intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức dạy học hoạt động Đọc- Viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT – bộ Kết nối tri thức với cuộc sống

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:70

24
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nhằm định hướng cho GV cách thức xây dựng và vận dụng Rubric ĐGNL HS trong dạy học hoạt động Đọc- Viết cấp THPT, từ đây góp phần đổi mới dạy học và KTĐG Ngữ văn theo hướng phát triển NL HS; hình thành ở học sinh những phẩm chất, năng lực cần có theo yêu cầu mục tiêu của chương trình GDPT mới 2018.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức dạy học hoạt động Đọc- Viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT – bộ Kết nối tri thức với cuộc sống

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: THIẾT KẾ RUBRIC ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ĐỌC - VIẾT Ở CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THPT - BỘ KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG Lĩnh vực: NGỮ VĂN Nhóm tác giả: 1. Nguyễn Thị Thủy – Tổ trưởng CM – SĐT: 0334.013.213 2. Tăng Thị Trang– Giáo viên – SĐT: 0976.213.008 3. Lương Thị Trang - Giáo viên- SĐT: 0383.753.103 Đơn vị: Trường THPT Yên Thành 3 Thời gian thực hiện: Năm học 2022-2023 Yên Thành, tháng 12 năm 2022
  2. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. PPDH: phương pháp dạy học 2. HPH: Hội phụ huynh 3. THPT: Trung học phổ thông 4. ĐGNL: Đánh giá năng lực 5. GDPT: Giáo dục phổ thông 6. CT: Chương trình 7. NL: Năng lực 8. VB: Văn bản 9. KTĐG: Kiểm tra đánh giá
  3. MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN A – ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 4. Phương pháp nghiên cứu 5 5. Điểm mới trong nghiên cứu 5 PHẦN B – NỘI DUNG 7 II. Cơ sở lý luận và thực tiễn 7 II.1 . Cơ sở lý luận 7 1.1.1 Khái niệm Rubric 7 1.1.2 Những nghiên cứu về Rubric trong giáo dục 7 1.1.3. Những nghiên cứu về Rubric trong dạy học Đọc –Viết nhằm phát 7 triển năng lực phẩm chất của học sinh I.2. Cơ sở thực tiễn 9 I.2.1.Thực trạng việc đánh giá năng lực Đọc-viết của học sinh 9 trường THPT hiện nay I.2.2. Khảo sát thực trạng việc đánh giá năng lực Đọc-viết ở trường 10 THPT Yên Thành 3 II.1. Thiết kế Rubric đánh giá năng lực Đọc-viết 10 II.1.1. Thiết kế Rubric đánh giá năng lực Đọc-viết 10 II.1.2.Thiết kế Rubric đánh giá năng lực Đọc-viết 18 III. Thực nghiệm sư phạm 39 III.1. Mục đích thực nghiệm 50 III.2. Tổ chức thực nghiệm 50 III.3. Phương pháp thực nghiệm 50
  4. III.4. Kết quả thực nghiệm 50 III.5. Phương pháp thực nghiệm 50 III.6. Giáo án thực nghiệm- Kế hoạch bài dạy thực nghiệm PHẦN C – KẾT LUẬN 53 I. Đóng góp của đề tài 53 II. Một số đề xuất 55 Tài liệu tham khảo Phụ lục
  5. PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1. Trong bối cảnh cả thế giới đang ngày càng đổi thay nhanh chóng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó hoạt động giáo dục. Nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển, các quốc gia trên thế giới luôn quan tâm chú trọng đầu tư vào hoạt động giáo dục. Mục tiêu đổi mới giáo dục nước nhà được Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” 2. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới giáo dục của nước nhà đòi hỏi mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục, mỗi giáo viên phải không ngừng tự đổi mới về phương pháp, cách thức tổ chức dạy học để phát triển phẩm chất và năng lực, tự nâng cao chất lượng dạy học cho phù hợp với xu thế chung của toàn xã hội. Kiến thức của nhân loại là vô hạn, thầy cô giáo chỉ là người định hướng để học sinh tự tìm tòi, tự nghiên cứu để tự chiếm lĩnh tri thức. Chỉ có như vậy thì các em học sinh mới có đầy đủ kiến thức một cách toàn diện, sâu sắc, đáp ứng được yêu cầu của người học trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. 3. Một trong những quan điểm xây dựng Chương trình GDPT 2018 của bộ môn Ngữ Văn mới là “lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Quan điểm này vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn chương trình, vừa giúp cho việc tích hợp tốt, thể hiện rõ đặc điểm chương trình phát triển năng lực, phẩm chất của người học. Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn ở trường trung học phổ thông, việc lựa chọn nghiên cứu vấn đề thiết kế Rubric trong tổ chức hoạt động Đọc- Viết ở Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018 của chúng tôi là hết sức cần thiết, tất yếu cho việc thực hiện dạy học CT mới nói chung và trong tổ chức hoạt động Đọc- Viết nói riêng. 4. Rubric được xem là một trong số các công cụ ĐGNL hiệu quả. Rubric đã hiện diện ở nhiều quốc gia có nền GD tiên tiến. Với nhiều ưu điểm nổi bật, rubric rất phù hợp với yêu cầu đổi mới Kiểm tra, đánh giá (KTĐG) môn Ngữ văn hiện nay, đặc biệt là trong KTĐG NL tạo lập VB. Tuy nhiên, ở Việt Nam, công cụ trên vẫn chưa thực sự được đề cập một cách rộng rãi trong lí thuyết cũng như thực tiễn KTĐG trong dạy học Ngữ văn. Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Xây 1
  6. dựng rubric ĐG NL học sinh trong Chương trình Ngữ văn THPT với hi vọng, đề tài sáng kiến kinh nghiệm sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh ở các trường THPT. Hơn nữa, với mong muốn đổi mới hoạt động dạy học, đổi mới tư duy sáng tạo, linh hoạt cho GV trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá học sinh góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp giáo dục của nhà trường trong giai đoạn mới, chúng tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức dạy học hoạt động Đọc- Viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT – bộ Kết nối tri thức với cuộc sống”. Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn đang có nhiều thiếu sót, kính mong được sự góp ý của Ban giám khảo và đồng nghiệp để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện hơn! Theo tinh thần của chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo trục Đọc- Viết- Nói và Nghe nhằm hình thành cho các em năng lực ngôn ngữ ở tất cả các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong nhiều ngữ cảnh đa dạng. Số tiết dạy đọc hiểu văn bản ở cả chương trình hiện hành và chương trình GDPT 2018 thực hiện ở năm học tới chiếm tỉ lệ lớn vì thế khi dạy đọc- hiểu văn bản cho học sinh ở trường THPT giáo viên phải vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng không chỉ của Ngữ Văn mà còn huy động các kiến thức và kĩ năng của các môn học khác nhằm đáp ứng yêu cầu về sự tăng lên của khối lượng tri thức ngày càng cao của cuộc sống hiện đại. Trọng tâm vẫn là thông qua những văn bản văn học đặc sắc, giúp HS phát triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt, giúp HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có hứng thú viết, thảo luận về các văn bản cùng thể loại nhờ đó các em có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn. Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng. Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc sống và công việc. 2
  7. Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa. Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời sống xã hội. Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có thói quen và niềm vui đọc sách, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân toàn cầu, nhưng luôn có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra chương trình Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông, môn Ngữ văn còn có thêm mục tiêu trang bị kiến thức và kĩ năng theo định hướng nghề nghiệp của HS. Chẳng hạn, những HS có xu hướng học đại học những ngành nghề có liên quan trực tiếp đến Ngữ văn thì được học sâu hơn dưới hình thức các chuyên đề tự chọn. Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viết-nói Và Nghe nhưng Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học then chốt của môn Ngữ văn. Thứ nhất, giáo viên cần xác định rõ vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ cấu trúc chương trình: - Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học quan trọng bậc nhất, khi chương trình đã xác định rõ hai trục chính của dạy học Ngữ văn là đọc văn và làm văn. - Thời gian dành cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn thời gian dạy học toàn môn học. - Phần cung cấp dữ liệu phục vụ trực tiếp cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn số trang của sách giáo khoa Ngữ văn cả trong chương trình hiện hành và SGK chương trình giáo dục phổ thông 2018 . Thứ hai, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần xác định thêm vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ mục tiêu của môn Ngữ văn. Dạy học đọc hiểu văn bản đảm bảo phần lớn mục tiêu bồi dưỡng “tri thức ngữ văn” cho học sinh (tri thức ngữ văn là một thuật ngữ mang tính quy ước, dùng để chỉ các loại tri thức mà môn Ngữ văn có nhiệm vụ đưa đến/bồi dưỡng/ củng cố cho học sinh hoặc giúp học sinh tự kiến tạo cho mình trong quá trình học). Thứ ba, vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ hoạt động kiểm tra, đánh giá. - Nội dung kiến thức của dạy học đọc hiểu cũng là nội dung chính của kiểm tra, đánh giá (không chỉ đối với học sinh mà còn đối với cả giáo viên). - Phương pháp dạy học đọc hiểu là thước đo chính để đánh giá việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên Ngữ văn. - Năng lực dạy học đọc hiểu là tham số quan trọng nhất để đánh giá năng lực dạy học của giáo viên Ngữ văn (trong những kỳ thi giáo viên giỏi, giáo viên gần 3
  8. như bắt buộc phải dạy một “bài” đọc hiểu văn bản, ngoài những “bài” khác, hoặc làm văn, hoặc tiếng Việt). Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc. Đọc là một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Như vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được cách đọc, rèn được cách đọc, từ đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có được những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì văn bản nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT được trang bị thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần được giáo dục để trở thành những thanh niên mạnh dạn, tự tin, chủ động và sáng tạo trong giao tiếp và công việc, có khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập trong nhiều tình huống. Chúng ta còn nhớ cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu quan điểm chỉ đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông: "Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình...". Như vậy dạy học văn là một quá trình rèn luyện toàn diện cho nên giáo viên phải không ngừng trăn trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn nói chung, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp ứng được yêu cầu trên. Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, việc hình thành kiến thức ngôn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được tích hợp với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ định hướng đó, sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn sẽ được thiết kế theo mô hình tổ chức hoạt động thay cho mô hình cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được một nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề hiện nay cần được đặc biệt chú ý nghiên cứu. Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những kiến thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và SGK không bố trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về loại, thể loại VB, giáo viên (GV) cần phải làm gì để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn ra thuận lợi? Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp. Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ thông, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc xây dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một GV Ngữ văn, điều này gây không ít băn khoăn. Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu của dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình yêu đối với môn Ngữ văn là 4
  9. động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc -viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT- Bộ kết nối tri thức và cuộc sống”. Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin định hướng một số biện pháp thiết kế Rubric nhằm đánh giá năng lực trong hoạt động dạy học Đọc- Viết ở Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm những mục đích sau: - Đề tài nhằm định hướng cho GV cách thức xây dựng và vận dụng Rubric ĐGNL HS trong dạy học hoạt động Đọc- Viết cấp THPT, từ đây góp phần đổi mới dạy học và KTĐG Ngữ văn theo hướng phát triển NL HS. - Hình thành ở học sinh những phẩm chất, năng lực cần có theo yêu cầu mục tiêu của chương trình GDPT mới 2018. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu về việc vận dụng Rubric trong GD, dạy học nói chung, trong dạy học Ngữ văn nói riêng; đặc biệt là trong ĐG NL Đọc- Viết ở HS THPT 3..2. Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc xây dựng rubric ĐG NL học sinh trong dạy học Đọc- Viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT 3.3. Xác định nguyên tắc và quy trình thiết kế rubric; đề xuất rubric ĐG NL Đọc- Viết của học sinh trong Chương trình Ngữ văn 10 THPT. 3.4. Phân tích, ĐG kết quả vận dụng Rubric thông qua thực nghiệm sư phạm nhằm khẳng định tính khả thi của những vấn đề mà đề tài đưa ra. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đề tài này đã áp dụng thành công đối với học sinh khối 10 và trên thực tế chúng tôi đã áp dụng với cả 3 khối 10,11,12, kết quả mang lại rất khả quan. - Địa bàn khảo sát thực nghiệm: Trường THPT Yên Thành 3, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. 5. Phương pháp nghiên cứu + Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận + Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ( Điều tra, khảo sát, thực nghiệm, phỏng vấn...) + Phương pháp khảo sát, thống kê toán học, phân tích, so sánh... 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Đề tài đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh trường THPT Yên thành 3 qua tổ chức hoạt động Đọc- Viết trong chuỗi hoạt động Đọc- Viết-Nói-Nghe của bài học. Từ trước tới nay có rất nhiều đề tài đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả Đọc -Viết cho học sinh nhưng chưa có một đề tài nào bàn về 5
  10. vấn đề thiết kế Rubric trong dạy học Đọc- Viết cho học sinh để qua đó nâng cao năng lực tiếp nhận văn bản củng như tạo lập văn bản, chủ động, tự tin trong đánh giá chính mình cũng như đánh giá bạn của các em học sinh. Vì vậy, những giải pháp mà chúng tôi đưa ra là hoàn toàn mới mà các đề tài trước chưa đề cập đến. 7. Ý nghĩa của đề tài Đề tài SKKN đã chỉ ra được cách thức xây dựng và vận dụng rubric; đề xuất chuẩn ĐG, rubric ĐG NL Đọc- Viết của HS nhằm tham khảo và vận dụng vào thực tế dạy học Ngữ văn 10 THPT nói riêng và dạy học phổ thông nói chung. Sáng kiến kinh nghiệm có thể dùng làm tài liệu tham khảo và tập huấn cho GV trung học phổ thông về KTĐG trong dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển NL. Sáng kiến kinh nghiệm này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên ở các trường THPT. Chúng tôi hy vọng đề tài sẽ là những định hướng có giá trị, là những tư liệu đáng tin cậy giúp các cơ sở giáo dục có thể thực hiện tốt hơn mục tiêu giáo dục của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. 6
  11. PHẦN B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài I.1. Cơ sở lý luận I.1.1. Khái niệm Rubric Rubric là một công cụ đánh giá được sử dụng khá rộng rãi trong thực tiễn giáo dục và dạy học hiện nay trên thế giới. Rubric là bảng mô tả chi tiết có tính hệ thống (theo chuẩn, tiêu chí và mức) những kết quả (kiến thức, kỹ năng, thái độ) mà người học nên làm và cần phải làm để đạt được mục tiêu cuối cùng khi thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Các Rubric dùng trong dạy học được thiết kế cho các mục đích đánh giá khác nhau, song đều dựa trên cùng một nguyên tắc chung là so sánh, đối chiếu và kiểm chứng kết quả đạt được với các chuẩn và tiêu chí đã được thống nhất xây dựng trước khi thực hiện hoạt động.Căn cứ vào chức năng và mục đích đánh giá, có thể chia Rubric thành 2 loại sau: Rubric định tính/tổng hợp (Holistic Rubrics): Rubric định tính (hay còn gọi là Rubric tổng hợp) được sử dụng để đánh giá một cách tổng thể toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ hoặc sản phẩm cụ thể. Rubric định tính cung cấp mô tả tổng hợp ứng với mỗi mức trên thang đánh giá. Rubric định lượng/phân tích (Analytic Rubrics): Rubric định lượng (hay còn gọi là Rubric phân tích) được sử dụng để đánh giá cho điểm từng công đoạn hoặc kết quả trung gian trong quá trình người học thực hiện nhiệm vụ. Rubric định lượng cung cấp các mô tả chi tiết của mỗi tiêu chí ở mỗi mức trên thang đánh giá. Nhìn chung có ba hướng quan niệm khi nghiên cứu rubric: (1)Nhóm định nghĩa rubric là công cụ cho điểm hoặc ĐG; (2)Nhóm định nghĩa rubric là bảng hướng dẫn ĐG hoặc bảng mô tả các tiêu chí; (3) nhóm định nghĩa rubric là thang ĐG hoặc thang xếp loại. Dù được diễn giải khác nhau, nhưng cả ba hướng nghiên cứu đều có điểm gặp gỡ, xem rubric là một công cụ ĐG kết quả làm việc dựa vào một hệ thống tiêu chí, được miêu tả cụ thể dưới dạng bảng biểu. Hệ thống tiêu chí này được cụ thể hóa thành các chỉ báo, chỉ số hay biểu hiện hành vi có thể quan sát, đo đếm được nhằm xác định mức độ đạt được của mục tiêu học tập. Rubric có thể được trình bày ở nhiều định dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp tùy mục tiêu, yêu cầu và đặc điểm đối tượng ĐG. Tuy nhiên, một rubric cơ bản cần đảm bảo ba thành phần chính là: các tiêu chí ĐG; các mức độ đạt được tiêu chí ĐG và cách thức cho điểm. I.1.2. Những nghiên cứu về Rubric trong giáo dục, dạy học trên thế giới và ở Việt Nam Căn cứ vào chức năng và mục đích ĐG, có thể chia rubric thành 2 loại sau: 7
  12. Rubric định tính (Tổng hợp) thường được sử dụng để ĐG một cách tổng thể toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ hoặc sản phẩm cụ thể. Rubric định tính không đòi hỏi sự mô tả chi tiết về các tiêu chí (chỉ số) thực hiện của từng công đoạn hay kết quả trung gian. Rubric định tính giúp GV chấm bài nhanh, phù hợp với các kì ĐG tổng kết. Tuy nhiên, ĐG kiểu này không cung cấp nhiều thông tin phản hồi cho GV và HS. Rubric định lượng (Phân tích) được sử dụng để ĐG cho điểm từng công đoạn hoặc kết quả trung gian trong quá trình người học thực hiện nhiệm vụ. Các điểm ĐG thành phần sẽ được cộng lại thành điểm tổng kết cuối cùng. Rubric phân tích đòi hỏi phải có sự mô tả chi tiết (đặc tả) các chỉ số tương ứng với tiêu chí, mức/cấp độ và điểm số. Do đó quá trình chấm bài loại này lâu hơn vì phải phân tích ĐG từng kĩ năng, từng đặc trưng khác nhau trong bài làm của HS. Tuy nhiên, rubric định lượng này cho phép thu thập nhiều thông tin phản hồi hơn, chi tiết hơn ở từng tiêu chí. Và nếu lưu trữ và xử lí những thông tin này GV sẽ có một bộ hồ sơ về điểm mạnh, điểm yếu của từng HS và quá trình tiến bộ của họ… Sử dụng một rubric định tính khi GV muốn có một ĐG nhanh, tổng thể, bao quát chung về thành tích của HS. Sử dụng một bảng rubric phân tích khi GV muốn nhìn thấy từng điểm mạnh và điểm yếu thuộc từng phần bài làm của HS; phản hồi thông tin chi tiết về bài làm, sản phẩm cho HS; ĐG kĩ năng phức tạp của HS; muốn HS tự ĐG sự hiểu biết hoặc việc làm của các em. I.1.3. Những nghiên cứu về ưu thế của Rubric trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết nhằm phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh Qua những nghiên cứu về uu thế của rubric trong đánh giá theo hướng phát triển năng lực. Nếu đặt trong tương quan so sánh với các công cụ ĐG khác thì rubric không hẳn là công cụ có ưu thế tuyệt đối trong ĐG NL. Tuy nhiên, rubric được thừa nhận rộng rãi là công cụ ĐG phù hợp với mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm. Với nhiều ưu điểm nổi bật, rubric thực sự là công cụ ĐG NL hiệu quả. Rubric giúp xác lập mục tiêu ĐG NL một cách cụ thể, chi tiết: Các mục tiêu ĐG được cụ thể hóa thành các tiêu chí, các tiêu chí lại được mô tả và phân chia trọng số, mức điểm ĐG hết sức chi tiết giúp GV dễ dàng đo lường, ĐG được các phương diện của NL học sinh. Rubric đảm bảo tính khoa học, tường minh, khách quan, công bằng trong ĐG NL: việc phân chia tỉ mỉ trọng số và mức điểm ĐG tương ứng với các mô tả chi tiết về các tiêu chí nhằm đảm bảo có thể lượng hóa được mức độ NL, theo đó công việc ĐG sẽ ngày càng tiệm tiến độ chính xác, giảm tính chủ quan và rút ngắn được thời gian ĐG. Rubric còn có thể được công khai trên mọi kênh và mọi đối tượng tham gia ĐG, từ GV, HS đến phụ huynh… Những đặc điểm này giúp cho các đối tượng được ĐG dễ dàng theo dõi các thông tin cần ĐG, tự nhận diện được 8
  13. mức độ NL của bản thân, rút ra những điểm tiến bộ và hạn chế của chính mình để có hướng khắc phục kịp thời. Rubric là một minh chứng ngắn gọn nhưng rất rõ ràng, tường minh, giúp GV có thể dùng để giải thích về chất lượng KTĐG trong lớp học với những người có liên quan như cha mẹ HS, các nhà quản lí GD. Tóm lại, ưu thế của rubric thực sự là một công cụ ĐG khoa học, tường minh, khách quan, công bằng. Rubric hỗ trợ cho quá trình dạy học theo phát triển NL: Rubric giúp biến quá trình KTĐG trở nên chủ động và hữu ích đối với quá trình dạy học. Trước hết, rubric nâng cao NL tự ĐG của HS. Rubric là công cụ hữu hiệu để thực hiện ĐG quá trình và ĐG định kì. HS được cung cấp bảng rubric, để có thể dựa vào đó để biết tại sao bài làm, sản phẩm, dự án của mình được ĐG ở mức độ đó, điểm nào mạnh, điểm nào yếu, cần khắc phục, cố gắng để đạt được thứ hạng cao hơn như thế nào ở những lần sau. Với rubric các HS còn có thể ĐG các bạn học với nhau, giúp cho các em hoàn thiện và phát triển các kĩ năng giao tiếp, thông qua việc trao đổi thông tin với bạn bè. Phụ huynh cũng được cung cấp rubric để có căn cứ hiểu rõ công việc và các yêu cầu trong học tập của con mình, theo dõi, nắm bắt kịp thời sự phát triển và tiến bộ của các em, qua đó giúp các em hoàn thành công việc học tập. Từ một công cụ ĐG, rubric đồng thời trở thành công cụ hỗ trợ quá trình dạy học của GV và HS. Những gợi dẫn từ các tiêu chí dạy học của rubric sẽ giúp GV xác định rõ ràng những mong đợi và tập trung giảng dạy theo tiêu chí, cho phép GV có những hoạch định sẵn để thích ứng với các lớp học không đồng nhất, giúp họ phân hạng được mức độ NL của người học khi giảng dạy. II.2. Cơ sở thực tiễn I.2.1. Thực trạng việc đánh giá năng lực của học sinh qua hoạt động Đọc của học sinh trong trường THPT hiện nay. Hiện nay chương trình GDPT 2018 biên soạn theo hình thức cuốn chiếu đã áp dụng ở lớp 10 từ năm học 2022-2023. Do đặc thù về mục tiêu, nội dung dạy học trong chương trình hiện hành là: chú trọng yêu cầu đọc hiểu và viết, nên nhu cầu nghiên cứu dạy học văn bản cũng chủ yếu tập trung vào hai hoạt động này. Tuy nhiên, Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông tổng 2018 đã xác định sự cần thiết phải dạy học đọc hiểu VB theo loại thể, và thiết kế bài học có sự đổi mới “Chương trình được thiết kế theo mạch nội dung chính tương ứng với các hoạt động giao tiếp: nghe, nói, đọc, viết. Trong thực tế, mỗi hoạt động đọc, viết gắn liền với một VB cụ thể thuộc thể loại nhất định. Do đó, hệ thống các yêu cầu cần đạt về đọc và viết dựa vào các đặc trưng thể loại của văn bản”. Đặc biệt đến tháng 12/ 2018 Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành “Đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông, chương trình tổng thể” (Khung chương trình) cùng với các chương trình môn học, hoạt động giáo dục, trong đó có chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn kèm theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT, nên trong một vài năm gần đây đã có những công trình nghiên cứu về tổ chức hoạt động đọc, viết, nói và nghe 9
  14. trong dạy học văn bản, tuy nhiên các công trình đó chưa nghiên cứu cách thiết kế Rubric trong đánh giá năng lực học sinh chưa nhiều. I.2.2. Khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài I.2.2.1.Mục đích khảo sát Để tìm hiểu về thực trạng nhận thức và tính cấp thiết cũng như khả thi của việc vận dụng Rubric trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10 ( Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống), chúng tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên Ngữ Văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành. I.2.1.2 Nội dung khảo sát - Thiết kế và vận dụng Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10 có thực sự cấp thiết đối với việc tổ chức dạy học văn bản không? - Thiết kế và vận dụng Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10 có thực sự khả thi đối với việc tổ chức dạy học văn bản không ? https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSf53O3YLvxy8cv156cVQo- MeZtfLCQ3RgUnAac_AXmeoADmZw/viewform I.2.1.3 Phương pháp khảo sát Phương pháp được sử dụng để khảo sát là trao đổi bằng bảng hỏi; với thang đánh giá 04 mức (tương ứng điểm từ 1-4) Điểm trung bình tính bằng phần mềm execl Đối tượng khảo sát STT Đối tượng Số Lượng 1 GV Ngữ Văn trường THPT Yên Thành 3 8 2 GV Ngữ Văn trường THPT Yên Thành 2 7 3 GV Ngữ Văn trường THPT Phan Đăng Lưu 6 Tổng 21 1 Học sinh khối 10 THPT Yên Thành 3 151 Kết quả khảo sát Đối với giáo viên: sau khảo sát chúng tôi thu được các số liệu như sau: Đánh giá sự cấp thiết của giải pháp 10
  15. STT Các giải pháp Các thông số X Mức 1 Thầy/cô đánh giá như thế nào về sự cấp thiết 4 4 của việc thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong hoạt động Đọc-Viết trong trường THPT 2 Thầy/ cô đánh giá như thế nào về tính khả thi 3,6 4 của việc thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong hoạt động Đọc-Viết trong trường THPT Về vấn đề “Thầy/ cô đánh giá như thế nào về sự cấp thiết của việc Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10” có 100% GV được hỏi đã trả lời là “Rất cấp thiết”. Như vậy đa số GV đều nhận thức được rằng Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết là rất cấp thiết đối với chương trình Ngữ Văn mới. Đánh giá tính khả thi của giải pháp STT Các giải pháp Các thông số X Mức 1 Thầy cô đánh giá như thế nào về tính khả thi 3 Rất khả thi của việc Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết trong chương trình Ngữ văn 10 Về vấn đề “Thầy cô đánh giá như thế nào về tính khả thi của việc Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết trong chương trình Ngữ văn 10” có 11/ 21 trả lời rất khả thi, số còn lại cho rằng khả thi. Như vậy qua bảng khảo sát, các GV Ngữ văn đánh giá cao về tính khả thi của việc Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết trong chương trình Ngữ văn 10 Cùng với quá trình trao đổi, dự giờ của các đồng nghiệp, cộng với kết quả thu được qua khảo sát nói trên, chúng tôi kết luận một số vấn đề như sau: Phần lớn GV đều rất quan tâm dến dạy học theo định hướng phát triển năng lực và họ đều cho rằng áp dụng Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết chưa thường xuyên 11
  16. Một số GV còn chưa thực sự tự tin và vận dụng linh hoạt, hiệu quả Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết. Một số GV đã có nhiều cố gắng để xây dựng và sừ dụng Rubric vào tổ chức các hoạt động nhằm phát huy được phẩm chất, năng lực HS. Việc kiểm tra, đánh giá chưa đa dạng. Như vậy, vận còn hiện tượng nhiều GV chưa thực sự đổi mới PPDH hoặc việc vận dụng phương pháp của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí, nó cần được điều chỉnh, cải tiến để dạy học văn bản có hiệu quả hơn. Yêu cầu cần đạt của chương trình về kĩ năng đọc gồm kĩ thuật đọc và đọc hiểu. Kĩ thuật đọc gồm các yêu cầu về tư thế đọc, kĩ năng đọc thành tiếng, kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, kĩ năng ghi chép trong khi đọc,... Các văn bản Đọc hiểu trong chương trình Ngữ văn THPT 2018 gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin. Đánh giá năng lực Đọc – hiểu mỗi kiểu văn bản và thể loại nói chung có các yêu cầu cần đạt sau: -Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông điệp,... -Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các thành tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện, truyện kể, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng chứng,...), ngôn ngữ biểu đạt,… - Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn bản đa phương thức,… -Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc. Khi được hỏi điều GV chú trọng nhất khi dạy đọc hiểu là gì, có 60% GV cho rằng cung cấp kiến thức, kĩ năng, thái độ qua bài học, 39% GV được hỏi cho rằng đó là dạy cho HS biết cách đọc văn bản theo thể loại trong sách giáo khoa và chỉ 4% hướng đến dạy HS cách tự đọc các văn bản cùng thể loại ngoài CT. Các số liệu này cho thấy, quan niệm của GV về giờ dạy đọc văn bản ở trường THPT chủ yếu vẫn nặng về cung cấp kiến thức, chỉ một số ít GV nhận thấy cần dạy HS đọc VB theo đặc trưng kiểu loại. Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, “Đọc” trong dạy học môn Ngữ Văn là hình thành cho HS kĩ năng đọc. Nói cách khác, “GV phải dạy cho HS cách đọc chứ không phải là cung cấp cách hiểu về VB cho HS. HS phải được học cách đọc để HS có hứng thú, thói quen và kĩ năng tự đọc sách và trở thành người đọc độc lập. I.2.2. Thực trạng về hoạt động viết và thực hành viết của học sinh THPT Viết là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có vai trò rất quan trọng trong giao tiết mà trực tiếp là bày tỏ suy nghĩ ý kiến về một vấn 12
  17. đề hay một nhân vật cụ thể. Tuy nhiên, kỹ năng viết không có nguồn gốc từ bẩm sinh cũng không phải tự nhiên có được mà được hình thành từ việc cá nhân được đào tạo và tự rèn luyện trong thực tiễn cuộc sống. Chúng tôi tiến hành khảo sát học sinh khối 10 ở trường THPT Yên Thành 3 Chất lượng bài kiểm tra năng lực viết môn Văn của học sinh qua kì thi tuyển sinh và khảo sát đầu năm ài Điểm thi tuyển sinh Điểm khảo sát hè iết/ Trung Trung Giỏi Khá Giỏi Khá Yếu lớp bình bình 10A1 15 20 06 03 15 15 07 10A4 17 21 05 05 16 12 05 10A6 32 10 0 10 17 11 01 10A7 25 17 02 08 16 09 01 Bảng kết quả khảo sát trên cho thấy: Bước đầu học và kiểm tra đánh giá theo cấu trúc có thay đổi so với khảo sát cấp 2, Hs tỏ ra lúng túng, kĩ năng làm bài chưa nhuần nhuyễn. Kết quả khảo sát trên cũng chứng tỏ lối học thực dụng (học để thi chuyển cấp), học gì thi nấy thì cho kết quả tốt, còn học ở lớp 10 chưa cần sử dụng kết quả để xét tuyển ĐH nên bước đầu kết quả kiểm tra không cao so với kì thi tuyển sinh. Nội dung khảo sát: hiển thị trong Phụ lục 2B (Phiếu khảo sát số 2) dành cho học sinh lớp 10 đang thực hiện Chương trình GD hiện hành. Kết quả khảo sát: Về thái độ học tập môn Ngữ văn: Không hứng thú Rất yêu thích Yêu thích Lớp/ học (RYT) (YT) lực (KHT) Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ 13
  18. lượng lệ % lượng lệ % lượng lệ % 10A1 0 0% 06 15% 34 85% 26.3 73.6 10A4 0 0% 10 % 28 % 12.8 38.4 46.1 10A6 05 % 15 % 18 % 14.7 44.1 10A7 05 % 14 41.1 15 % Biểu đồ thể hiện Thái độ học tập môn Ngữ văn của học sinh Qua kết quả khảo sát và biểu đồ biểu diễn thái độ học tập môn Ngữ văn của học sinh trên đã chỉ rõ một thực tế: HS tỏ ra chán học Văn, thiếu cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm đam mê với môn học. HS xác định mục tiêu học Ngữ văn chỉ để thi tốt nghiệp, thi đại học, rất khó để tìm ra HS xác định học còn vì yêu thích môn học này. + Về nhu cầu phát triển năng lực của học sinh: Không quan tâm Nhu Rất mong Có nhu cầu ở mức Không có nhu đến việc phát triển cầu của muốn (A) độ bình thường (B) cầu (C) năng lực này (D) HS 14
  19. Số Số Số Số Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ lượng lượng lượng lượng 10A1 17 42.5% 10 25% 06 15% 07 17.5% 10A4 16 42.1% 10 26.3% 05 13.1% 07 18.4% 10A6 26 66.6% 05 12.8% 05 12.8% 03 7.6% 10A7 20 58.8% 05 14.7% 04 11.7% 03 8.8% Kỹ năng viết (KNV) là dạng kỹ năng chuyên biệt thể hiện tư tưởng, ý đồ giao tiếp bằng ngôn ngữ viết và các chuẩn mực văn bản. KNV là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có vai trò rất quan trọng trong công việc của bất kỳ cá nhân nào và ở bất kỳ vị trí công tác nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, KNV lại càng có vai trò và vị trí quan trọng hơn bởi nó thể hiện được năng lực giao tiếp, tạo được thiện cảm, sự yêu mến, uy tín và sự tin cậy, tăng sức ảnh hưởng của bản thân trong học tập và cuộc sống. Tuy nhiên, KNV không có nguồn gốc từ bẩm sinh cũng không phải tự nhiên có được mà được hình thành từ quá trình rèn luyện từ những tiết làm văn và trong thực tiễn cuộc sống. Trong thực tế hiện nay, KNV của học sinh đang rất yếu, đã và đang bị dư luận xã hội, các nhà ngôn ngữ học đề cập tại các hội thảo khoa học và trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là sau mỗi kì thi THPT quốc gia. Những bài văn hài hước ngô nghê với lối tư duy, lập luận non nớt đang trở thành tâm điểm chú ý 15
  20. của xã hội. Bên cạnh đó, cũng qua các kì thi, những bài văn bỏ dỡ, bỏ giấy trắng cũng không phải hiếm gặp. Đây là một thực tế đáng báo động không chỉ với môn Ngữ văn mà còn với giới trẻ hiện nay. Hiện tượng học sinh ít tìm hiểu về lý thuyết vì thấy lý thuyết xa lạ. Những bài lý thuyết trong sách giáo khoa hiện hành không quy về một mối. Học sinh học Làm văn chỉ biết sao chép kiến thức và phát ngôn theo những khuôn sáo có sẵn, không chủ động được, không ý thức được viết là sản phẩm mang ý nghĩa cá nhân. Đây là thiếu sót phổ biến trong các bài làm văn của học sinh phổ thông. Có một điều khá phổ biến ở học sinh THPT là khi làm bài văn xong không thể tự mình rút kinh nghiệm, tự mình đánh giá xem bài làm có chỗ nào đạt, chỗ nào chưa đạt khi được trả bài. Một bộ phận học sinh học hết THPT nhưng chưa nắm vững thật chắc quy trình làm một bài văn, chưa làm chủ được các thao tác, các công việc cần thiết của tiến trình xây dựng một văn bản. Ở đây ta không bàn đến cảm hứng sáng tạo mà chỉ nói đến ý thức trong đầu của người cầm bút về ý đồ thông báo, về nội dung thông báo, về phương thức thông báo và kết cấu phát ngôn. Chỗ yếu này của học sinh phản ánh tình trạng mù mờ về lí thuyết mà giáo viên THPT lâu nay vấn thường mắc phải. Học sinh chưa có thói quen suy nghĩ kĩ đề, về yêu cầu của đề, về cách lập ý và lập đề cương, về tập hợp tư liệu…Hiện tượng lạc đề, xa đề, lan man, kết cấu lộn xộn, trùng lặp, mất cân đối, luận điểm không rõ… Đó là những thiếu sót trong kĩ năng làm bài của học sinh THPT. I.2.3.Thực trạng nhận thức về hoạt động viết và việc hướng dẫn học sinh thực hiện quy trình viết của giáo viên THPT Thực tế cho thấy, khi thi giảng, giáo viên thường chọn tiết đọc hiểu vì cho đó là phần chính, phần thể hiện toàn bộ năng lực của giáo viên rõ hơn, học sinh thích thú hơn. Điều đó chứng tỏ, trong suy nghĩ của một bộ phận giáo viên vẫn có sự “kì thị”nhất định đối với phần Làm văn và việc viết vẫn thuộc về sự” ăn may”. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0