intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong một số truyện ngắn từ đầu cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:52

32
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp học sinh nâng cao năng lực phân tích thẩm bình, để hiểu sâu sắc giá trị tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn xuôi tự sự nói riêng; Giúp các em có kĩ năng làm bài văn cảm thụ chi tiết, đáp ứng được yêu cầu của việc thi cử theo tinh thần đổi mới của những năm gần đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong một số truyện ngắn từ đầu cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX

  1. 1 TÌM HIỂU CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TỪ ĐẦU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN HẾT THẾ KỶ XX Tác giả: Mai Thị Huệ - GV tổ Ngữ Văn Trường THPT Yên Dũng số 3 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm Dạy và học kiểu bài đọc – hiểu tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn là một việc làm khá thường xuyên của thầy và trò trong suốt ba năm bậc phổ thông trung học. Để làm tốt công việc này, giáo viên phải nắm vững những đặc trưng cơ bản của thể loại; học sinh phải có kĩ năng cảm thụ, đọc hiểu tác phẩm, có phương pháp phân tích, diễn đạt phù hợp. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ được cấu thành từ nhiều yếu tố trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ thuật được tạo nên bởi tài năng của nhà văn. Một tác phẩm văn học được tạo nên bởi muôn vàn chi tiết trong sự đan cài móc nối rất chặt chẽ không thừa, không thiếu bởi bàn tay khéo léo tài hoa của người nghệ sĩ. Muốn nắm bắt được tư tưởng–linh hồn của tác phẩm và cá tính sáng tạo của nhà văn ta cần thiết phải tìm hiểu từng chi tiết nghệ thuật trong sự sắp xếp vô cùng chặt chẽ đó. Nhà văn Nga Pauxtopxki từng nói:“chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”. Trong truyện ngắn Bụi quý (nằm trong tập sách Bông hồng vàng) nhà văn đã kể câu chuyện: Anh thợ quét rác thành Pa-ri Sa-mét sau lần gặp Xuyzan đã không đổ bụi ở những hiệu kim hoàn đi nữa mà chắt chiu gom nhặt từ vô vàn những hạt bụivàng li ti nằm lẫn trong đống rác thải của những tiệm kim hoàn. Sa-mét quyết định sẽ sàng bụi lấy vàng, đúc thành một thỏi nhỏ và dùng nó để đánh một bông hồng vàng mang lại hạnh phúc cho Xuyzan. Từ vô số hạt bụi vàng của Sa-mét người thợ kim hoàn đã đánh thành bông hồng vàng. Có thể ví tác phẩm tự sự tựa như bông hồng vàng còn các chi tiết nghệ thuật là những hạt bụi vàng. Một lượng bụi vàng nhất định sẽ làm nên một bông hồng vàng. Các chi tiết kết dính vào nhau làm nên một tác phẩm tự sự. Mỗi chi tiết như một tế bào cấu thành sự sống của tác phẩm văn chương. Theo các tác giả cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo dục - 1997): yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý. Nhiều khi truyện
  2. 2 ngắn sống được là nhờ vào những chi tiết hay, chi tiết đắt của tác phẩm. Nói như GS. Nguyễn Đăng Mạnh:“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy” (Trong cuộc tọa đàm về cuốn sách Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa báo Văn nghệ số 14, 4/1999). Một thói quen của người đọc nói chung và học sinh nói riêng khi tiếp cận văn bản tự sự là chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống mà ít quan tâm đến các chi tiết đặc biệt là những chi tiết phát sáng của tác phẩm. Do đó cảm nhận về tác phẩm đôi khi còn hời hợt và kém sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Những bài viết biết khai thác chi tiết thường tạo nên những nét riêng, mới mẻ và cá tính vì trong mỗi chi tiết luôn chứa đựng những lớp trầm tích càng khai thác càng thấy giá trị mở thêm ra thế giới văn chương đa hình muôn sắc. Có thể nói nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là rất cần thiết cho việc dạy học, nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đặc biệt là ở chương trình phổ thông trung học. Hơn nữa xu hướng thi những năm gần đây (thi THPTQG, học sinh giỏi) thường có câu hỏi về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Nhiều học sinh còn lúng túng, vụng về với dạng đề này. Thấy được vai trò vô cùng quan trọng của chi tiết trong tác phẩm tự sự và tính thiết thực của nó để có thể áp dụng vào thực tiễn dạy- học nên tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm: Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong một số truyện ngắn từ đầu cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. II. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm Trong SKKN này chúng tôi xin được trình bày những hiểu biết của mình về khái niệm chi tiết nghệ thuật với những đặc điểm nổi bật và vai trò của nó trong tác phẩm văn xuôi, khảo sát một số dạng đề về phân tích, cảm thụ chi tiết nghệ thuật. Chuyên đề nhằm hai mục đích: Với học sinh: Giúp học sinh nâng cao năng lực phân tích thẩm bình, để hiểu sâu sắc giá trị tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn xuôi tự sự nói riêng; Giúp các
  3. 3 em có kĩ năng làm bài văn cảm thụ chi tiết, đáp ứng được yêu cầu của việc thi cử theo tinh thần đổi mới của những năm gần đây. Với giáo viên: Tìm hiểu chi tiết trong tác phẩm tự sự cũng là một cách người viết tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Người dạy cần có ý thức soạn bài và giảng dạy cần bám vào đặc trưng thể loại, phân loại được chi tiết nghệ thuật, biết chọn chi tiết tiêu biểu quan trọng để thẩm bình làm nổi bật đặc điểm tính cách nhân vật, tư tưởng và dấu ấn cá tính sáng tạo nhà văn. III. Phương pháp thực hiện SKKN SKKN chủ yếu sử dụng các phương pháp thực hiện SKKN nghiên cứu sau: 3.1. Thu thập thông tin - Thu thập thông tin từ bài làm của học sinh các lớp người viết SKKN giảng dạy và các lớp khác trong trường. - Thu thập thông tin từ các tiết dạy và các giờ ôn tập, bồi dưỡng cho học sinh để tìm ra cách khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự một cách hiệu quả. 3.2. Phân tích bình giảng - Đọc các tài liệu về đặc trưng thể loại, các bài viết phân tích, cảm nhận về tác phẩm tự sự từ 1945 đến thế kỷ XX. - Tiếp cận, khảo sát trực tiếp văn bản tự sự. - Xây dựng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh cảm nhận, bình giá chi tiết tiêu biểu trong một số tác phẩm tự sự. 3.3. Thống kê phân loại - Thống kê các chi tiết nghệ thuật và lựa chọn những chi tiết nghệ thuật đặc sắc để hướng dẫn học sinh bình giá, cảm thụ. - Thống kê các đề văn xuất hiện trong đề thi THPTQG, đề thi HSG các năm gần đây để nắm bắt xu hướng và định hướng cách làm bài cho học sinh. - Thống kê các dạng đề văn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự để học sinh có đinh hướng cách làm bài của từng dạng đề. 3.4. So sánh đối chiếu - Đối chiếu thể loại truyện ngắn với thể loại khác để tìm ra đặc trưng của thể loại truyện ngắn - Đối chiếu, so sánh các cấp độ của chi tiết để nhận biết dạng đề.
  4. 4 B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Cơ sở lý luận I. Đặc trưng của truyện ngắn Truyện ngắn là một thể loại muôn hình muôn vẻ, biến đổi không cùng. Xung quanh thuật ngữ này đã có rất nhiều những định nghĩa khác nhau. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, NxbGD) cho rằng:“Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”. Theo các nhà biên soạn sách Lý luận văn học, là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ “Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người”. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn đã đưa ra khái niệm như sau :“Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phương diện của đời sống xã hội và con người. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng, truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận, đọc nó liền một mạch không nghỉ”. Nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “Viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở truyện dài có thể có những chương“độn” nhưng ở truyện ngắn chỉ cần viết một nửa trang lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa mà không phục vụ chủ đề, thì cũng trở nên vô ích” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Hoặc như ý kiến của cố nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau ở tính chất. Truyện ngắn không phải là truyện dài mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc…Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man”. (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới).
  5. 5 Những quan niệm về truyện ngắn như vậy được Nguyễn Minh Châu tán đồng khá hình tượng: “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn chỉ là mặt cắt của dòng đời như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ. Chỉ liếc qua những đường vân trên khoanh gỗ tròn kia dù trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời thảo mộc”. Nhà văn Nga Pautốpxki cho rằng:“Truyện ngắn là một truyện ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường và một cái gì bình thường hiện ra như cái không bình thường”. Cách hiểu này có sự gặp gỡ với nhà văn Mỹ Truman Capote về truyện ngắn: “Đó là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài”. Có thể thấy xuất phát từ dung lượng tác phẩm các nhà nghiên cứu, các nhà văn đều khẳng định truyện ngắn phải ngắn gọn, cô đúc, kiệm lời. Đặc trưng bao trùm riêng biệt nhất của thể loại truyện ngắn đã hàm chứa trong chính tên gọi của thể loại : Truyện ngắn. Dung lượng ngắn vừa là khối lượng câu chữ, vừa là nội dung phản ánh của truyện ngắn đồng thời là quy tắc sáng tạo của nhà văn. Truyện ngắn chỉ thông qua một hiện tượng, một lát cắt, một khoảnh khắc của đời sống, mà khái quát lên được bản chất của cuộc đời và con người. Đó là thể loại lõi phải dày, vỏ phải mỏng (Nguyễn Khải), có nội khí một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy (Nguyễn Thanh Hùng). Mặc dù số lượng câu chữ ít nhưng xét về chất lượng thì truyện ngắn có quyền bình đẳng với tiểu thuyết. Nói như nhà văn Lỗ Tấn: qua một mảng lông mà biết toàn con cáo, qua một con mắt mà truyền cả tinh thần. Bởi vậy người viết truyện ngắn phải có khả năng quan sát sắc sảo, năng lực khái quát cao độ, biết dồn nén, cô đọng cảm xúc và tư tưởng vào trong những chi tiết đặc sắc, mang nhiều ẩn ý như “bàn tay xiết lại thành nắm đấm” (Hê - ming - uê). Nếu “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, tlđd) thì ở truyện ngắn các là yếu tố như tình huống truyện, cốt truyện, nhân vật…trong đó chi tiết được coi là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn. II. Chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự 1. Khái niệm chi tiết nghệ thuật
  6. 6 a) Chi tiết là gì? Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - NXB Đà Nẵng có giải thích rõ: - Chi tiết (d): Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Kể rành rọt từng chi tiết. Sa vào chi tiết vụn vặt). Thành phần riêng lẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng, có thể tháo lắp được, như đinh ốc, trục, bánh xe... trong máy móc, thiết bị (Chi tiết máy). - Chi tiết (t): Có đầy đủ các điểm nhỏ nhất, tỉ mỉ (Dàn bài rất chi tiết. Trình bày chi tiết). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo. b) Chi tiết nghệ thuật là gì? Trong văn học “chi tiết” theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, tlđd) là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định”. Sách giáo khoa ngữ văn 11- Nâng cao cho rằng: chi tiết nghệ thuật “là những biểu hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt, nhưng lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng, đồng thời cũng biểu hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Do đó chi tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn vừa bộc lộ ý nghĩa của chúng”. Nói cách khác "Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết" (Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, tlđd). Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản nghệ thuật. Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu rõ chi tiết nghệ thuật. Tuy nhiên, trong một
  7. 7 truyện ngắn, không phải chi tiết nào cũng “mang nhiều ẩn ý”, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn được những chi tiết đắt giá, phân tích làm sáng tỏ ý nghĩa của nó trong việc thể hiện hình tượng, chủ đề tác phẩm và tư tưởng của tác giả. Hơn nữa, theo kinh nghiệm viết truyện ngắn của Vương Trí Nhàn: “toàn truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác”. Khái niệm chi tiết được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể nhưng nó không tách rời tổng thể. Các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm có quan hệ máu thịt với nhau, cho nên khi phân tích chúng ta phải đặt chi tiết đang tìm hiểu trong mối liên hệ khăng khít với các chi tiết khác, trong chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn của tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật được xem là thành tố nhỏ nhất trong một chỉnh thể ấy. 2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của nhà thơ có nơi nương náu. Đặc thù của thơ là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính là chi tiết trong thơ. Một cánh chim, một làn mây, một chiếc lá, một nhành hoa hay tia nắng...đi vào thơ không còn là sự vật vô tri nữa. Nó là hình ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Từ một cảnh huống, một tâm trạng mà thấy được nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ mà của cả một lớp người, một thời đại. Cao hơn là phản ánh số phận con người của một quốc gia, dân tộc ở những chặng đường lịch sử nhất định. Ở thể loại truyện ngắn, chi tiết nghệ thuật mang giá trị đặc biệt.GS.Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng:“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. Trong tác phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy mô, tầm vóc nhưng cô đọng, tinh chất chứa đựng tư tưởng lớn, tình cảm lớn, là giọt nước nhỏ qua đó thấy cả đại dương. Không nhà văn vĩ đại nào không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật từ những chi tiết nhỏ, đặc sắc. Thực tế cho thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu biểu, kết hợp với lối hành văn nhiều ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bằng những hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sống. Nhân vật Bêlicôp (“Người trong bao” - A. Sêkhôp), nhân vật AQ (“AQ chính truyện” - Lỗ Tấn), nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo” - Nam Cao)...đều là những
  8. 8 hình tượng điển hình đặc sắc, được khắc họa bằng nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái quát cao, phản ánh được diện mạo, bản chất con người và bộ mặt của xã hội, đồng thời thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con người rất riêng của mỗi nhà văn. Chi tiết nghệ thuật trước hết mang giá trị tạo hình và phản ánh. Nó là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật. Theo đó, “hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm và sống động là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân dung, nội thất, về cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi lời nói” (Từ điển thuật ngữ văn học, tlđd). Còn theo Nguyễn Công Hoan: “xây dựng truyện, mà không có chi tiết thì không có chuyện sinh động, gây cảm xúc” (Tlđd). Chi tiết nghệ thuật vừa làm cho sự vật, hiện tượng hiện lên rõ nét, vừa soi tỏ ý nghĩa của chúng, tạo chiều sâu, tính đa nghĩa cho tác phẩm. Sức nén mạnh mẽ tạo khả năng bùng nổ cho chi tiết, gây bất ngờ cho bạn đọc bởi những phát hiện, vỡ lẽ. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí”. Nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển đầy đặn. Thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện, gắn liền với những bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt, thiếu sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ôm đồm nhiều chi tiết thì rối rắm, rườm rà, giảm giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Nếu như tình huống truyện được coi là yếu tố hạt nhân của thể loại truyện ngắn thì hệ thống các chi tiết nghệ thuật đan cài, gắn kết với nhau tạo nên tình huống truyện và góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Mácxim Gorki đã nói:“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, từ chi tiết nghệ thuật có thể đánh giá tài năng, bản lĩnh của người cầm bút mà cụ thể chính là khả năng phát hiện, lựa chọn, sử dụng chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại” (H.Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây
  9. 9 dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút. Mỗi chi tiết nghệ thuật là một sáng tạo riêng của nhà văn nhưng đồng thời cũng kết tinh từ những gì thu lượm được trong đời sống sâu và rộng của người viết. Như giọt nước kết tinh cái mặn mòi của biển, chi tiết đồng thời cho thấy vốn sống của người cầm bút: liệu anh đã thực sự sống hết mình, sống sâu sắc “mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”? Như vậy, chi tiết nghệ thuật có vai trò quan trọng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật, tạo nên cấu tứ cho tác phẩm tự sự và có vai trò thúc đẩy tình huống truyện phát triển. Và quan trọng hơn cả, chi tiết nghệ thuật thể hiện khái quát tư tưởng, quan niệm về cuộc sống và con người của nhà văn. Chính những chi tiết có dung lượng lớn về ý nghĩa đã tạo cho tác phẩm “những chiều sâu chưa nói hết”. Cái tài của người viết truyện ngắn là phải tạo được những chi tiết đắt giá giống như “nhãn tự” trong bài thơ tứ tuyệt để kí thác những tâm niệm của mình đối với cuộc đời và con người. Tóm lại, dù là tác phẩm tự sự hay trữ tình cần phải xây cất từ chi tiết. Theo quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào trong một giọt sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh, đời thường tưởng như giản đơn nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con người, nhân loại. Tìm hiểu, phân tích chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự có ý nghĩa vô cùng quan trong với người tiếp nhận và người cầm bút. Với người tiếp nhận: Khám phá tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể loại. Một trong những yếu tố thuộc đặc trưng của thể loại tự sự là tìm và phân tích cảm nhận chi tiết nghệ thuật. Đó là chìa khóa mở những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nếu bỏ qua các chi tiết nghệ thuật người đọc sẽ không hiểu hết được những tầng ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, không thấy được sự tài hoa của người nghệ sĩ. Đồng thời khi phân tích, bình giá tác phẩm phải đặt các chi tiết trong hệ thống, trong chỉnh thể nghệ thuật. Người đọc sẽ không nối được nhịp cầu tri âm với tác giả nếu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết nghệ
  10. 10 thuật nhỏ nhất, không sống hết mình với thế giới nghệ thuật, tích cực đồng sáng tạo với nhà văn. Với người cầm bút, anh phải dồn tâm lực để sáng tạo nên những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Nhà văn sẽ không thể làm nên tên tuổi nếu tác phẩm của anh không bắt đầu từ những chi tiết. Giống như con ong cần mẫn đi hút mật từ loài hoa trăm miền, như con tằm ăn hàng vạn lá dâu xanh, nhà văn bằng tài năng, tấm lòng và vốn sống của mình tạo nên những tác phẩm giàu giá trị, thông qua những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Tuy nhiên người cầm bút cũng như người đọc cần nhận thức rõ rằng dù chi tiết là yếu tố có tính quyết định nhưng hoàn toàn không phải là yếu tố duy nhất để làm nên một truyện ngắn hay. Vì thế người viết và người đọc cần lưu ý đến những yếu tố khác về đặc trưng thể loại của truyện ngắn để viết sâu sắc, đọc sáng tạo, hiệu quả. Chương II. Cơ sở thực tiễn I. Thực trạng tình hình về vấn đề 1. Đối với người học. Qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn trong nhiều năm nay, tôi nhận thấy: - Khi đọc hiểu tác phẩm tự sự nhiều học sinh chỉ đọc lướt, xem qua thâm chí là chỉ trả lời câu hỏi phần hướng dẫn học bài dựa trên các sách tham khảo mà không đọc văn bản. - Nhiều bài viết của học sinh thường khá hời hợt, rơi vào cảm nhận chung chung, xa rời văn bản và những chi tiết cụ thể, đặc sắc của tác phẩm. - Có một thực tế là nhiều học sinh còn yếu về khả năng phát hiện, bình giá chi tiết nghệ thuật. Nhiều học sinh không biết kĩ năng phân tích, cảm nhận nội dung tác phẩm tự sự thông qua các chi tiết nghệ thuật, năng lực viết sáng tạo. 2. Đối với người dạy - Trong dạy học môn Ngữ văn, một số giáo viên chỉ chú ý làm rõ phương diện nội dung tư tưởng của tác phẩm thông qua cốt truyện tình huống, nhân vật, ít hướng dẫn học sinh khai thác, thẩm bình các chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. - Một số giáo viên cưa chú ý hình thành cho học sinh kỹ năng phát hiện, bình giá chi tiết trong tác phẩm tự sự.
  11. 11 II. Các biện pháp để giải quyết vấn đề 1. Thống kê một số đề văn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự của các năm gần đây 1.1. Đề thi HSG Câu 2: (12 điểm) Trong tác phẩm văn học, sáng tạo nghệ thuật quan trọng, đặc sắc nhất, nhiều khi không phải ở hình tượng con người mà ở hình tượng đồ vật, sự vật: Một thứ thuốc chữa bệnh quái lạ (Thuốc - Lỗ Tấn), một bức thư pháp đẹp và quý (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) một công trình kiến trúc kỳ vĩ, tinh xảo (Vũ Như Tô - Nguyễn Huy Tưởng), một cây đàn huyền thoại (Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo)… Đó là những đồ vật, sự vật mang ý nghĩa biểu trưng cho nhận thức, nhân cách, ý chí, khát vọng, số phận… của con người. Ý kiến của anh chị về nhận định trên? Hãy phân tích hai trong những hình tượng đồ vật, sự vật đã nêu để làm sáng tỏ ý kiến của mình. (Đề thi chọn HSGQG - Năm 2013) Câu 2: (12 điểm) Bàn về truyện ngắn nhà văn Trung Quốc Trương Hiền Lương cho rằng: “Truyện ngắn giống như nước hoa quả cô đặc”, còn nhà văn Mỹ Truman Capote khẳng định:“Đó là một tác phẩm nghệ thuật có bề sâu nhưng lại không được dài”. Anh/chị hiểu như thế nào về những ý kiến trên? Hãy làm sáng tỏ thông qua một số truyện ngắn đặc sắc. (Đề thi chọn đội tuyển HSG môn Văn tỉnh Ninh Bình năm 2019) 1.2. Thi Đại học Khối C: Năm 2012: Câu I (2 điểm) Trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011), ở phần nói về thượng nguồn sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví vẻ đẹp của dòng sông này với hình ảnh hai người phụ nữ, đó là những hình ảnh nào? Ý nghĩa của những hình ảnh ấy?
  12. 12 Khối D: Năm 2012: Câu IIIa. Theo chương trình Chuẩn (5 điểm) Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua… (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155) Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới… (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32) Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những kết thúc trên. Năm 2013: Câu I (2 điểm) Trong tùy bút Người lái đò sông Đà (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013), Nguyễn Tuân từng nhìn “Sông Đà như một cố nhân”. Người “cố nhân” ấy có tính nết như thế nào? Cách ví von này có ý nghĩa gì? 2. Hướng dẫn học sinh phát hiện, bình giá chi tiết nghệ thuật trong giờ đọc hiểu văn bản truyện Nếu ví mạch ý là bộ khung xương thì những lời phân tích, bình giá trong đó có phân tích, bình giá các chi tiết nghệ thuật chính là phần da thịt tạo sức hấp dẫn, vẻ đẹp riêng cho bài học. Trước hết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện những chi tiết độc đáo, có giá trị trong tác phẩm. Đó có thể là có thể là một âm thanh, một cái tên, một màu sắc, một đồ vật, một lời nói, một ý nghĩ của nhân vật… Giáo viên có thể khéo léo sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý, không nên trực tiếp nêu ngay tên chi tiết trong lời hỏi (Ví dụ: Em cho biết chi tiết a, b, c … có ý nghĩa/ tác động như thế nào?). Sau khi học sinh đã phát hiện được chi tiết đặc sắc, giáo viên hướng dẫn phân tích chi tiết đó trên tất cả các phương diện như vị trí, tần suất xuất hiện… Khi phân tích, cũng có thể tìm ra những bất thường (nếu có), hoặc đặt chi tiết trong các mối quan hệ với nhân vật, hoàn cảnh…để tìm hiểu ý nghĩa.
  13. 13 Nhằm làm sâu hơn sự phân tích, có thể thực hiện thao tác đối sánh đơn giản ngay trong giờ giảng văn. Gviên cần gợi ý cho học sinh những hướng liên hệ đối sánh, học sinh tiếp tục phát hiện những điểm tương đồng và dị biệt, khám phá thêm những tầng ý nghĩa ẩn sâu của chi tiết. Sự đối sánh có thể tiến hành với những chi tiết trong cùng một tác phẩm hoặc với những chi tiết ở các tác phẩm khác nhau. Ví dụ, khi phân tích quang cảnh mới mẻ trước mắt Tràng trong buổi sáng hôm sau (Vợ nhặt – Kim Lân), có thể lựa chọn phân tích một âm thanh khỏe khoắn, vui tươi: “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất” và liên hệ so sánh với “tiếng cười nói của mấy người đàn bà đi chợ” trong Chí Phèo (Nam Cao). Đó đều là những thanh âm giản dị của sự sống thường ngày, nhưng vì những bất thường (cái đói trong Vợ nhặt, những trận say và sự tha hóa trong Chí Phèo) mà các nhân vật chưa bao giờ được nghe hay để ý tới. Chúng đánh thức khát vọng về cuộc sống với hạnh phúc mộc mạc đơn sơ. Cùng là những âm thanh sự sống thường ngày song ở Chí Phèo, nó (kết hợp với những âm thanh, hình ảnh khác) gợi nhắc về mơ ước xa xôi trong quá khứ, kéo theo nhiều trạng thái phức tạp phía sau còn ở Vợ nhặt, nó gợi lên ở Tràng ý thức vun vén gia đình và khát vọng hướng tới tương lai. Tổ chức cho học sinh phát hiện, phân tích chi tiết nghệ thuật nói chung, chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự nói riêng trong giờ giảng văn là cần thiết. Tuy vậy, do thời lượng dành cho mỗi bài học là có giới hạn nên việc lựa chọn phân tích luôn luôn phải có định hướng rõ ràng, tránh tham lam, phân tích lan man, làm loãng, rối mạch ý của bài học. 3. Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn từ 1945 đến hết thế kỷ XX Truyện ngắn nói riêng cũng như Văn học Việt Nam nói chung từ sau cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay đã có sự thay đổi, phát triển hơn truyện ngắn trước 1945 về cả hình thức lẫn nội dung. Những tác phẩm được tuyển chọn để dạy ở chương trình Ngữ văn 12 có thể coi là tiêu biểu cho truyện ngắn, thể hiện đầy đủ các đặc điểm của truyện ngắn đã nói ở trên. Đó là những truyện như: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu). Mỗi tác phẩm đã phản ánh hiện thực cuộc sống, đặt ra những vấn đề của từng giai đoạn
  14. 14 một cách sâu sắc bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc. Chính vì vậy, nên khi phân tích những truyện ngắn này để giảng dạy và phục vụ cho việc dạy và học của thầy và trò, người dạy và người học cần chú ý khai thác, cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tự sự thông qua những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu. 3.1. Truyện “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) Là thành quả sau chuyến đi thực tế dài tám tháng của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952, Vợ chồng A Phủ được coi là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của tập Truyện Tây Bắc. Tác phẩm phản ánh thân phận đau khổ của người nông dân miền núi dưới ách thống trị áp bức của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc đời cách mạng của họ. Có thể thấy, đoạn trích trong SGK tập trung chủ yếu về cuộc đời của Mị. Ở nhân vật này đầy ắp những chi tiết hay, chi tiết độc đáo. Tuy nhiên, chúng ta không thể đi hết mọi chi tiết mà cần lựa chọn những chi tiết có giá trị trong việc thể hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm và biết khai thác sâu ý nghĩa của mỗi chi tiết ấy. Có thể thấy chi tiết gây ấn tượng đặc biệt với người đọc đó là sự xuất hiện của Mị ở đầu tác phẩm. Mở đầu bằng giọng kể nhẹ nhàng, êm ru, Tô Hoài dẫn người đọc bước vào một thế giới không phải cổ tích mà thoang thoảng hương ca dao, cổ tích hứa hẹn nhiều sức gợi thông qua bức chân dung thiếu phụ buồn: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống Lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vả, chẻ củi hai đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi ... Cô ấy là vợ A Sử, con trai của thống lý Pá Tra”. Nhà văn đã lựa chọn những chi tiết gây ấn tượng mạnh, tạo nên những đối nghịch: Một cô gái lẻ loi, âm thầm gần như lẫn vào các vật vô tri, trong khung cảnh giàu có tấp nập của gia đình Pá Tra. Mị ngồi lẫn vào đá, cạnh tàu ngựa với công việc lao động cực nhọc quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, cõng nước...Đặc biệt khuôn mặt buồn rười rượi của cô gieo vào lòng người đọc những băn khoăn, ám ảnh. Người ta không ngừng đặt câu hỏi: Cô gái ấy là ai? Con gái nhà thống lí nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc phiện nhất làng, giàu có đến thế có biết khổ bao giờ mà phải cúi mặt buồn rười rượi. Ngòi bút của Tô Hoài vô cùng khéo léo cởi bỏ những băn khoăn ấy bằng một câu
  15. 15 văn tự sự đầy sức gợi: “Cô ấy là vợ A Sử, con trai của thống lý Pá Tra”. Cách vào đề độc đáo ấy vừa giới thiệu nhân vật, vừa khơi gợi cuốn hút người đọc. Đó là kết quả của thủ pháp sáng tạo tình huống có vấn đề trong lối kể chuyện truyền thống nhằm dẫn dắt người đọc cùng tác giả tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật. Sự xuất hiện của Mị trong cũng hé mở một thân phận đầy éo le, bất hạnh của cô gái Mèo dưới ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến những năm trước cách mạng. Tìm hiểu nhân vật Mị, qua đoạn giới thiệu chúng ta thường đi sâu vào các khía cạnh: nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần và sức sống kỳ diệu của nhân vật. Ở mỗi khía cạnh tôi hướng dẫn học sinh tập trung khai thác các chi tiết phục vụ cho các nội dung trên. Chẳng hạn ở nỗi đau thể xác có chi tiết “Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Ngòi bút của Tô Hoài thật dụng công khi miêu tả công việc của Mị trong nhà thống lí. Vòng quay của thời gian một ngày còn có phần dành cho con vật tự do nhưng con người đã bước chân vào nhà thống lí thì không có thời gian nào dành cho chính mình. Nhà văn đưa ra hình ảnh so sánh độc đáo: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Với thủ pháp so sánh độc đáo Tô Hoài cho người đọc thấy kiếp người như Mị sống trong nhà thống lí không bằng kiếp vật. Nó cũng cho thấy món nợ nhà giàu đã cướp đi tưởi thanh xuân dạt dào khao khát ở Mị, nó nhấn chìm ước mơ, khát vọng của cô gái Mèo ham sống, ham yêu trong thân phận nô lệ. Nó cũng chứng tỏ Mị và những người phụ nữ khác trong nhà thống lý bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn. Ở khía cạnh nỗi đau tinh thần, cần hướng dẫn học sinh tìm và khai thác chi tiết tưởng như giản đơn nhưng lại giàu ý nghĩa như chi tiết con dâu gạt nợ. Giữa lúc tuổi xuân mơn mởn Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, nghĩa là Mị phải chịu một cuộc đời bạc mệnh như bao kiếp hồng nhan trong xã hội cũ. Vì món nợ truyền kiếp từ ngày cha mẹ Mị cưới nhau vay tiền nhà thống lí mà Mị bị A Sử bắt về trình ma nhà giàu. Căn nguyên ấy không chỉ là nỗi ám ảnh nhức nhối trong tình cảnh éo le của bản thân Mị mà còn là nỗi đau đớn khôn nguôi của đồng bào thiểu số miền núi cao Tây Bắc trước những hủ tục nặng nề, trước sự độc ác, thâm hiểm của bọn thực dân, chúa đất những năm cách mạng
  16. 16 chưa về. Sống trong thâm phận con dâu gạt nợ, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi,“Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ”, chi tiết “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Đây là những chi tiết khắc họa nỗi đau tinh thần của Mị, người con gái cực khổ ấy đã hoàn toàn đánh mất cảm giác về thời gian và không gian, cô không nhớ ngày tháng, không nhớ nơi mình đang ở mà chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Giờ đây Mị chỉ là một công cụ lao động biết nói mà thôi. Địa ngục trần gian trong nhà thống lí khiến cho“Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh so sánh kết hợp với thủ pháp vật hóa con người đã được Tô Hoài sử dụng triệt để nhằm cực tả nỗi đau tinh thần của Mị. Nó gợi ấn tượng về hình ảnh một người đàn bà câm lặng, vô cảm vì quá đau khổ, vì kiếp người không bằng kiếp con vật. Ngòi bút của nhà văn trở nên sắc sảo khi dẫn dắt người đọc đến với căn buồng của Mị trong nhà Pá Tra:“Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Căn buồng ấy là ẩn dụ cho kiếp sống tù ngục, bức bối, ngột ngạt trong tâm hồn của người con gái giàu sức sống như Mị. Đó là thứ ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thân xác Mị nhưng cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Ngòi bút của nhà văn còn đi sâu khám phá đến ngọn nguồn đời sống tinh thần của Mị để chia sẻ đến tận cùng nỗi xót xa về thân phận của cô. Ngay cả một ý nghĩ của nhân vật nhà văn cũng diễn tả một cách tinh tế: “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Ý nghĩ của Mị khiến ta bàng hoàng trước sự tê liệt về mặt ý thức của cô gái rất mực yêu đời, yêu cuộc sống. Ngồi trong căn buồng âm u, tăm tối nhìn qua cửa sổ Mị không biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngoài kia là sương hay là nắng. Với Mị sự chuyển biến của thời khắc sớm hay tối hay là năm tháng qua đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm xúc gì. Cuộc sống của Mị giờ đây chỉ còn là màn sương mờ đục, không dĩ vãng, không tương lai. Sắc màu trăng trắng không biết là sương hay là nắng nơi ô
  17. 17 cửa sổ kia đã bao trùm lên tất cả đời sống tinh thần và tâm hồn Mị. Cô sống vật vờ, lặng lẽ như một cái bóng, một cái xác không hồn, mất hết sức sống. Khai thác khía cạnh sức sống kỳ diệu của nhân vật Mị, tôi cũng bắt đầu bằng việc cho học sinh tìm các chi tiết. Từ chi tiết khi mới về làm dâu mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc đến chi tiết Mị vào rừng tìm lá ngón để tự tử nhưng không đành lòng chết vì thương bố. Đặc biệt là những chi tiết Mị nổi loạn trong đêm tình mùa xuân và sau nữa là chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ. Có thể nói, nhà văn đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật Mị để nói lên sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát khao hạnh phúc ở nhân vật này. Trong đêm tình mùa xuân, có rất nhiều nhân tố khơi gợi sức sống tiềm tàng của nhân vật, nhưng Tô Hoài đặc biệt dụng công khi miêu tả âm thanh tiếng sáo. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc. Qua âm thanh tiếng sáo, tác giả đã từng bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật. Tiếng sáo đến với tâm hồn Mị bằng nhiều cung bậc, sắc thái thẩm mĩ. Ban đầu là tiếng sáo gợi bạn đầu núi, nó giúp Mị bước qua ranh giới của sự câm lặng cất lên thành tiếng nhẩm thầm, rồi tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường đã kéo Mị ra khởi trạng thái cực đoan. Tiếng sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật. Nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa của niềm ham sống, ham yêu trong Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong, trở thành tiếng lòng của người thiếu phụ.“Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo đã tạo nên những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mị, đợt sau lại mạnh mẽ hơn đợt trước. Và từ những sục sôi trong tâm trí, nó bùng ra thành hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng”. Hành động tưởng như giản đơn ấy nhưng lại giàu ý nghĩa. Nếu trước đây Mị không còn ý niệm về không gian, thời gian, sống trong tù đọng, tăm tối thì giờ đây với ngọn đèn khêu lên nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống của mình, để thoát ra khỏi những đêm dài tăm tối triền miên của quá khứ. Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền không thể ngăn lại. Dường như không kể gì đến những ràng buộc khắt khe, những xiềng xích tàn bạo của Pá Tra Mị tự mình hành động như một con người tự do theo tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách…”. Tất cả chuỗi hành động ấy đều diễn ra trước mặt A Sử. Mị đã hành động một cách thản nhiên theo tiếng gọi của tiềm thức, của khao khát tự do, hạnh phúc mà không thèm để ý đến cường quyền. Đó là chuỗi hành động mang tính chất nổi loạn thể hiện sự phản kháng mãnh liệt của một tâm hồn bị vùi dập vùng lên chống lại ách áp bức của giai cấp thống trị.
  18. 18 Nếu như trong đêm tình mùa xuân nhà văn để tiếng sáo gọi bạn tình đánh thức lòng ham sống trong Mị thì trong đêm cuối cùng ở nhà Pá Tra, Tô Hoài để Mị bắt gặp dòng nước mắt của A Phủ - “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ đã chạm vào đáy sâu chút tình người bị chôn vùi trong Mị bấy lâu khiến cô bừng tỉnh, thoát khỏi trạng thái vô cảm, đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Nhớ lại nỗi đau của mình, thương mình rồi thương người cùng cảnh ngộ. Lần đấu tiên Mị hiểu một cách cặn kẽ sự độc ác của giai cấp thống trị. Từ thẳm sâu bên trong tâm hồn Mị cất lên tiếng nói “Chúng nó thật độc ác”. Hai tiếng A Phủ lần đầu tiên rung động trong lòng Mị nghe như hơi thở của tình thương. Nỗi thương người mạnh hơn cả cái chết, lấn át nỗi sợ hãi. Nó biến Mị từ một người đàn bà cam chịu nô lệ sống trong câm lặng, vô cảm trở thành người phụ nữ can đảm, mạnh mẽ. Nó thôi thúc Mị bước lại cắt dây cởi trói cho A Phủ. Hành động vô cùng táo bạo của Mị đã chứng tỏ sức trỗi dậy kì diệu trong tâm hồn cô. Phút giây ấy khiến Mị hoảng hốt nhưng cũng là lúc bản năng tự vệ và sức sống tiềm tàng trong Mị bùng lên. Ý thức sâu sắc về sự sống và khát khao được sống, Mị vụt chạy theo A Phủ. Như vậy giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát cho chính cuộc đời mình. Cô đã cắt đứt sợi dây vô hình cột chặt cuộc đời mình vào quãng đời tủi nhục trong nhà thống lí Pá Tra. Không giống như chị Dậu (trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố) lao ra màn đêm đen tối như cái tiền đồ của chị, hành động chạy ra ngoài trời tối của Mị là hành động tự phát nhưng rất quyết liệt. Hành động ấy cho thấy từ trong địa ngục trấn gian tăm tối bao nhiêu năm, Mị vùng dậy thay đổi cuộc đời. Niềm khát khao sống mãnh liệt và sức trỗi dậy kì diệu trong tâm hồn đã mở ra một trang mới cho cuộc đời Mị, từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui, từ cuộc sống nô lệ, tăm tối Mị bước đến cuộc sống tự do, tràn đầy ánh sáng. Như vậy có thể thấy bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc cùng với nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật đạt đến trình độ bậc thầy và sự am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của người miền núi, ngôn ngữ giàu chất tạo hình lại đậm chất thơ, Tô Hoài đã tái hiện trên trang văn của mình một cách sống động hình tượng nhân vật Mị. Mị hiện lên với một cuộc đời đầy tủi nhục và một sức sống tiềm tàng mãnh liệt vượt lên kiếp trâu ngựa để đến với cuộc đời tự do. Qua nhân vật nhà văn phán ánh một cách sâu sắc hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc trước cách mạng. Đồng thời nhà văn tố cáo các thế lực tàn bạo ở miền núi đã chà đạp lên khát vọng sống tốt đẹp của con người. Cũng qua nhân vật Mị, Tô Hoài bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc với số phận bất hạnh của đồng bào dân tộc thiểu số dưới ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến
  19. 19 miền núi. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trở nên sâu sắc khi ông bộc lộ niềm tin, sự trân trọng, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người lao động miền núi, đồng thời dự báo khả năng có thể thay đổi cuộc sống, khả năng làm cách mạng để vươn tới cuộc sống tự do của họ. 3.2. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân) Hướng dẫn khai thác các chi tiết tình huống truyện Bước một, cho học sinh xác định tình huống, gọi tên tình huống của truyện. (Đó là tình huống nhặt được vợ, lại nhặt nơi đầu đường xó chợ. Đây là một tình huống lạ, nghịch lí, éo le và cảm động). Bước hai cho học sinh tìm hiểu biểu hiện (diễn biến) của tình huống truyện thông qua các chi tiết quan trọng. Bước này học sinh căn cứ vào sách giáo khoa để tìm hiểu. Có thể chỉ ra những cụm từ, những câu, những đoạn cụ thể, hoặc có thể trả lời một cách khái quát nội dung chi tiết của vấn đề (Tên nhân vật chính (Tràng), bối cảnh trước khi Tràng nhặt vợ, câu hò của Tràng, bốn bát bánh đúc)... Bước ba học sinh căn cứ vào các chi tiết đã tìm để đi sâu vào phân ý nghĩa và giá trị của các chi tiết ấy. Chẳng hạn như tên gọi của nhân vật hoặc bối cảnh của truyện: những dòng người “đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…”. Đây quả là một khung cảnh thê lương, ảm đạm, một không khí của đám ma, một không gian đầy mùi tử khí… Truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân đã xây dựng được một tình huống vô cùng độc đáo để thể hiện ý tưởng: Một nông dân nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại giữa những ngày đói những tưởng ế vợ lại bỗng dưng lại nhặt được vợ một cách dễ dàng với mấy câu hò vu vơ và bốn bát bánh đúc. Từ hoàn cảnh ngặt nghèo ấy Kim Lân “đã thể hiện một tình cảm nhân hậu với những người cùng khổ”: Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết họ vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở tương lai. Hay nói như nhà văn Nguyễn Khải: Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những gian khổ, hi sinh.
  20. 20 Hướng dẫn khai thác các chi tiết về nhân vật Tương tự như trên, tôi cho học sinh tìm hiểu theo các bước: Tìm những chi tiết nhà văn giới thiệu về cảnh ngộ của nhân vật (như ngoại hình, tính cách, hoàn cảnh sống…) sau đó hướng dẫn học sinh tìm và phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật. Xác định và gọi tên nhân vật, tìm các chi tiết quan trọng biểu hiện nổi bật nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuât của vấn đề rồi đi sâu vào phân tích các chi tiết đó. Chẳng hạn về nhân vật Tràng, từ chi tiết ngoại hình xấu xí, tính cách ngờ ngệch và hoàn cảnh éo le: dân ngụ cư, cha chết sớm, nhà nghèo (chỉ có một túp lều rúm ró mọc trên một mảnh đất lổn nhổn những búi cỏ dại), mẹ già cả…đều tập trung nhấn mạnh đến khả năng rất khó lấy vợ của Tràng. Việc anh có vợ nhà văn miêu tả bằng một loạt chi tiết hết sức tinh tế. Hạnh phúc đến thật bất ngờ tưởng không bao giờ có được ở một thân phận thấp hèn xấu xí, cho nên Tràng từ ngỡ ngàng thành niềm vui cụ thể. Niềm vui sướng hạnh phúc lớn lao hiện diện trong ánh mắt, nụ cười trên khuôn mặt khác hẳn ngày thường của Tràng. Niềm vui ấy được Kim Lân diễn tả rất tinh tế thông qua các chi tiết: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Rõ ràng tình yêu đã làm cho Tràng trở nên có duyên. Hạnh phúc quá lớn đến một cách dễ dàng khiến hắn không thể kìm nén nổi. Nó đặc biệt hiện diện trong ánh mắt sáng lấp lánh của hắn. Đó chính là ánh sáng của tình yêu, của khát khao hạnh phúc dâng lên trong Tràng. Khi gặp bà cụ Tứ, qua ngòi bút tinh tế của Kim Lân, ta nhận ra một anh Tràng chững chạc khác hẳn ngày thường: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Tràng không hề nói với mẹ mình diễn biến cuộc gặp gỡ giữa hai người, bốn bát bánh đúc ăn vội, lời ngỏ vu vơ và lời nhận vội vã…Nổi bật trong lời của Tràng là hai lần nhấn đi nhấn lại tính tất yếu của sự kết hợp: “Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Lời lẽ của Tràng vừa chất chứa niềm hạnh phúc lớn lao của cả một đời người, lại vừa chứng tỏ Tràng đã trưởng thành. Thay vì anh Tràng ngờ nghệch trước kia là một anh Tràng biết nâng niu, trân trọng niềm hạnh phúc của chính cuộc đời mình. Sự biến đổi ở Tràng được nhà văn miêu tả vô cùng sâu sắc trong buổi sáng hôm sau khi đã có vợ. Từ niềm hạnh phúc thăng hoa“Trong người êm ái lửng lơ như người
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2