Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường giáo dục di sản văn hóa Cửa Lò cho HS THPT trên địa bàn góp phần quảng bá du lịch địa phương
lượt xem 6
download
Đề tài đưa ra giải pháp giáo dục DSVH Cửa Lò cho các em HS THPT trên địa bàn lồng trong các tiết sinh hoạt lớp (gắn liền với giáo viên chủ nhiệm) và lồng ghép trong nội dung tiết dạy Ngữ văn (gắn liền với giáo viên bộ môn) đồng thời gắn liền với các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường (kết nối với các câu lạc bộ, các nhóm hoạt động của HS, với các kế hoạch của đoàn trường,...). Từ đó nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc và hứng thú quảng bá DSVH địa phương để phát triển du lịch ở Cửa Lò.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường giáo dục di sản văn hóa Cửa Lò cho HS THPT trên địa bàn góp phần quảng bá du lịch địa phương
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CỬA LÒ ---------------------- Tên đề tài SKKN: TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC DI SẢN VĂN HÓA CỬA LÒ CHO HỌC SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN GÓP PHẦN QUẢNG BÁ DU LỊCH ĐỊA PHƯƠNG Lĩnh vực: Quản lý giáo dục Người thực hiện: Hà Thị Vinh Tâm Tổ chuyên môn: Ngữ văn – Ngoại ngữ Số điện thoại: 091117369 Email: tamhtv.as2@nghean.edu.vn Năm học 2020 - 2021 1
- MỤC LỤC Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1.Lý do lựa chọn đề tài 1 2.Tính mới, đóng góp của đề tài 2 3.Phạm vi nghiên cứu 3 PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4 I. Cơ sở của đề tài 4 1. Cơ sở lí luận 4 2. Cơ sở thực tiễn 8 II. Đề xuất giải pháp 16 1. Cơ sở đề xuất giải pháp 16 2. Đề xuất giải pháp chung mang tính định hướng về GD DSVH ở Cửa Lò 18 3. Một số giải pháp cụ thể đã được áp dụng 20 3.1. Giải pháp 1: Lồng ghép GD DSVH vào dạy học bộ môn Ngữ văn 20 3.2. Giải pháp 2: Lồng ghép GD DSVH vào tiết sinh hoạt lớp 25 3.3. Giải pháp 3: GD DSVH qua hoạt động ngoại khóa 33 3.4. Giải pháp 4: GD DSVH qua hoạt động lan tỏa bằng các phương tiện truyền thông 35 III. Hiệu quả của đề tài 37 1. Khảo sát 37 2. Phân tích kết quả khảo sát 39 3. Những kết quả đạt được 40 PHẦN III. KẾT LUẬN 40 1. Đóng góp của đề tài 40 2. Kiến nghị đề xuất 44 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 46 2
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Viết đầy đủ GV Giáo viên HS Học sinh THPT Trung học phổ thông DS Di sản GD Giáo dục DSVH Di sản văn hóa 3
- PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do lựa chọn Nghị quyết số 29-NQ/TW của BCHTW Đảng khóa IX về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo” không chỉ dừng lại ở định hướng chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy học, hình thức kiểm tra, đánh giá, v.v. mà còn hướng đến xác lập các giá trị văn hóa cốt lõi góp phần xây dựng các chuẩn mực ứng xử và giao tiếp sư phạm, chú trọng đến việc "phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục" (Luật Giáo dục số 43/2019/QH14). Việc chú trọng DSVH để dạy học và giáo dục trong nhà trường phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng và rất cần thiết, góp phần đổi mới phương pháp dạy học nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục cho học sinh. DSVH không chỉ được coi là tài sản có giá trị giáo dục truyền thống, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ, mà còn là một nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này hoàn toàn đúng với tinh thần của nghị quyết số 29 của BCHTW Đảng khóa XI về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo” đã chỉ rõ: “Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học (…). Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại…”. Hơn nữa, Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới đưa ra chương trình giáo dục phổ thông tổng thể với yêu cầu cần đạt là hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi. Chú trọng GD DS sẽ góp phần hình thành và phát huy: phẩm chất yêu nước, trung thực, trách nhiệm,... năng lực ngôn ngữ, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mỹ, … Bên cạnh đó, chú trọng GD DSVH địa phương góp phần thực thi kế hoạch giáo dục THPT: không chỉ tích hợp nội dung GD DSVH vào các môn bắt buộc như Văn, Ngoại ngữ 1, nhóm môn khoa học xã hội như Lịch sử, Điạ lý, Giáo dục kinh tế và pháp luật, nhóm môn Công nghệ và nghệ thuật mà còn định hướng cụ thể cho hoạt động giáo dục bắt buộc (hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp, chiếm đến 105 tiết/năm học/lớp) và nội dung giáo dục của địa phương (chiếm 35 tiết/năm học/lớp). Trong hội nghị Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH Việt Nam vì sự phát triển bền vững năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: “Để mất di sản, dù chỉ là một phần cũng chính là... đánh mất bản sắc dân tộc”. Kho tàng DSVH không chỉ góp phần tạo nên nền văn hóa dân tộc mà còn đem lại những giá trị cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cửa Lò có nhiều lợi thế về DSVH như: Có bãi biển đẹp có đảo Ngư, đảo Mắt, bán đảo Lan Châu,.... và các điểm du lịch văn hóa tâm linh, chuỗi các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng: chùa Lô Sơn, đền Vạn Lộc, đền Yên Lương, đền Mai 4
- Bảng,... đồng thời có nhiều đặc sản biển: mực nhảy, tôm biển, cá thu,... với các nghề truyền thống như: các nghề làm nước mắm, chế biến hải sản truyền thống ở Nghi Thủy, Nghi Hải; ... Mùa du lịch chính thường được khai trương vào dịp 30/4 và 1/5 hàng năm bằng Lễ hội Sông nước Cửa Lò với nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc cùng với tiết mục bắn pháo hoa. Tuy vậy, học sinh THPT ở Cửa Lò phần lớn các em chưa có những hiểu biết cụ thể, đầy đủ về các DSVH địa phương - nơi các em được sinh ra, lớn lên và học tập. Đồng thời các em chưa nhập cuộc, chưa thấy được trách nhiệm của bản thân trong việc quảng bá và góp phần phát huy những ưu thế về DSVH để phát triển du lịch địa phương. Giáo viên Cửa Lò còn chưa chú trọng nhiều vào việc lồng ghép giáo dục DS vào tiết học, môn học, lớp chủ nhiệm hoặc các hoạt động giáo dục mà mình đảm nhận. Ý thức được điều đó, chúng tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu:“Tăng cường giáo dục DSVH Cửa Lò cho HS THPT trên địa bàn góp phần quảng bá du lịch địa phương". 2. Tính mới, đóng góp của đề tài Thứ nhất, đây là công trình đầu tiên chú ý đến nghiên cứu thực trạng về mức độ hiểu biết đối với các DSVH trên địa bàn Cửa Lò và thái độ, mức độ tham gia của HS THPT trong việc khai thác giá trị của DSVH nhằm quảng bá du lịch góp phần phát triển kinh tế - xã hội thị xã Cửa Lò. Thứ hai, đề tài còn đưa ra giải pháp giáo dục DSVH Cửa Lò cho các em HS THPT trên địa bàn lồng trong các tiết sinh hoạt lớp (gắn liền với giáo viên chủ nhiệm) và lồng ghép trong nội dung tiết dạy Ngữ văn (gắn liền với giáo viên bộ môn) đồng thời gắn liền với các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường (kết nối với các câu lạc bộ, các nhóm hoạt động của HS, với các kế hoạch của đoàn trường,...). Từ đó nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm, thái độ nghiêm túc và hứng thú quảng bá DSVH địa phương để phát triển du lịch ở Cửa Lò. Thứ ba, đề tài đưa ra được nhiều hình thức, phương pháp giáo dục DSVH cho HS một cách hợp lý, linh động, mới mẻ, chuyển biến dần từng bước bằng cả hình thức hoạt động trong các giờ chủ nhiệm lớp hoặc đưa vào tích hợp trong các bộ môn nhất là các bộ môn khoa học xã hội như: lịch sử, giáo dục công dân, Ngữ văn, Địa lý... Khơi gợi được sự sáng tạo của các em, phát huy năng lực tìm kiếm, xử lý thông tin, năng lực tin học, ngoại ngữ, giao tiếp (giao tiếp với mọi người, giao tiếp với môi trường văn hóa xung quanh và giao tiếp với chính bản thân mình), năng lực thẩm mỹ, truyền thông của các em ( viết bài, chọn hình ảnh, cách tiếp cận, cách lựa chọn kênh truyền thông ...) Thứ tư, đề tài đã vận dụng kiến thức liên môn bao gồm: môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Hội họa và cả Tin học, Ngoại ngữ, chuyên ngành Điện ảnh, báo chí... để định hướng cho HS sáng tạo ra đa dạng các sản phẩm bao gồm sản phẩm handmade (thẻ bài, sách, tranh ảnh, slogan,…) và sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin như video (về các địa danh, video các em trải nghiệm 5
- để thuyết trình, video cá em hát, biểu diễn,.. ), inforaphic, brochure, powerpoint, cẩm nang, bản word các bài viết,... Các em được đóng nhiều vai khác nhau như: làm học giả, làm họa sĩ, ca sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà sưu tầm, nhà hùng biện, nhà kinh tế học, nhà văn hóa học hay hướng dẫn viên du lịch,... nhằm quảng bá di sản văn hóa địa phương thu hút du khách du lịch. Thứ năm, trong quá trình tìm hiểu về DSVH địa phương, không chỉ GV mà HS cũng liên tục vận dụng công nghệ thông tin như tìm kiếm, xử lý thông tin, thiết kế các sản phẩm, sử dụng các trò chơi như: kahoot, plicker hoặc from khi kiểm tra, đánh giá HS. Trong quá trình quảng bá du lịch Cửa Lò từ việc vận dụng những hiểu biết về DSVH địa phương, các em đã thực hiện bằng nhiều cách không chỉ bằng tờ rơi, thẻ bài, tranh vẽ,…tuyên truyền trực tiếp, qua kênh phát thanh của nhà trường, các em còn đưa lên các trang mạng cá nhân, các nhóm cộng đồng qua facebook, zalo, Instagram, Twitter, kênh Youtobe,... các địa danh, các sản phẩm của các em (bằng hình ảnh, bằng âm thanh, bằng từ ngữ, bài viết),... Đặc biệt có cả kết nối Skype, Microsoft team với HS Bắc Giang, Sơn La để giới thiệu về DSVH Cửa Lò,… Như vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, GV đã hướng dẫn HS tận dụng tối đa sức mạnh của công nghệ thông tin vào việc lan tỏa quảng bá du lịch địa phương để thu hút và lan tỏa giá trị DSVH tới nhiều đối tượng vượt cả không gian, thời gian, phù hợp với thị hiếu đa dạng, phong phú của nhiều đối tượng,... Thứ sáu, đề tài đã thực hiện và gợi mở hướng giáo dục DSVH vào các trường học hoàn toàn phù hợp với những định hướng và kế hoạch của Chương trình giáo dục phổ thông mới mà thông tư 32 của Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành. Hướng giáo dục này góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi (hay còn gọi là: "năm phẩm chất và mười năng lực". ) đồng thời đã định hướng cụ thể vào hoạt động giáo dục bắt buộc (hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp) và nội dung giáo dục của địa phương. Cụ thể là đề tài này đã góp phần giáo dục lòng tự hào, yêu quê hương đất nước, đưa ra nhiều hoạt động cho HS trải nghiệm, hướng nghiệp và giáo dục tinh thần trách nhiệm của các em HS đối với các DSVH ở địa phương góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội, phát huy tiểm năng thế mạnh tại địa phương. Tóm lại, đây là hướng đi mới phù hợp với thời đại công nghệ 4.0, với xu thế và mục đích phát triển của giáo dục, phù hợp với yêu cầu thực tiễn kinh tế, xã hội ở tại địa phương, cụ thể là với thị xã Cửa Lò - đô thị du lịch biển. 3. Phạm vi nghiên cứu Học sinh ở trường THPT Cửa Lò (các lớp: 10D4 năm học 2019 - 2020, lớp 11D4, 12A3, 12T2 và các HS hoạt động trong các câu lạc bộ của trường, năm học 2020 - 2021) và một số lớp ở các trường THPT lân cận trên thị xã Cửa Lò. 6
- PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lý luận 1.1. Di sản văn hóa 1.1.1. Khái niệm Theo định nghĩa của Wikipedia Tiếng Việt: DSVH là DS của các hiện vật vật lý và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành cho các thế hệ mai sau (https://vi.wikipedia.org/ wiki). Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội: DSVH quy định tại Điều 1 được định nghĩa bao gồm DSvăn hoá phi vật thể và DSvăn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.2. Phân loại Theo Công ước DS thế giới 1972, DS thế giới được phân thành ba loại: DSVH, DS thiên nhiên và DS hỗn hợp. Trong đó, DSVH Việt Nam lâu nay thường được phân loại bao gồm: DS văn hoá vật thể; DSVH phi vật thể. Trong Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội, tại điều 4, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. 1.1.3. Ý nghĩa của DSVH đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông DSVH Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng các dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. DSVH Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Đối với giáo dục, việc sử dụng DStrong dạy học ở trường phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục truyền thống, lòng yêu quê hương, đất nước, giáo dục tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh góp phần giáo dục toàn diện HS. DSVH là nguồn tài nguyên vô tận để dạy và học suốt đời. Kho tàng tri thức chứa đựng trong hệ thống di tích, đền chùa, bảo tàng, trong con người và trong môi trường sống xung quanh chúng ta vô cùng phong phú. Mọi DS văn hoá đều có tiềm năng và điều kiện để sử dụng trong dạy học, giáo dục ở trường phổ thông. Từ DS 7
- thế giới, DS quốc gia đến DS của địa phương, của cộng đồng; từ DS văn hoá đến DSthiên nhiên; từ DS vật thể đến DS phi vật thể, DS thông tin tư liệu…mọi DS đều có khả năng sử dụng để dạy học, giáo dục trong trường phổ thông. Để khai thác và phát huy giá trị DS trong việc dạy học, giáo dục ở trường phổ thông cần chú ý những vấn đề sau: Một là, mọi DS đều có giá trị. Nhiều giá trị khác nhau được tích hợp trong một di sản. Tuỳ thuộc vào mục tiêu giáo dục mà chúng ta có thể nhận dạng ra những giá trị của di sản. Đó là giá trị thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như: Lịch sử, nghệ thuật, văn hoá, văn học, kiến trúc, mĩ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức dân gian… Đó là những giá trị thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên như : Y học, địa chất, địa mạo, sinh thái, môi trường, thiên văn,… Đó là những giá trị thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật như : Vật lý, hoá học, cơ học, thông tin, điện tử…. Từ những DSnổi tiếng thế giới đến DS còn ít được biết đến đang lưu giữ và thực hành trong đời sống cộng đồng đều có giá trị và có những khả năng đa dạng để khai thác sử dụng dạy học. Hai là, những DS của địa phương bao gồm các di tích, di vật, những đồ vật thể hiện văn hóa đời thường và các DS phi vật thể gần gũi với nhà trường là tiềm năng trực tiếp, dễ khai thác và phát huy thường xuyên, hiệu quả nhất. Nhà trường cần ưu tiên sử dụng những DS này trong dạy và học. Ba là, DS văn hoá phi vật thể thường gắn bó một cách chặt chẽ với DS vật thể và DSthiên nhiên. DS văn hoá phi vật thể cũng luôn gắn bó chặt chẽ với con người, được biểu hiện thông qua con người cùng với không gian văn hoá có liên quan. Những người nắm giữ DS văn hoá phi vật thể thường là những nghệ nhân, người lớn tuổi có tri thức và kinh nghiệm, người làm nghề chuyên nghiệp, những dòng họ, gia đình thực hành nghề truyền thống… Họ là những chủ thể của DS phi vật thể và có thể trở thành những đối tác, cộng tác viên đắc lực của nhà trường trong việc sử dụng DS để dạy học. DS phi vật thể có ở mọi nơi trong cuộc sống đương đại. Gắn kết DS văn hoá phi vật thể với giáo dục ở trường phổ thông giúp cho các bài học sinh động, cảm xúc và có ý nghĩa giáo dục văn hoá một cách sâu sắc. Vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới DSphi vật thể thường được sử dụng để dạy học. Bốn là, để xác định giá trị DS và có cách thức sử dụng DS để dạy học một cách hiệu quả nhất, nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cán bộ nghiên cứu, cơ quan quản lý DS để tiếp cận di sản, nhận dạng giá trị DS và khai thác DS một cách phù hợp và hiệu quả. Ở mỗi tỉnh và thành phố đều có các cơ quan quản lý di sản. Đó là các bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng tỉnh và thành phố. Đó là các ban quản lý di tích, DS trực thuộc các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố hoặc trực thuộc tỉnh. Đó là các ban quản lý di tích do cộng đồng quản lý trực thuộc chính quyền cấp huyện, xã. Năm là, DSVH, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục; tác động đến nhận thức, tình cảm, thái độ của HS, gieo mầm tình yêu di sản. 8
- Sáu là, chương trình giáo dục DS có ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục kiến thức và ứng xử với DSVH cho thế hệ trẻ. Kiến thức về các di tích lịch sử, DSVH vừa giúp các em có cơ hội để phát huy sự sáng tạo qua các tác phẩm tranh vẽ, mô hình, bài cảm nhận. Đặc biệt, các hoạt động này còn tăng sự gắn kết giữa nhà trường với gia đình trong công tác giáo dục. 1.2. Quảng bá du lịch 1.2.1. Khái niệm Quảng bá: theo Từ điển Tiếng Việt là: phổ biến rộng rãi bằng các phương tiện thông tin [tr.802]. Quảng bá được hiểu là sự phổ biến rộng rãi về một đối tượng nào đó bằng các phương tiện chuyển tải thông tin, nhằm thu hút sự chú ý. Trong xu thế hội nhập quốc tế càng càng sâu rộng, việc thực hiện chính sách về quảng bá là hoạt động cần thiết quan trọng ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô. Vì thông qua quảng bá có thể làm thay đổi nhận thức, hiểu biết trong các tầng lớp xã hội. Du lịch: Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, du lịch là "đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở". Quảng bá du lịch được hiểu là: hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp khuếch trương rộng khắp các ưu thế vốn có và sẽ có nhằm khai thác tối đa tiềm năng của ngành du lịch để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất theo mục tiêu chiến lược đề ra. Mcj tiêu cảu quảng bá du lịch thể hiện ở việc nâng cao được hình ảnh của một quốc gia, một vùng miền, một khu vực, hay nói cách khác là hình ảnh của một điểm đến nhất định nào đó và đóng vai trò trong việc thu hút khách du lịch. 1.2.2. Tầm quan trọng của việc quảng bá du lịch Xây dựng một hình ảnh đẹp về nơi du lịch bằng các thông tin đầy đủ, cụ thể, chân thực; Thu hút sự chú ý của khách du lịch tạo dựng niềm tin với địa điểm đó, tự hào khi được đến điểm mình lựa chọn; Thúc đẩy phát triển du lịch để góp phần phát triển kinh tế- xã hội địa phương. 1.3. DSVH Cửa Lò 1.3.1. Các loại DSVH ở Cửa Lò Với vị trí địa lí quan trọng thị xã Cửa Lò có điều kiện trong giao lưu, phát triển theo định hướng từ năm 1994 là "Đô thị du lịch biển", theo Nghị quyết 05 NQ/TU của Ban Thường vụ tỉnh Nghệ An định hướng:" Xây dựng Vinh - Cửa Lò - Nam Đàn trở thành cụm du lịch gắn với du lịch quốc gia, quốc tế; Cửa Lò có môi trường du lịch xanh, sạch, dịch vụ đa dạng, hấp dẫn". Nơi đây lại có nhiều nguồn tài nguyên phong phú đặc biệt là tài nguyên du lịch. Trong đó phải kể đến nguồn tài nguyên du lịch là các DSVH, bao gồm: - DSVH vật thể: Cuốn sách Cửa Lò linh khí một vùng đất, Nxb Nghệ An, 2014 đã giới thiệu khá đầy đủ về các địa chỉ văn hóa hấp dẫn bao gồm: Đền Vạn Lộc; Nhà Thờ họ Hoàng Văn; Đền Diên Nhất; Nhà thờ danh y Hoàng Nguyên Cát; Đền Làng Hiếu; Nhà thờ Họ Lê; chùa Song Ngư; Đền Yên Lương; Đền Mai Bảng; Đền Đô đốc tướng quân Phùng Phúc Kiều; Đền Bàu Lối; Nhà thờ danh y Hoàng Nguyên Cát; 9
- Đền Làng Hiếu; Nhà thờ Họ Lê,... Bên canh đó, phải kể đến những danh lam thắng cảnh như: Biển Cửa Lò; Đảo Lan Châu; Đảo Hòn Ngư; Đảo Mắt;... - DSVH phi vật thể: Lễ hội truyền thống (truyền thống lễ cúng ông Ngư - đền Hiếu); các nghề thủ công truyền thống (Làng nghề chế biến hải sản, làm nước mắm Nghi Hải, Nghi Thủy,…); ... Mặc dù DSVH ở Cửa Lò rất phong phú, đa dạng nhưng hầu như du khách mới chỉ biết đến bãi biển Cửa Lò còn những DSVH khác thì chưa được quảng bá rộng rãi, việc phát triển du lịch thông qua các DSVH vẫn còn hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng. Bởi vậy, Cửa Lò mới chỉ mạnh du lịch vào mùa hè, kiểu “du lịch một mùa” mà chưa trở thành một trong những địa điểm ưu tiên hàng đầu thu hút khách du lịch gần xa một cách thường xuyên với nhiều địa điểm hấp dẫn. 1.3.2.Tầm quan trọng của DSVH đối với việc phát triển du lịch Cửa Lò Trong bài DSVH với phát triển du lịch (2018), TS. Hà Văn Siêu, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, https://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items đã nêu ra khá đầy đủ về vai trò của DSVH đối với phát triển du lịch như: Một là, DSVH tạo động lực cho du lịch: thực tế minh chứng DSVH tạo sức hấp dẫn vô cùng tận cho điểm đến du lịch. DSVH là động cơ, là duyên cớ thôi thúc chuyến đi, là môi trường tương tác và là những trải nghiệm đáng giá cho du khách, qua đó trở thành tài nguyên, nguồn lực chiến lược cho phát triển du lịch. Cũng chính sức cuốn hút ấy của DSVH đã tạo nên những làn sóng đầu tư vào du lịch di sản, những dòng khách du lịch tấp nập đổ về; người người, nhà nhà làm du lịch... Điều đó mang lại không chỉ những kết quả tăng trưởng lan tỏa nhiều mặt về kinh tế - xã hội, mà còn bảo tồn chính DSVH. Hai là, du lịch phát huy giá trị DSVH: Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu và sẽ mãi mãi là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống DS đậm đặc như nước ta thì du lịch DStrở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du lịch DShướng thu hút khách tìm đến những giá trị về nguồn, tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị DSVH đậm đà bản sắc của các dân tộc, các tộc người. Ở nước ta, chủ trương phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được thể hiện trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Du lịch văn hóa vì vậy là một dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam, từ tham quan di tích lịch sử văn hóa, hệ thống bảo tàng, các công trình văn hóa, hoạt động nghệ thuật, cho tới tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm văn hóa, lễ hội, lối sống địa phương, thưởng thức ẩm thực, sản vật vùng miền… Với ý nghĩa đó, du lịch DS đóng góp to lớn cho bảo tồn và phát huy bền vững DSVH. Ba là, tạo sức sống cho DSVH: Phát huy thế mạnh về tài nguyên DSVH, trong đó lấy du lịch DS là hướng trọng tâm có tính chất chìa khóa hướng tới mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thì đòi hỏi các bên cùng hành động, có những giải pháp hữu hiệu về bảo tồn và phát huy bền vững đối với DSVH trong phát triển du lịch. 10
- Bốn là, vấn đề giáo dục DSVH hiện nay đã triển khai những cách thức mới trong giáo dục nhận thức: Mục đích là giúp HS say mê, gắn bó, góp phần gìn giữ di sản văn hóa, lịch sử. Ðổi mới giáo dục nhận thức về DSVH, lịch sử vì thế vừa là yêu cầu tất yếu, vừa là biện pháp để di sản được gìn giữ cho hiện tại và tương lai. Với vị trí địa lí quan trọng thị xã Cửa Lò có điều kiện trong giao lưu, phát triển, trao đổi hàng hóa, mở rộng thị trường và tiếp thu khoa học, kỹ thuật công nghệ mới. Về các tài nguyên loại tài nguyên trong thị xã cũng đa dạng và phong phú đặc biệt là tài nguyên du lịch, đây là cơ sở quan trọng để thị xã phát triển mạnh ngành du lịch với bãi biển Cửa Lò nổi tiếng trong cả nước. Nhờ có các DSVH (DSVH phi vật thể, DSVH vật thể), ngành du lịch Cửa Lò ngày càng được quan tâm và chú trọng phát triển hơn. DSVH là tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách tham quan trong nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch xem đây là nền tảng, trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế du lịch bên cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và nguồn nhân lực. DSVH cũng là công cụ hỗ trợ tích cực trong việc định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Cửa Lò. 1.4. Học sinh THPT Học sinh THPT bước vào thời kỳ đầu của tuổi thanh niên về sinh học, cấu trúc não đã phát triển tương đối hoàn thiện, các khả năng tư duy, phân tích, đánh giá, cảm giác, tri giác,... cũng dần hoàn thiện. Khả năng tự ý thức phát triển, hình thành thế giới quan, có ý thức làm việc hiệu quả và hoạt động giao tiếp phát triển. Giáo viên cần nắm được những điểm này để chỉ dẫn, khuyến khích các em thể hiện bản thân, phát huy hết khả năng trong học tập, có tư duy tích cực, đa chiều, biết tìm kiếm thông tin, chọn lọc, xử lý thông tin,... Nhất là trong điều kiện ngày nay, công nghệ thông tin phát triển, các em vận dụng thành thạo các kỹ năng tin học vào việc xây dựng các sản phẩm của dự án sinh động, hấp dẫn và có tính hiệu quả cao. Kỹ năng thuyết trình, lập luận cũng được trau dồi, hoàn thiện qua cách thức dạy học chú trọng giáo dục si sản văn hóa địa phương. Ở lứa tuổi này cũng dần phát triển, bắt đầu định hình nhân cách, có những hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh, có tình cảm gắn bó và bắt đầu có ý thức trách nhiệm với địa phương mà mình sinh sống. Các em chính là chủ nhân tương lai của địa phương, đất nước sau này. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng chung ở các trường THPT 2.1.1. Từ phía chương trình giáo dục, sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, các công trình nghiên cứu về vấn đề GDDSVH địa phương từ trước đến nay Mặc dù có nhiều tài liệu, công trình đề cập và nghiên cứu về vấn đề giáo dục DSVH địa phương để nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn, hiệu quả giáo dục và đã chú trọng đến mục đích phát triển PC, NL HS. Nhưng nhìn chung đối với cấp THPT: Một là, chương trình SGK và các tài liệu tham khảo đều đang nặng về kiến thức, lý thuyết hơi nhiều, thiếu tính thực hành. Hai là, các tài liệu tham khảo mới mang tính định hướng chung chung chưa có những chỉ dẫn cụ thể, rõ ràng và công phu. 11
- Ba là, các tài liệu và các công trình mới chỉ đưa ra trong từng bộ môn một cách nhỏ lẻ, manh mún như: môn Lịch sử, địa lý,... mà chưa có sự đồng bộ, mang tính hệ thống ở một phạm vi rộng hơn. Bốn là, các tài liệu và các công trình còn đang chỉ chú trọng ở một số vùng miền mà ít có công trình tổng thể, trọn vẹn để có cài nhìn bao quát về việc giáo dục DSVH địa phương trên cả nước. Năm là, các công trình và các tài liệu đang tập trung vào các môn học hoặc hoạt động ngoại khóa chung toàn trường mà chưa lồng ghép vào hoạt động giáo dục khác như trong hoạt động chủ nhiệm lớp. Sáu là, vấn đề giáo dục DSVH địa phương được đặt ra mới chỉ dừng lại một chiều ở việc mở rộng hiệu biết cho HS ở các mảng DSVH mà chưa chú ý nhiều đến hoạt động trải nghiệm và đánh thức, chỉ dẫn ở các em tinh thần trách nhiệm, hành động cụ thể để trở thành chủ thể tham gia vào việc bảo tồn và phát huy, vận dụng những hiểu biết đó để góp phần trong việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương. 2.1.2. Từ phía các cấp quản lý giáo dục và văn hóa Hoạt động giáo dục nhận thức về di sản hiện nay là vẫn còn mang tính tự phát, thiếu hệ thống, mạnh địa phương nào thì địa phương đó làm. Chẳng hạn, hát Xoan, Quan họ được giới trẻ Phú Thọ, Bắc Ninh học tập, gìn giữ là nhờ chương trình hoạt động cụ thể của chính quyền, ngành giáo dục, ngành văn hóa ở địa phương. ..Trường học nào quan tâm thì học sinh trường đó sẽ được trải nghiệm, và ngược lại. Bên cạnh đó, việc giáo dục nhận thức về di sản còn mang tính địa phương, cục bộ. Ðịa phương sở hữu di sản có tính đặc thù thì quan tâm đến giáo dục nhận thức về di sản "của mình". Ðịa phương không sở hữu di sản có tính nổi bật, cũng ít quan tâm giáo dục nhận thức về di sản nói chung. Ðối với di sản vật thể, tình trạng tham quan chiếu lệ, người thuyết minh nói thao thao bất tuyệt, ít quan tâm đến nhu cầu của đối tượng được nghe còn diễn ra khá phổ biến. 2.1.3. Từ phía đội ngũ GV Trong những năm qua, đội ngũ GV nói chung và GV các bộ môn nói riêng đã tích cực học hỏi, đổi mới PPDH, hình thức dạy học để kích thích tư duy sáng tạo của HS và bước đầu tạo được những chuyển biến tích cực. Nhiều trường học đã chú trọng lồng ghép giáo dục DSVH địa phương vào môn học và một số hoạt động ngoại khóa của toàn trường hoặc khối, lớp. Tuy nhiên, sự thay đổi theo chiều hướng tích cực này còn nhỏ giọt, chưa có tính hệ thống, chưa có chiều sâu về lâu dài và chuyển biến còn chậm. Theo tôi, có những nguyên nhân sau: Một là, đội ngũ GV mới chỉ chú trọng vào nội dung, phạm vi kiến thức chuyên môn hoặc đã có liên kết liên môn nhưng chưa chú trọng nhiều vào giáo dục DSVH địa phương, xem đó như là một nội dung ngoài lề chuyên môn của mình. Hai là, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm nếu đã đổi mới không nặng về sinh hoạt theo lối truyền thống thì cơ bản đàn chú ý đến giáo dục kỹ năng mềm cũng chưa chú trọng vào việc định hướng cho HS tìm hiểu, trải nghiệm và có những chương trình cụ thể, bài bản để tìm hiểu về DSVH địa phương. Ba là, nếu các GV đã quan tâm đến việc giáo dục DS thì mới chỉ chú trọng kiến thức về DSmuốn đem đến cho HS mà chưa có sự đầu tư tới các hoạt động trong 12
- khi giáo dục DSnên còn tiến hành một cách đơn điệu, nhàm chán, chưa đưa ra được nhiều hình thức hoạt động tương tác giữa GV- HS, HS - HS một cách sinh động, phong phú. Hơn nữa, chưa chú trọng vào khả năng sáng tạo và năng lực, sở trường của từng đối tượng HS khi cho HS tìm hiểu về di sản. Bốn là, một số GV trong việc xác định mục tiêu giáo dục DS một cách đầy đủ. Đó không chỉ là vốn hiểu biết về DS địa phương ở các em mà trong quá trình giáo dục DS còn tập trung rèn luyện các cấp độ tư duy cho HS tăng dần từ thấp đến cao để phát huy phẩm chất, năng lực cho HS một cách đầy đủ, toàn diện. Năm là, một số GV chưa hướng đến cái “đích” cuối cùng của việc giáo dục di ản văn hóa HS là khơi gợi tinh thần, trách nhiệm, hành động cụ thể của các em đối với việc phát huy giá trị DSVH để góp phần phát triển kinh tế- xã hội địa phương. Nghĩa là các em chưa có sự liên hệ trực tiếp, cụ thể đến ý thức và trách nhiệm của bản thân đến những vấn đề của cộng đồng, địa phương. Sáu là, công tác đổi mới phương pháp, đổi mới dạy học gắn liền với giáo dục DSVH địa phương ở nhiều trường học còn thiếu sự giám sát, động viên, ghi nhận, nhắc nhở từ các cấp lãnh đạo. Bởi vậy nên nhiều GV chỉ thực hiện đổi mới theo hình thức, mang tính chất đối phó, thực hiện những cái đã có sẵn và bắt buộc, hình thức. 2.1.4. Từ phía HS Trong mấy năm gần đây, cách tư duy và hoạt động của HS đã năng động, tích cực hơn so với trước, kỹ năng sống của các em cũng tốt hơn. Tuy nhiên, qua khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau cần khắc phục: Một là, ở các cấp học nói chung và ở cấp THPT nói riêng, phần lớn HS vẫn quen một lối nghĩ, lối hành động là GV dạy, HS tuân thủ làm theo một cách thụ động, chưa thực sự chủ động, đổi mới, sáng tạo trong quá trình tham gia học tập để đặt ra nhu cầu tìm hiểu, khám phá các giá trị của DSVH tại địa phương. Hai là, nhiều HS có thái độ thờ ơ đối với môi trường văn hóa, các DSVH xung quanh để có nhu cầu khám phá, biết giá trị của các DSVH và có những hành động thiết thực đối với việc bảo tồn, phát huy các giá trị đó. Nghĩa là các em còn hạn chế trong việc kết nối giá trị DSVH xung quanh với bản thân, với mọi người và với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của địa phương. Ba là, hiện HS phải học nhiều môn, phải chịu áp lực bài vở nhiều nên ít có thời gian tham gia trải nghiệm, tìm hiểu môi trường văn hóa xung quanh. Thêm vào đó, ảnh hưởng của văn hóa nghe nhìn chi phối, HS bị phân tán thời gian rất nhiều. Phổ biến HS vẫn thực hiện theo kiểu đối phó. Bốn là, khi được tìm hiểu về DSVH địa phương, các em còn ít có sự liên hệ trực tiếp để rút ra bài học (thiếu khả năng tích hợp kiến thức, kỹ năng nội môn, liên môn). Từ đó, biết ứng dụng những kiến thức, kỹ năng đã học này vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn địa phương, phát huy ý thức trách nhiệm của bản thân đối với việc giữ gìn và phát huy những giá trị của DSVH này. Trước thực trạng chung đó, chúng tôi đã phát phiếu điều tra 28 GV và 300 HS thuộc ba khối lớp 10,11,12 cuả hai trường trên địa bàn thị xã Cửa Lò (THPT Cửa Lò, 13
- THPT Cửa Lò 2) để biết được nhận thức của GV và HS THPT về vai trò củavấn đề giáo dục di sản văn hóa Cửa Lò vào việc góp phần quảng bá du lịch địa phương. Chúng tôi tập trung vào ba vấn đề: Một là, nhận thức của GV và mức độ hiểu biết của HS ở các trường THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò đối với vấn đề giáo dục DSVH từ trước đến nay như thế nào? Hai là, tại sao mức độ hiểu biết đối với DSVH Cửa Lò và ý thức trách nhiệm đối với việc quảng bá DSVH để phát triển du lịch địa phương của HS THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò còn hạn chế? (Xuất phát từ suy nghĩ về mục đích, ý nghĩa, vai trò của DSVH địa phương? Những hoạt động dạy học, giáo dục nào thường diễn ra trong quá trình tiến hành giáo dục DSVH cho HS?) Ba là, cần có những giải pháp gì để tăng cường giáo dục DSVH Cửa Lò cho HS THPT trên địa bàn một cách hiệu quả, góp phần bồi dưỡng nhân cách, hình thành, phát triển 5 phẩm chất và 10 năng lực (chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đang hướng tới) đồng thời góp phần quảng bá du lịch địa phương? Những giải pháp này sẽ là cơ sở để khơi dậy được ý thức trách nhiệm của HS đối với việc phát huy những giá trị của DSVH Cửa Lò, góp phần vào phát triển du lịch địa phương. Chúng tôi đã đưa ra nội dung điều tra và thu được kết quả như sau: Bảng 1. Câu hỏi dành cho GV Câu hỏi Câu trả lời Tần số Tỉ lệ % Câu 1: Theo thầy (cô), Ít quan trọng 1 3.6 đưa vấn đề giáo dục DSVH Bình thường 7 25 địa phương vào chương trình giáo dục THPT (bao gồm cả 20 71.4 công tác chủ nhiệm, dạy học và một số hoạt động khác) có Quan trọng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ giáo dục không? Câu 2: Thầy (cô) thường Giờ dạy bộ môn trên lớp 17 61 xuyên tiến hành giáo dục Giờ chủ nhiệm lớp 5 18 DSVH trong các hoạt động Hoạt động giáo dục khác 6 21 nào? Tất cả các hoạt động trên 0 0 Câu 3: Thầy (cô) đã tìm Chưa có giải pháp 4 14.3 được giải pháp gì để nâng Đã tìm ra giải pháp 22 78.6 cao hiệu quả giáo dục DSVH nhưng chưa hiệu quả địa phương vào các hoạt Đã tìm ra giải pháp và 2 7.1 động chủ nhiệm hoặc dạy thực hiện có hiệu quả học bộ môn của các thầy/cô? 14
- Bảng 2. Câu hỏi dành cho HS Câu 1 Em có thường xuyên được hướng dẫn tìm hiểu về các DSVH Cửa Lò trong các môn học, trong hoạt động của lớp chủ nhiệm và các hoạt động học tập khác không? Câu trả lời Tần số Tỉ lệ % Hoàn toàn không 2 0,6 % Rất ít 44 14, 7% Thỉnh thoảng 159 53% Thường xuyên 95 31,7% Tổng 300 100% Câu 2 Dựa vào những hiểu biết về DSVH Cửa Lò, em đã góp phần quảng bá du lịch địa phương nhiều chưa? Câu trả lời Tần số Tỉ lệ % Hoàn toàn chưa 14 4,7 % Thỉnh thoảng 226 75,3% Nhiều 52 17,3% Rất nhiều 8 2,7 % Tổng 300 100% Như vậy, cả GV và HS ở các trường THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò mặc dù đã nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề giáo dục DSVH Cửa Lò đối với nhiệm vụ quảng bá du lịch địa phương song chưa đưa ra các giải pháp cụ thể, hiệu quả trong quá trình giáo dục DSVH địa phương, đặc biệt là vận dụng để đưa những nội dung và hiểu biết về DSVH đó vào quảng bá du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở thị xã Cửa Lò. 2.2. Thực trạng riêng ở trường THPT Cửa Lò Tháng 05 năm học 2019 - 2020, chúng tôi tiến hành khảo sát 300 HS ngẫu nhiên cả hai khối lớp 10, 11, 12 trường THPT Cửa Lò (trong đó có các lớp 10D4, 11A3,11T2) với nội dung như sau: Câu 1: Em có thường xuyên được GV bộ môn và GV chủ nhiệm giáo dục về DSVH ở Cửa Lò không? Câu 2: Em có thích những hoạt động mà GV thường giao cho các em tiến hành trong quá trình tìm hiểu về DSVH địa phương không?? 15
- Câu 3: Trong quá trình tìm hiểu về DSVH địa phương, em đã thực hiện hoạt động quảng bá du lịch Cửa Lò nhiều lần chưa? Câu 4: Trong các giờ học về DSVH địa phương, em có thường được giáo viên khuyến khích tham gia vào những hình thức hoạt động học tập nào? Kết quả khảo sát thực tế ở ba khối lần lượt cho các câu hỏi trên như sau: Bảng 1a (Tính %) Khối Thường xuyên Thỉnh thoảng Không 10 15 (%) 33(%) 52(%) 11 13 (%) 34(%) 53(%) 12 14(%) 29(%) 67(%) Bảng 2a (Tính %) Khối Có thích Không thích B 10 35 % 65% ảng 11 31% 69% 3a 12 29% 71% (Tín h %) Khối Rất nhiều Nhiều Ít Không 10 12 (%) 25 (%) 36 (%) 27 (%) 11 13 (%) 12 (%) 35 (%) 40 (%) 12 8 (%) 13 (%) 28 (%) 41 (%) Riêng ba lớp 10D4 ,11A3, 11T2, kết quả thu được lần lượt là: Bảng 1b (Tính %) Lớp Thường xuyên Thỉnh thoảng Không 11 A3 15% 33% 52% 11 T2 9% 30% 61% 10 D4 4% 29% 67% Bảng 2b (Tính %) 16
- Lớp Thích Không thích 11A3 4/33 (12,1%) 29/33 (87,9%) 11T2 7/44 (15,9%) 37/44 (84,1) % 10D4 8/37 (21,6%) 29/37 (78,4%) Bảng 3b (Tính %) Lớp Rất nhiều Nhiều Ít Không Từ 11A3 2/33 (6.1%) 3/33(9,09)% 23/33 (69,7%) 4/27 (14,8%) kết 11T2 3/44 (6,8%) 5/44 (11,4%) 32/44 (72,7%) 4/44%(9,1%) quả trên 10D4 3/37 (8,1%) 7/37 (18,9%) 22/37(59,5%) 5/37(13,5%) ta có thể thấy rõ thực trạng cụ thể là: - Nhìn chung phần lớn HS không thích/ chưa thích, không hào hứng/ chưa hào hứng khi tham gia tìm hiểu về DSVH địa phương. - HS chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của bản thân vì các hoạt động GV đưa ra cho HS thực hiện chưa phong phú, đa dạng, chủ yếu còn nhàm chán, đơn điệu như hình thức GV hỏi HS trả lời, chỉ chăm chú ghi chép, thuyết trình,...Đây là các hoạt động học tập truyền thống, chưa tạo sự mới mẻ, lôi cuốn HS, kích thích hứng thú ở HS và chưa áp dụng nhiều ứng dụng của công nghệ thông tin vào dạy học (như các hình thức dạy kết nối Spyke, microsoft team, các trò chơi Kahoots, Plicker,...). - Các hoạt động dạy và học về DSVH địa phương chỉ mới thực hiện thỉnh thoảng, chưa có hệ thống, liên tục và thường xuyên, đang chủ yếu mới chỉ là liên hệ, lồng ghép một phần vào bài học bộ môn. Còn đưa ra thành một nội dung chuyên đề trong hoạt động chủ nhiệm còn rất ít. - Trong quá trình tổ chức giáo dục DSVH đang thiếu các hoạt động trải nghiệm, tăng cường tương tác, rèn luyện kỹ năng mềm cho HS (tổ chức thảo luận, tranh biện, hùng biện, các cuộc thi, báo cáo sản phẩm, viết lời giới thiệu sách, làm chương trình phát thanh, kết nối...). Các hoạt động trong giờ học trên lớp chưa hướng cho HS áp dụng nhiều vào cuộc sống, thường dừng lại trên phương diện lý thuyết, kiến thức về DSVH địa phương. - Việc định hướng, chỉ dẫn cho HS sáng tạo các sản phẩm về quảng bá DSVH địa phương còn hạn chế, chủ yếu là các bài viết thuyết trình, powerpoint thuyết trình, rất ít sản phẩm thể hiện được sự sáng tạo và sở trường của HS như: video, tờ rơi, sách, inforaphic, brochure, sáng tác thơ, văn xuôi, vẽ tranh, hát, chụp ảnh, sưu tập các tư liệu hay về các DSVH Cửa Lò, review sách viết về các DSVH Cửa Lò,viết thu hoạch hoặc làm dự án, ... Các em ít được đóng nhiều vai khác nhau như: làm 17
- học giả, làm họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà sưu tầm, nhà hùng biện, nhà kinh tế học, nhà văn hóa học hay hướng dẫn viên du lịch,... 2.3. Những ưu điểm và hạn chế về vấn đề GD DSVH Cửa Lò cho HS THPT trên địa bàn trong việc quảng bá du lịch địa phương Ngoài thực trạng chung đã nêu ở trên, tại trường THPT Cửa Lò còn có một số ưu điểm và tồn tại sau: Về ưu điểm: Ban giám hiệu đã chú trọng vấn đề giáo dục DSVH địa phương cho HS. Đội ngũ GV luôn đoàn kết, nhiệt tình, có trách nhiệm, yêu nghề, đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, có tinh thần chia sẻ và hợp tác với đồng nghiệp, có nhận thức về vai trò quan trọng của DSVH trong việc giáo dục HS nói chung và đối với việc phát triển du lịch Cửa Lò nói riêng. HS chủ yếu là con em vùng biển, chịu khó, chăm chỉ, yêu lao động, sống giản dị và cơ bản có ý chí vươn lên trong học tập và rèn luyện. Về tồn tại: Thứ nhất, phần lớn GV vẫn chưa chú trọng đến việc giáo dục DSVH địa phương một cách có kế hoạch, hệ thống và cụ thể. Việc tiến hành xây dựng giờ dạy văn thân thiện tích cực còn cảm tính, chủ quan, nhỏ lẻ chưa có chiều sâu. Đồng thời, GV chưa đưa HS vào guồng để HS sáng tạo, nhận ra được ưu thế của bản thân khi tiếp cận DSVH địa phương và chưa chú ý đến việc hướng dẫn cho các em phát huy những giá trị của DSVH vào việc quảng bá du lịch và tham gia vào sự phát triển của kinh tế - xã hội Cửa Lò. Vì vậy chưa có sự đầu tư nhiều cho vấn đề này. Thứ hai, HS cơ bản đang chú trọng học các môn khối và nội dung học tập trong chương trình thi khỏa sát ở khối 10, 11 và thi tốt nghiệp ở khối 12. Sự hiểu biết về các DSVH ở Cửa Lò còn hạn chế. Hầu như các em chỉ biết đến bãi biển Cửa Lò và một vài địa danh, chứ chưa nắm bắt một cách hệ thống và đầy đủ các loại DSVH của Cửa Lò. Một số em ngay cả tên gọi Cửa Lò các em còn giải thích lúng túng. Có lúc tôi hỏi vui kiểu "hỏi xoáy đáp xoay": "Tại sao Cửa Lò mới thành hợp trên 20 năm mà kỷ niệm năm du lịch Cửa Lò lại trên 100 năm?" Hầu như các em chưa trả lời được cho gãy gọn, cụ thể. Hoặc: "Hãy kể tên các đền, chùa của Cửa Lò?" Học sinh đang liệt kê nhầm sang của cả Nghi Lộc (đền Nguyễn Xí, chùa Phúc Lạc,...). Thứ ba, HS cũng mới chỉ dừng ở mức độ hiểu biết về các DSVH Cửa Lò nhưng chưa đầu tư thời gian để tạo sản phẩm mang dấu ấn cá tính sáng tạo, chưa ý 18
- thức được sau khi học xong về các DSVH địa phương, các em phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy các DSVH ấy đặc biệt là dựa vào giá trị các DSVH địa phương này để góp phần quảng bá du lịch Cửa Lò. II. Đề xuất giải pháp 1. Cơ sở đề xuất giải pháp 1.1. Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của HS Nhân cách được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực (đức và tài). Do vậy, trong quá trình dạy học phát triển PC, NL người học là mục đích hướng người học tiếp cận gần hơn tới sự phát triển nhân cách của mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu rõ: Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng. Quan điểm này cũng gần với thuyết đa trí tuệ đã chỉ ra: Con người có 9 loại trí thông minh và mỗi người sẽ nổi trội về một số trí thông minh nào đó. Đồng thời, chúng tôi quan tâm đến lý thuyết về phong cách học tập và khí chất. Từ đó, trong quá trình lựa chọn các giải pháp giáo dục, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của HS, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân, tôn trọng thế mạnh, đặc điểm riêng biệt của từng HS. 1.2. Đảm bảo quan điểm GD theo phương pháp sư phạm tương tác Trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi HS không chỉ phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng mà còn cần hội tụ đủ khả năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. HS có khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp phấn đấu, rèn luyện phù hợp để hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục HS cũng chỉ ra: Giáo dục kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng ra quyết định, suy xét và giải quyết vấn đề, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng ứng phó, kiềm chế, kỹ năng hợp tác và kỹ năng làm việc theo nhóm cho HS; Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho HS thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông, cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, thông qua việc thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau; Giáo dục và tư vấn về sức khỏe, thể chất và tinh thần, giáo dục về giới tính, tình yêu, hôn nhân, gia đình phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của HS trên tinh thần tôn trọng quan điểm, cá tính của học sinh. Giáo dục học sinh phải linh hoạt, tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều, máy móc, rập khuôn. 1.3. Đảm bảo mục tiêu cụ thể của cấp học THPT Thực hiện chương trình hợp lý nhằm đảm bảo cho HS có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy phẩm 19
- chất, năng lực của mỗi HS, giúp HS có đầy đủ phẩm chất của một công dân có ích, những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông để HS chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp. 1.4. Đảm bảo tính hoạt động thực tiễn giáo dục tại trường THPT Cửa Lò Các giải pháp được đề xuất cho việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS được thực thi trong thực tiễn hoạt động trải nghiệm tiến hành ở trường THPT Cửa Lò. Bởi thế, các giải pháp này phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp HS hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của giáo dục ở trường THPT đặt ra. Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, đảm bảo tính hiện đại, thiết thực, hài hòa, phù hợp về nội dung, phương pháp chủ nhiệm, tạo điều kiện để học sinh hình thành và phát huy nhiều phẩm chất, năng lực quan trọng. 1.5. Dựa trên quan điểm dạy học khai thác tiềm năng GD của DSVH DSVH Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. DSVH không chỉ được coi là tài sản có giá trị giáo dục truyền thống, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ, mà còn là một nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Gắn liền dạy học với di sản góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức, tình cảm, rèn luyện một số kỹ năng học tập như kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý thông tin những di sản văn hoá ở địa phương cho các em HS. Hơn nữa, các giá trị ẩn chứa trong di sản sẽ được các em tìm hiểu, từ đó các em có được động cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản văn hóa tốt hơn. Dạy học với di sản văn hóa tạo điều kiện phát triển một số kỹ năng sống như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kỹ năng thu thập thông tin và ký năng phê phán, kỹ năng đảm nhận trách nhiệm, đặt mục tiêu của HS… được rèn luyện. Tóm lại, ẩn chứa trong DSVH là những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân cách của HS. Các hoạt động giáo dục di sản văn hóa rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh; giảm thiểu sự hàn lâm hóa kiến thức trong dạy học. Chính việc giáo dục di sản sẽ làm tăng thêm vốn hiểu biết của học sinh về văn hóa, xã hội, bồi đắp thêm lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về truyền thống của dân tộc, nâng cao ý thức trách nhiệm đối với đất nước. Cũng thông qua giáo dục di sản, sẽ huy động mọi lực lượng trong xã hội cùng tham gia vào bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 40 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường hứng thú và tập trung của học sinh trong các tiết luyện tập môn Hóa học 11 THPT bằng các trò chơi
25 p | 26 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập dưới dạng đề kiểm tra sau mỗi bài học, để học sinh làm bài tập về nhà, làm tăng kết quả học tập môn Hóa
13 p | 27 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số chiến thuật đọc hiểu văn bản nhằm nâng cao chất lượng dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân cho học sinh lớp 12 tại trường THPT Yên Dũng số 2
46 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng Infographic nhằm nâng cao hiệu quả và tăng hứng thú học tập Ngữ văn của học sinh THPT
15 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép một số kỹ năng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe vào giảng dạy Sinh học 10 bài 30 - Sự nhân lên của virut trong tế bào chủ
21 p | 23 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lồng ghép giáo dục kỹ năng phòng tránh bệnh cao huyết áp và bệnh tiểu đường vào dạy học Sinh học 11 cơ bản bài 20 - Cân bằng nội môi
21 p | 20 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh lớp 12 trường THPT Trần Đại Nghĩa làm bài kiểm tra đạt hiệu quả cao
41 p | 56 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức văn học vào giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12
10 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp tăng cường tính tích cực, chủ động của học sinh và nâng cao hiệu quả ôn tập trong hoạt động ôn tập thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn
19 p | 9 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp trong bài 17 - Công nghệ cắt gọt kim loại môn công nghệ lớp 11 - Nhằm nâng cao việc trải nghiệm sáng tạo của học sinh
55 p | 40 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy bài khái niệm về hệ thống thông tin và viễn thông môn công nghệ lớp 12 nhằm tăng khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh
39 p | 41 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng công nghệ thông tin và học liệu số trong dạy học chủ đề Điện trở - Tụ Điện- Cuộn cảm môn Công nghệ 12
38 p | 10 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo chủ đề tích hợp trong giảng dạy tiết 1 bài 16 công nghệ chế tạo phôi môn công nghệ lớp 11 nhằm tăng khả năng tự học, tự thực hành của học sinh
35 p | 33 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh tiếp cận và giải quyết các bài toán thực tế chương II - Giải tích 12 bằng phương pháp dạy học tích hợp môn Toán với môn Vật lí và môn Địa lí
23 p | 52 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học trong nhà trường gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương thông qua chủ đề bài học: Các cơ cấu của động cơ đốt trong - Công nghệ lớp 11
35 p | 40 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn