh nhân, có công lao lớn đối với lịch sử dân tộc”. Quan điểm của em trước những ý kiến trên. Để trả lời được câu hỏi trên đòi hỏi học sinh phải căn cứ vào hoàn cảnh thành lập, chính sách của nhà Mạc kết hợp với tư liệu lịch sử để phân tích, rút ra nhận xét. Với các hoạt động như vậy sẽ giúp học sinh phát triển tư duy phản 11
- biện, khả năng diễn giải, lập luận từ đó có thái độ nhận thức đúng đắn về nhà Mạc nói chung và Mạc Đăng Dung nói riêng đối với lịch sử dân tộc. Như vậy, việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh có tác dụng thiết thực trong việc bồi dưỡng nhận thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức đúng đắn và phát triển toàn diện học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, các trường trung học phổ thông đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được giáo viên áp dụng vào dạy học, đặc biệt trong môn lịch sử. Tuy nhiên, tình trạng sử dụng tư liệu lịch sử vào dạy học bộ môn vẫn chưa phổ biến. Trong quá trình dạy học ở trường THPT, tôi đã tiến hành điều tra thực trạng của việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học bộ môn tại các trường THPT trên địa bàn. 2.1. Về phía giáo viên Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 6 giáo viên môn lịch sử và thu được kết quả như sau: Tiêu chí Mức độ % Rất thích 10 Đánh giá về hứng thú học Thích 30 tập của học sinh hiện nay Bình thường 50 Không quan tâm 10 Là nguồn kiến thức, giúp cụ thể hóa 70 những kiến thức có trong sách giáo khoa Vai trò của tư liệu tham khảo trong dạy học lịch Có tính chất minh họa cho nội dung sự 10 kiện có trong sách giáo khoa sử Sử dụng cũng được, không sử dụng 10 cũng được Chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh 10 Tác dụng của việc sử Nắm vững kiến thức 10 dụng tư liệu lịch sử trong Giáo dục tư tưởng tình cảm 10 dạy học Phát triển khả năng phân tích, đánh giá 10 Tất cả các ý trên 70 Gợi mở để học sinh tự tìm hiểu 50 Phương pháp sử dụng tư Tự nêu nội dung các tài liệu lịch sử 30 liệu Sử dụng có tính chất minh họa, hình 20 12
- thức Nghiên cứu kiến thức mới 65 Củng cố, ôn tập, kiểm tra kiến thức cho Sử dụng tư liệu cho 8 học sinh những hoạt động Tự học ở nhà của học sinh 7 Tổ chức ngoại khóa 20 2.1.1. Nhận thức của giáo viên về việc sử dụng tư liệu lịch sử trong dạy học bộ môn. Có 70% giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử đối với hoạt động học của học sinh. Họ hiểu rằng, tư liệu lịch sử thực sự là một nguồn cung cấp kiến thức và khai thác các nguồn tư liệu lịch sử là một yêu cầu không thể thiếu được đối với mỗi bài giảng nhằm đạt mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Tuy nhiên vẫn còn 30% giáo viên cho rằng, sử dụng tư liệu lịch sử trong bài học lịch sử chỉ có tính chất nhắc lại nội dung sự kiện hoặc chỉ gây hứng thú nhất thời cho học sinh do đó ít quan tâm đến việc sưu tầm, tìm kiếm tư liệu phục vụ cho bài giảng mà nặng về cung cấp kiến thức sách giáo khoa khiến cho giờ học nặng nề, hiệu quả bài học không cao. 2.1.2. Phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của giáo viên trong dạy học bộ môn. Để gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh cần sử dụng kết hợp đa dạng, phong phú các phương pháp dạy học trong đó sử dụng các tư liệu lịch sử có tác dụng lớn để gây hứng thú học tập cho học sinh. Hơn nữa tư liệu là một nguồn tri thức lịch sử làm phong phú thêm kiến thức cho học sinh, tăng cường khả năng làm việc của các em. Trong dạy học lịch sử nếu chỉ dựa trên những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa thì bài giảng nhiều khi trở nên nhàm chán, vì có những kiến thức học sinh đã nắm được thông qua các lớp dưới hay một số kênh thông tin khác. Cho nên giáo viên cần sử dụng có hệ thống nguồn tư liệu được chọn lọc và phù hợp, đảm bảo tính khoa học và vừa sức, không khiên cưỡng. Hiệu quả của việc sử dụng tư liệu tăng lên gấp bội nếu giáo viên biết dựa vào tư liệu lịch sử để nêu ra các tình huống có vấn đề bằng cách xây dựng một hệ thống câu hỏi có tính chất gợi mở và gợi ý cho học sinh trả lời. Tuy nhiên những câu hỏi của giáo viên đưa ra phải phù hợp với trình độ và phát huy được trí lực của học sinh, tránh lan man, xa trọng tâm bài giảng. Sử dụng tư liệu lịch sử thuần phục trong mỗi bài học thông qua cách nêu câu hỏi có tính chất hướng dẫn hoạt động nhận thức của học sinh và gợi ý, khích lệ học sinh chủ động trả lời, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản và lôgic của bài học một cách chắc chắn. Đúng như Brune đã khẳng định: “Hứng thú chỉ có thể có được từ tài liệu học tập bằng cách hình thành việc học tập như một hành vi khám phá. Kiến thức 13
- thu nhận bằng con đường tự khám phá là kiến thức vững chắc nhất, đáng tin cậy nhất”. Do có những nhận thức không đồng nhất về vai trò, ý nghĩa của tư liệu lịch sử đối với việc học tập của học sinh nên phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử của giáo viên trong các giờ học cũng khác nhau. Có 50% giáo viên sử dụng tư liệu gợi mở để học sinh tự tìm hiểu, 20% giáo viên sử dụng tư liệu có tính chất minh họa. Về phương pháp sử dụng tư liệu lịch sử, có 65% giáo viên sử dụng tư liệu để nghiên cứu kiến thức mới và 35% giáo viên sử dụng tư liệu cho các hoạt động khác. Như vậy, qua phiếu điều tra cho thấy giáo viên chưa tận dụng dụng hết vai trò của tư liệu lịch sử khi giảng dạy và việc sử dụng các loại tư liệu như tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật, tư liệu phim, tranh ảnh, bản đồ nhằm tăng tính trực quan cho bài dạy hay các hoạt động nhóm, dự án học tập nhằm tăng tính tích cực, chủ động của học sinh lại chưa được giáo viên lựa chọn triển khai thường xuyên và hiệu quả. Hơn nữa về mức độ giáo viên hỗ trợ, hướng dẫn học sinh trong quá trình học tập, hầu hết giáo viên đều quan tâm đến việc kiểm tra kiến thức, kĩ năng nền của học sinh khi bắt đầu môn học. Về vấn đề tìm hiểu mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học Lịch sử, tìm hiểu những nội dung trong môn học mà học sinh quan tâm, xác định phong cách học và hướng dẫn học sinh phương pháp học phù hợp, tìm hiểu thuận lợi, khó khăn của học sinh trong học tập chưa được giáo viên quan tâm nhiều vì vậy việc sưu tầm và khai thác tư liệu lịch sử phục vụ cho dạy học chỉ diễn ra ở một bộ phận giáo viên còn đa số giáo viên dạy chay. Điều này dẫn đến việc học sinh chưa biết cách học lịch sử, phần lớn học sinh chỉ học thuộc những gì giáo viên cho ghi chép trên lớp, hoặc học trong sách giáo khoa mà không được tiếp cận với các tư liệu khác nên mức độ hứng thú học tập đối với môn lịch sử chưa cao. 2.2. Về phía học sinh Thông qua phiếu điều tra, chúng tôi đã điều tra 90 học sinh và thu được kết quả như sau: Tiêu chí Mức độ % Rất yêu thích 30 Môn học lịch sử ở trường phổ thông đối Bình thường 50 với em như thế nào? Không quan tâm 20 Trong giờ học lịch sử, nếu thầy (cô) Rất hấp dẫn và dễ hiểu 85 14
- giáo sử dụng tư liệu lịch sử em sẽ cảm Bình thường 10 thấy thế nào? Không quan tâm 5 Thầy (cô) giáo có thường xuyên hướng Thường xuyên 60 dẫn các em tìm hiểu nội dung tư liệu Thi thoảng 40 lịch sử trong và ngoài sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức hay không? Không 0 Nghiên cứu kiến thức mới 65 Thầy (cô) giáo thường sử dụng tư liệu Củng cố, ôn tập, kiểm tra, 10 lịch sử cho những hoạt động học tập đánh giá nào? Hoạt động ngoại khóa 15 Tự học ở nhà 10 2.2.1. Mức độ yêu thích môn lịch sử của học sinh Hình thức tổ chức dạy học trong môn Lịch sử đã chú trọng đến việc đa dạng hóa, trong đó ngoài giờ học trên lớp là chính, các trường còn tổ chức các hoạt động ngoại khóa về Lịch sử địa phương, về các di tích lịch sử, về các nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu... tại bảo tàng, di tích lịch sử. Các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức đã góp phần nâng cao nhận thức và bồi dưỡng tình cảm của học sinh với lịch sử dân tộc. Mặt khác, một số giáo viên có phương pháp giảng dạy tốt, bài giảng có thêm nhiều tư liệu, kênh hình sinh động tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy đa số học sinh hiện nay ngày càng yêu thích môn Lịch sử hơn điều này được thể hiện rõ trong kết quả kì thi THPT Quốc gia. Nếu như kì thi THPT Quốc gia năm 2018 có tới 83,24% thí sinh có điểm dưới trung bình môn Lịch sử và 11 thí sinh đạt điểm 10 môn Lịch sử thì kì thi THPT Quốc gia năm 2019 có 70% thí sinh có điểm dưới trung bình và số bài thi đạt điểm 10 là 87 bài, phổ điểm thi từ 8 trở lên cao gấp 3 lần năm 2018. Qua phiếu điều tra khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn cho thấy có 30% học sinh rất thích học lịch sử, 50% học sinh mức độ yêu thích bình thường. Điều này chứng tỏ chất lượng môn Sử ngày càng cải thiện hơn đồng nghĩa học sinh ngày càng yêu thích môn Lịch sử hơn. 15
- Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận học sinh( 20%) chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của môn Lịch sử, coi môn Sử là môn phụ, coi đó là môn học của các sự kiện, của năm tháng và của trí nhớ, khô khan, nhàm chán nên có thái độ bàng quan khi học lịch sử. 2.2.2. Sự hứng thú và nhận thức của học sinh đối với tư liệu lịch sử Theo từ điển Tiếng Việt: “hứng thú là sự thích thú, ham mê”, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nẩy sinh khát vọng hành động và hành động sáng tạo, làm tăng sức làm việc. Hứng thú có nhiều loại gồm hứng thú nghệ thuật, hứng thú thể thao, hứng thú nhận thức.., trong đó hứng thú nhận thức có vị trí quan trọng nhất. Hứng thú nhận thức tạo ra động cơ quan trọng nhất của học tập, là cơ sở thái độ của học sinh đối với học tập, là nguồn gốc thúc đẩy học sinh học tập một cách say mê. Hứng thú nhận thức không chỉ là sự kích thích bên ngoài mà còn là sự kích thích bên trong của bản thân học sinh, chính kích thích bên trong mới duy trì lâu dài được hứng thú và hứng thú được một cách bền vững mới có thể trở thành động cơ hoạt động học tập của học sinh. Hứng thú học tập lịch sử là thái độ say mê, tự giác tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể. Muốn hình thành được hứng thú học tập ở học sinh, trước hết cần thu hút học sinh vào bài học. Thực tế không phải học sinh nào cũng thờ ơ với môn Lịch sử. Thông qua kết quả phiếu điều tra thực tiễn ở trường phổ thông cho thấy: Khi được hỏi, trong các giờ học lịch sử nếu thầy( cô) sử dụng tư liệu lịch sử các em cảm thấy thế nào? Có tới 85% học sinh trả lời hấp dẫn và dễ hiểu, chỉ có 10% cho là bình thường đối với các tư liệu lịch . Như vậy, sử dụng tư liệu lịch sử trong giờ học và sử dụng phương pháp đúng sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo niềm đam mê yêu thích môn học. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng nhận thức được điều đó, hầu hết giáo viên chỉ sử dụng các tư liệu lịch sử để nghiên cứu kiến thức mới ( 65%) và ít khi sử dụng tư liệu lịch sử vào các khâu học tập khác. Như vậy qua tìm hiểu thực tế ở một số trường phổ thông, tôi có thể rút ra kết luận sau: Học sinh ngày cảng yêu thích môn lịch sử hơn trước và mong muốn có những giờ học lịch sử sinh động, được làm việc với nhiều tư liệu lịch sử khác nhau dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có nhiều giáo viên hiểu được tâm lý của học sinh, nhận thức đúng về tầm quan trọng của tư liệu lịch sử. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của tư liệu lịch sử trong giảng dạy vì vậy những giờ dạy của họ thường nhàm chán và khô khan. Ngược lại một số giáo viên lại quá lạm dụng tư liệu lịch sử làm cho bài học trở nên nặng nề, dàn trải kiến thức, biến giờ học lịch sử thành giờ kể chuyện lịch sử. 16
- Nhiều giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng gợi mở cho học sinh tự tìm hiểu. Đây là một phương pháp hay để phát triển năng lực học sinh song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận giáo viên không chú ý đến việc sử dụng các tư liệu lịch sử trong giờ học. Phần lớn giáo viên chỉ sử dụng tư liệu lịch sử trong khâu nghiên cứu kiến thức mới còn các khâu khác thường ít hoặc không sử dụng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng giáo viên không sử dụng hoặc sử dụng tư liệu lịch sử chưa hợp lý là do một bộ phận giáo viên chưa tâm huyết với nghề, họ lên lớp cho xong nhiệm vụ hoặc họ ngại sưu tầm tìm hiểu những tư liệu hoặc giáo viên chuẩn bị rất tốt nhưng học sinh thiếu sự hợp tác với thầy cô nên giáo viên sử dụng tư liệu lịch sử một cách qua loa, mang tính hình thức. Cũng có nhiều giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của tư liệu lịch sử nên sử dụng tư liệu chủ yếu mang tính minh họa chứ chưa phải là nguồn khai thác kiến thức làm cho giờ học trở nên dàn trải, không cô đọng kiến thức, không phát huy được tính tích cực của học sinh. Tóm lại tư liệu lịch sử là một phương tiện quan trọng để cụ thể hóa kiến thức lịch sử đang học, nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng, cụ thể, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của các em. Tư liệu lịch sử là nguồn cung cấp kiến thức quý báu, cho nên đòi hỏi mỗi giáo viên khi giảng dạy phải biết khai thác và sử dụng nó một cách hợp lý. Cùng với việc đổi mới phương pháp, đổi mới chương trình và sách giáo khoa thì việc sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh là một trong những biện pháp ưu việt góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có những chuyển biến tích cực về vấn đề sử dụng tư liệu lịch sử song việc sử dụng chủ yếu mang tính hình thức. Vì vậy cần phải tìm ra các biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. II. Một số biện pháp sử dụng tư liệu lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh khi dạy phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản” 1. Vị trí, mục đích, nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản” 1. 1. Vị trí Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, ban cơ bản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc; là cầu nối giữa kiến thức lịch sử dân tộc các giai đoạn trước với giai đoạn sau, tạo thành một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh giúp học sinh có những tri thức cơ bản, sâu rộng về lịch sử dân tộc. Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) là thời kì đất nước độc lập, tự chủ sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Mặc dù giành lại được nền độc lập, tự chủ nhưng bọn phong kiến 17
- phương Bắc vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm nước ta. Vì vậy từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lao động, chiến đấu hi sinh gian khổ song cũng rất anh dũng, kiên cường. Thông qua bài học về thời kì này góp phần giáo dục các em niềm tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống đấu tranh, lòng biết ơn sâu sắc với những người có công với nước và có thái độ tích cực học tập, lao động để noi gương các thế hệ cha anh đi trước. Tóm lại ngiên cứu lịch sử phong kiến Việt Nam( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) có vị trí rất quan trọng giúp học sinh có được những tri thức về lịch sử dân tộc, rèn luyện cho các em năng lực, phẩm chất cá nhân, góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức yêu nước, niềm tự hào dân tộc, có ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. 1.2. Mục đích Học xong Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), học sinh cần đạt được: Về kiến thức: Giúp học sinh hiểu rõ tình hình đất nước ta sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc trải qua những thăng trầm lịch sử. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là thời kì buổi đầu của đất nước độc lập, tự chủ. Đây là thời kì hình thành, củng cố, phát triển và hoàn chỉnh của nhà nước phong kiến dân tộc. Từ thế kỉ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kì chia cắt cát cứ, bước đầu khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Đến nửa đầu thế kỉ XIX dưới vương triều nhà Nguyễn nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và nền thống nhất đất nước được củng cố. Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX là thời kì đất nước độc lập, tự chủ đồng thời cũng là thời kì dân tộc ta thường xuyên phải cầm vũ khí đứng lên đấu tranh chống quân xâm lược bảo vệ nền độc lập dân tộc. Biết và hiểu được trải qua các thế kỷ độc lập, mặc dù đôi lúc còn có nhiều biến động khó khăn, nhân dân ta vẫn xây dựng cho mình nền kinh tế đa dạng, tự chủ và hoàn chỉnh. Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp, tuy có nhiều mâu thuẫn trong vấn đề ruộng đất, nhưng những yếu tố cần thiết phát triển nông nghiệp vẫn được phát triển như: Thuỷ lợi, mở rộng ruộng đất, tăng các loại cây trồng phục vụ đời sống ngày càng cao. Thủ công nghiệp ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng được nâng cao không chỉ phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương nghiệp phát triển. Trong hoàn cảnh của chế độ phong kiến, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ và làm cho xã hội ngày càng phân hóa sâu sắc. Trình bày được những thành tựu điển hình của văn hóa Việt Nam thời phong kiến ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX). Phân tích được nét chính của bản sắc văn hóa Việt Nam, giải thích được sự giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác. 18
- Về kỹ năng: Học phần lịch sử Việt Nam thời phong kiến( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX) rèn luyện cho học sinh các năng lực như năng lực tri giác, tưởng tượng; năng lực khai thác và xử lý tư liệu lịch sử, năng lực tư duy lịch sử, xâu chuỗi các sự kiện, phân tích, so sánh và đánh giá lịch sử, liên hệ thực tế. Về thái độ: Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam và lòng biết ơn sâu sắc với những người có công với nước. Bồi dưỡng cho học sinh ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước thống nhất. Giáo dục cho học sinh lòng yêu nước đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn đất nước, biết trân trọng và có ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, biết kết hợp văn hóa truyền thống với hiện đại. Từ đó có trách nhiệm đối với quê hương đất nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Đồng thời bồi dưỡng cho các em niềm say mê học tập và cống hiến cho đất nước. 1.3. Nội dung cơ bản của phần Lịch sử phong kiến Việt Nam (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX), lớp 10, Ban cơ bản”. Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX, lịch sử phong kiến Việt Nam mặc dù trải qua những bước thăng trầm lịch sử song đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Về chính trị: Với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã mở ra thời kì độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc. Song sau hơn 1000 năm Bắc thuộc nhiều yêu cầu lịch sử được đặt ra mà trước mắt là phải giữ vững an ninh và thống nhất đất nước; đánh lại các cuộc xâm lược của nước ngoài, bảo vệ nền độc lập tự chủ của Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu đó, năm 939 Ngô Quyền xưng vương thành lập chính quyền mới, đóng đô ở Đông Anh – Hà Nội. Việc làm trên của Ngô Quyền đã khẳng định chủ quyền độc lập, tự chủ của một nhà nước thực sự, lâu dài và vững chắc. Ở thế kỉ X trải qua các triều đại Ngô – Đinh -Tiền Lê nhà nước độc lập tự chủ theo thiết chế quân chủ chuyên chế đã được xây dựng. Tuy còn sơ khai song đã là nhà nước độc lập tự chủ của dân tộc ta. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, trải qua các triều đại Lí -Trần -Hồ - Lê sơ, nền độc lập ngày càng được củng cố, nhà nước quân chủ ngày càng được phát triển, hoàn thiện và tổ chức chặt chẽ. Đến đầu thế kỷ XVI, nhà nước phong kiến lâm vào khủng hoảng sâu sắc: Vua ăn chơi sa đọa, quan lại hoành hành ức hiếp nhân dân làm cho đời sống nhân dân khổ cực , mâu thuẫn xã hội gay gắt và nông dân nổi dậy đấu tranh ở nhiều nơi. Lợi dụng tình hình, các tập đoàn phong kiến hợp quân đánh nhau tranh chấp địa vị, quyền lực. Từ đó gây nên tình trạng chia cắt, cát cứ trong các thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, đó là thời kỳ Nam - Bắc triều và thời kỳ Trịnh - Nguyễn dẫn đến đất nước bị chia cắt lâu dài thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đến đầu thế kỉ XIX, sau khi đánh bại các vương triều Tây Sơn, làm chủ cả Đàng 19
- Trong và Đàng Ngoài, nhà Nguyễn khôi phục và tăng cường quyền lực của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đồng thời củng cố nền thống nhất đất nước. Tuy là thời kì đất nước độc lập, tự chủ song nước ta luôn phải cầm vũ khí chống lại các thế lực ngoại xâm như hai lần kháng chiến chống Tống ( thời Tiền Lê, thời Lý), ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên (thời Trần), kháng chiến chống Minh ( thời Hồ), kháng chiến chống Xiêm và chống Thanh (vương triều Tây Sơn). Trải qua các cuộc đấu tranh, lòng yêu nước được phát triển và tôi luyện trở thành truyền thống yêu nước. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi không chỉ làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc với hàng loạt chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng – Xương Giang, Rạch Ngầm – Xoài Mút, Ngọc Hồi – Đống Đa... mà còn khắc sâu thêm tình yêu Tổ quốc trong lòng người dân Việt Nam. Về kinh tế: Đây là thời kì xây dựng một nền kinh tế toàn diện và tự chủ với đặc điểm lớn là sự phối hợp đều đặn giữa nhân dân với nhà nước. Các triều đại phong kiến có nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế như làm lễ cày tịch điền (thời Tiền Lê, Lý), ban hành chính sách quân điền (thời Lê sơ, thời Nguyễn), quan tâm đến công tác thủy lợi (thời Lý, Trần, Lê sơ, Nguyễn...). Nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến chủ yếu là nông nghiệp; thủ công nghiệp ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú chất lượng sản phẩm được nâng cao không chỉ phục vụ trong nước mà còn góp phần trao đổi với nước ngoài. Thương nghiệp phát triển và mở rộng, không những buôn bán với các nước châu Á mà còn mở rộng buôn bán với cả các nước phương Tây. Thuyền buôn nước ngoài đến nước ta ngày một nhiều. Tuy nhiên đến giữa thế kỉ XVIII do chế độ thuế khóa phức tạp, quan lại khám xét phiền phức nên hoạt động buôn bán với bên ngoài suy yếu dần đặc biệt dưới thời Nguyễn, nhà nước giữ độc quyền ngoại thương và hạn chế buôn bán với các nước phương Tây. Chính sách “trọng nông, ức thương” của nhà Nguyễn khiến nền kinh tế phát triển què quặt, công thương nghiệp không được tạo điều kiện để giải thoát khỏi sự bế tắc của nông nghiệp, chưa mở đường cho quan hệ sản xuất mới nảy sinh; chính sách “bế quan tỏa cảng” đã hạn chế quan hệ buôn bán với nước ngoài đặc biệt hạn chế buôn bán với các nước tư bản phương Tây, không tạo điều kiện cho sự giao lưu và mở rộng sản xuất, khiến cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Kết quả là công thương nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân bị bần cùng, tiềm lực đất nước ngày càng suy giảm. Về văn hóa: Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử, nhiều thành tựu văn hóa của đất nước trở thành di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể của nhân loại, với những danh nhân văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Nền tảng cho các thành tựu văn hóa nổi bật đó chính là giai đoạn lịch sử dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Đây là thời kì giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác. Mặc dù có sự du nhập của các nền văn hóa khác nhau nhưng nhân 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sử dụng các biến nhớ của máy tính điện tử cầm tay trong chương trình Toán phổ thông
128 p | 148 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ phân bố thời gian giúp học sinh giải nhanh bài tập trắc nghiệm liên quan đến thời điểm và khoảng thời gian trong mạch dao động
24 p | 25 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 10, 12
31 p | 66 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống, khắc sâu kiến thức Hoá học hữu cơ lớp 12 cơ bản
30 p | 43 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bản đồ tư duy (mind map) để tổng hợp kiến thức ôn thi tốt nghiệp và đại học cho học sinh khối 12
6 p | 55 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục ý thức chống rác thải nhựa qua dạy học môn GDCD 11 trường THPT Nông Sơn
33 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang
21 p | 48 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học cho học sinh theo chủ đề tích hợp liên môn trong bài “Khái niệm mạch điện tử - chỉnh lưu - nguồn một chiều” chương trình công nghệ 12 ở trường THPT Y
55 p | 62 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng hệ thống bài tập hóa học có nhiều cách giải để phát triển năng lực tư duy cho học sinh
106 p | 25 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bảng hệ thống kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông phần Lịch sử Việt Nam (1919-1945)
47 p | 40 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số tư liệu lịch sử Bình Long trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 -1975
16 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn