intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10" nhằm tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp giảng dạy phần Địa lí tự nhiên lớp 10 phù hợp, hiệu quả. Phát huy tốt hơn năng lực học tập Địa lí của học sinh, tạo hứng thú học tập đối với phần địa lí tự nhiên lớp 10.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG I ……………………………… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY NĂNG LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Ở PHẦN ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN LỚP 10 Người thực hiện : PHẠM THỊ QUYÊN Tổ : SỬ - ĐỊA Điện thoại: 0971.161.833 NĂM HỌC: 2021 – 2022
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Cùng với việc đổi mới “Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018” thì đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trở thành nhu cầu tất yếu đối với tất cả các môn, các khối của bậc học phổ thông. Chỉ khi giáo viên vận dụng được các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực học tập cho học sinh một cách phù hợp vào thực tiễn giảng dạy, mới thật sự đem lại hiệu quả giáo dục. Bởi lẽ mục tiêu của giáo dục hiện nay đặc biệt là trong chương trình GDPT năm 2018 thì giáo viên không chỉ cung cấp tri thức mà còn phát triển cho học sinh những năng lực chung, năng lực đặc thù của môn học và qua đó hình thành cho học sinh những phẩm chất cơ bản cần có. Những năm gần đây nhằm tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018, ngành giáo dục đã và đang đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Giáo viên cũng đang từng bước thay đổi phương pháp, thích ứng với sự thay đổi của chương trình. Qua thực tế giảng dạy ở trường THPT những năm qua, tôi nhận thấy môn Địa lí là môn học có phạm vi kiến thức rộng, có những lĩnh vực thuộc kiến thức xã hội, nhưng cũng có những lĩnh vực thuộc kiến thức tự nhiên, nội dung kiến thức khá khô khan nên học sinh thường ít hứng thú học bộ môn này. Hơn nữa tại đơn vị trường tôi đang công tác - trường THPT Thanh Chương 1- là trường số một của huyện, chất lượng dạy và học của trường luôn cao hơn các trường khác trong huyện. Học sinh ở đây thường có thế mạnh bên các môn tự nhiên, còn môn Địa lí thì tâm lí học sinh thường xem là môn phụ, học không nhằm mục đích thi đại học, nếu có thì cũng chỉ lấy kết quả để công nhận tốt nghiệp, nên học sinh ở đây thường ít chú ý và không thích học môn này. Trong những năm qua kết quả học tập của học sinh đối với bộ môn vẫn chưa cao, điểm thi tốt nghiệp và đại học môn địa lí của trường vẫn nằm ở tốp 30, chưa tương xứng với mặt bằng chung về chất lượng giảng dạy của trường. Việc làm sao để từng bước thay đổi suy nghĩ và cách nhìn nhận của học sinh trường tôi về môn học, để các em hiểu được việc học không chỉ dừng lại ở những môn học để thi, mà còn trang bị cho bản thân mình những kiến thức tổng hợp về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và hài hòa đáp ứng được yêu cầu về con người trong thời đại mới, và để nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng day và học môn Địa lí của trường luôn làm tôi trăn trở, suy nghĩ và tìm giải pháp. Để làm được điều đó tôi biết cần phải có sự kết hợp đồng bộ của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, và trên thực tế hiện nay việc chuẩn bị áp dụng chương 1|Page
  3. trình giáo dục phổ thông 2018 với những cải tiến tích cực về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạ học, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh có thể phát huy được hết khả năng của mình trong hoạt động dạy và học. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta đưa ra các ý tưởng, chia sẻ các kinh nghiệm trong việc dạy học nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng học tập môn Địa lí. cũng như áp dụng phương pháp dạy học phát huy năng lực học sinh từ đó đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học và giúp học sinh ham thích học tập môn Địa lí. Đặc biệt, hiện nay qua công tác dự giờ tôi nhận thấy giáo viên chưa chú trọng đổi mới phương pháp, giáo viên thiếu ý tưởng, nhiều học sinh không hứng thú học tập môn Địa lí, do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học, nhất là với các em học sinh lựa chọn khối C để thi vào các trường Đại học, Cao đẳng. Vậy nên để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí nói chung và môn Địa lí 10 ở trường THPT Thanh Chương 1 nói riêng, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng sáng kiến “Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10” 2. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài “Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10” nhằm: Tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp giảng dạy phần Địa lí tự nhiên lớp 10 phù hợp, hiệu quả. Phát huy tốt hơn năng lực học tập Địa lí của học sinh, tạo hứng thú học tập đối với phần địa lí tự nhiên lớp 10. Nâng cao hiệu quả trong giảng dạy và học tập bộ môn địa lí lớp 10. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Các phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực học tập của học sinh được đề xuất dựa trên: Quan điểm, định hướng, mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 và kết quả nghiên cứu đề tài qua tìm hiểu, phân tích thực tế giảng dạy và học tập Địa lí của trường THPT Thanh Chương 1, yêu cầu của sự phát triển giáo dục ở hiện tại và tương lai. - Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trường THPT Thanh Chương 1 ở khối học sinh lớp 10. 2|Page
  4. - Về thời gian: Các số liệu sử dụng và nghiên cứu nằm trong giai đoạn 2018 đến 2021; các giải pháp có tầm nhìn đến 2030. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp thu thập, xử lí thông tin, tài liệu - Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh - Phương pháp đức rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy và học tập. - Phương pháp xử lí số liệu. 4. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI: - Thừa kế và vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh vào giảng dạy Địa lí ở trường THPT Thanh Chương 1. - Đề xuất được một số phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực, tạo được hứng thú học tập của học sinh đối với phần học Địa lí tự nhiên lớp 10 nói riêng và Địa lí lớp 10 nói chung. - Góp phần nâng cao hiệu quả học tập môn Địa lí lớp 10 tại trương THPT Thanh Chương 1. - Sáng kiến góp phần giải quyết vấn đề thiếu ý tưởng trong việc sử dụng các phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực của học sinh môn Địa lí 10. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI. I.1. Cơ sở lí luận - Khái niệm dạy học: Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu giáo dục: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục đích nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà nhân loại hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong một con người”. Quan niệm này lí giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng đào tạo những con người thích ứng với những nhu cầu hiện tại của xã hội. Tuy nhiên quan niệm này làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của xã hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã được vật chất hóa bằng cách nào đó để trở lại thành giá trị tinh thần bên trong người học, thiếu đi sự sáng tạo và khả năng vận dụng của học sinh. Dạy học từ xưa được hiểu 3|Page
  5. là sau quá trình học người học biết gì mà chưa nhận thức đúng đắn về việc sau quá trình học tập người học làm được gì? Vậy nên quan điểm này chưa thực sự là đúng đắn về dạy học. Một số quan điểm khác dựa trên sự phát triển, nhất là phát triển về khoa học và công nghệ cho rằng “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các vấn đề thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học một cách sáng tạo và hiệu quả”. Với quan điểm này thì dạy học đã được hiểu một cách sâu rộng và toàn diện hơn. Đây cũng là cơ sở để phát triển quan điểm về dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. - Quan điểm về dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh Dạy học phát triển năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình này. Trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một giai đoạn (hay một quá trình) dạy học. Theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 thì dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực có những phẩm chất và năng lực cốt lõi mà học sinh phải đạt được như sau: Sơ đồ 5 phẩm chất và 10 năng lực cần hình thành cho học sinh 4|Page
  6. Từ đó có thể nhận thấy rằng dạy học theo định hướng phát triển năng lực là vô cùng quan trọng trong giáo dục học sinh. Bởi năng lực chính là cơ sở để học sinh vận dụng được kiến thức vào thực tiễn, giải quyết được các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng trong giảng dạy Địa lí THPT. I.2. Cơ sở thực tiễn - Xu hướng phát triển chung của xã hội trong thời kì hội nhập. - Mục tiêu và định hướng phát triển của nền giáo dục trong thời đại mới. - Định hướng và mục tiêu của chương trình giáo dục năm 2018. - Thực tế giảng dạy của trường THPT Thanh Chương 1 trong 15 năm qua - Hiệu quả bước đầu của việc áp dụng sáng kiến vào giảng dạy tại trường THPT Thanh Chương 1. - Kết quả khảo sát về sự ham thích học môn Địa lí ở 02 lớp 10 trước khi tiến hành thực nghiệm như sau: • Lớp 10K Sĩ số HS khảo Cảm Tỉ lệ Cảm Tỉ lệ Cảm thấy Tỉ lệ % sát: 41 thấy % thấy % không hứng bình hứng thú thú thường Câu hỏi: Suy 6 15 31 76 4 9,7 nghĩ của em về học tập môn Địa lí • Lớp 10D Sĩ số HS khảo Cảm Tỉ lệ Cảm Tỉ lệ Cảm thấy Tỉ lệ % sát: 40 thấy % thấy % không hứng bình hứng thú thú thường Câu hỏi: Suy 3 7,5 28 70 9 22,5 nghĩ của em về học tập môn Địa lí Qua thực hiện khảo sát tôi nhận thấy học sinh không thật sự hứng thú với học tập môn Địa lí, thậm chí các bạn học sinh còn chán nản mệt mỏi, nhiều bạn khi học tập còn không tập trung, làm việc riêng thậm chí ngồi mong hết giờ, hiệu quả học tập chưa cao. 5|Page
  7. Qua thăm dò ý kiến học sinh và trao đổi tâm sự với các em tôi nhận thấy có những nguyên nhân cơ bản sau: - Nguyên nhân cơ bản là giáo viên ngại đổi mới, dạy học chủ yếu theo phương pháp truyền thống thầy giảng trò nghe, ít đa dạng các hình thức dạy học - Học sinh với những câu hỏi mà thầy cô đưa ra và hướng dẫn hoạt động cứng nhắc của giáo viên thì ngại suy nghĩ, ngại tìm tòi sáng tạo - Tâm lí coi môn Địa lí 10 là môn phụ của nhiều học sinh hiện nay - Học sinh chưa thực sự nhìn thấy những cái hay, cái bổ ích, những tác dụng của việc học tập môn Địa lí trong hành trang kiến thức cũng như trong cuộc sống. Tất cả những điều đó thôi thúc tôi quyết tâm áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy, thay đổi cách hướng dẫn học sinh tiếp cận kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng nâng cao năng lực học tập của học sinh. Vậy nên để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập Địa lí, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí nói chung và môn Địa lí lớp 10 nói riêng, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng biện pháp “Vận dụng các phương pháp dạy học phát huy năng lực học tập của học sinh ở phần Địa lí tự nhiên lớp 10”. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN. 1. Các giải pháp dạy học phát triển năng lực đã áp dụng Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục học sinh, giáo viên cần thực hiện đa dạng hóa các hoạt động học của học sinh. Từ trước đến nay có lẽ dạy học của giáo viên chủ yếu chú trọng đến truyền đạt kiến thức. Đa số các tiết học đều là thầy giảng, trò nghe, phát vấn câu hỏi trò trả lời… Đây là các phương pháp truyền thống mặc dù vẫn có những ưu điểm như truyền đạt được kiến thức nhanh nhưng hạn chế lớn nhất chính là học sinh thường thụ động, giờ học căng thẳng mệt mỏi. Qua khảo sát cũng đã nhận thấy được do phương pháp thiếu sự linh hoạt nên dẫn đến học sinh chán nản, ngại học tập. Đặc biệt khi dạy Địa lí 10 phần Địa lí tự nhiên tôi nhận thấy học sinh không thích thú học tập, các em thường chia sẻ rằng những nội dung khô khan, khó nhớ. Các em muốn được tham gia hoạt động học như những tiết thao giảng. Vậy có thể thấy rằng việc đa dạng hóa các hoạt động học của học sinh là vô cùng cần thiết. Trong khuôn khổ đề tài này tôi xin chia sẻ về các hoạt động học có thể phát huy năng lực học sinh như sau: 6|Page
  8. 1.1. Đa dạng hóa hoạt động Mở đầu tiết dạy (Khởi động) a. Mục tiêu: Trước đây khi dạy Địa lí, như bao giáo viên khác tôi thường không chú trọng lắm đến phần này. Đa số chỉ là dùng lời dẫn vào bài. Nhưng sau khi nghiên cứu chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể 2018 tôi nhận thấy đây là một trong những hoạt động quan trọng của tiết học. Hoạt động này cũng chính là một trong những hoạt động dạy học phát huy năng lực học sinh. Hoạt động khởi động bài học thường chỉ chiếm một vài phút đầu giờ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học, bước đầu cho học sinh tiếp cận với vấn đề học tập, tạo tâm thế, tạo hứng thú học tập cho học sinh từ đó phát huy năng lực Địa lí cũng như tạo cơ hội để các em thể hiện những hiểu biết của bản thân. Có rất nhiều cách để khởi động bài dạy nhằm phát huy năng lực tự chủ, tự học, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực ngôn ngữ … của học sinh. Tuy đây là những năng lực chung nhưng góp phần quan trọng trong hình thành năng lực riêng của môn Địa lí phát triển. b. Giải pháp đã thực hiện: Từ thực tế giảng dạy và đúc rút kinh nghiệm của bản thân tôi tâm đắc với một số hoạt động khởi động sau: * Tạo những tình huống có vấn đề để hướng học sinh đi tìm lời giải trong nội dung bài học. Vào bài học giáo viên cũng có thể thu hút học sinh bằng một số mẩu chuyện nhỏ hoặc tình huống có vấn đề để hướng học sinh đi tìm lời giải trong nội dung bài học. Ví dụ ở bài “ Hệ quả chuyển động quanh Mặt Trời của Trái Đất” giáo viên có thể bắt đầu từ câu chuyện: Nam và Hùng chơi với nhau rất thân, học hết cấp 3, Nam ở quê làm việc còn Hùng đi làm việc tại Achentina, hai bạn thường xuyên liên lạc với nhau. Một buổi chiều tháng 6 vào khoảng 18 giờ chiều Hùng gọi điện cho Nam : Nam ạ, Bạn đang làm gì vậy? Mình đang đi đá bóng. Hùng hỏi tiếp: Tối rồi bạn còn đá bóng gì nữa? mà bạn không thấy lạnh à? Nam đáp: Tối gì, trời vẫn còn nắng chang chang mà, trời nóng nực thế này mà bạn hỏi mình có lạnh không là sao? Hùng trả lời: Ở đây trời đã tối sẫm, thời tiết rất lạnh mà buổi trưa mặt trời cũng không còn đứng bóng nữa, mình không hiểu tại sao? Để hiểu hơn về vấn đề này và giải đáp những thắc mắc của Hùng thì chúng ta sẽ tìm hiểu ở nội dung bài học hôm nay nhé. 7|Page
  9. * Cho học sinh xem các hình ảnh, vi deo, mô hình…từ đó đặt các câu hỏi liên quan để dẫn học sinh đến với nội dung bài học. Ví dụ khi dạy Bài 8: Tác động của nội lực đến bề mặt Trái Đất, tôi đã tiến hành thiết kế phần mở đầu để tạo tâm thế cho học sinh, khơi gợi trí tò mò của các em, tạo hứng thú cho các em khám phá bài học. Học sinh lớp 10 đang ở lứa tuổi ham thích khám phá, vậy nên nếu cách vào bài chỉ dừng lại ở giới thiệu bằng lời đơn thuần mà không cho học sinh hoạt động và khơi gợi trí tò mò thì sẽ không kích thích được sự hăng hái tham gia vào tìm tòi kiến thức của các em. Đối với bài này tôi đã lựa chọn theo cách cho các em theo dõi Video ngắn và hoàn thành bảng với 3 câu hỏi trả lời ngắn ở các mức độ khác nhau. - Bước 1: Học sinh xem video “50.000 Trận Động Đất Trong 3 Tuần Đánh Thức Ngọn Núi Lửa”- Youtube - Bước 2: Hoàn thành phiếu hoạt động nhóm (02 phút) 1 2 3 Điều em đã biết sau khi Điều em muốn biết Theo em nên làm gì để hiểu xem video về các hiện thêm về các hiện rõ hơn về các hiện tượng tượng tự nhiên tác động tượng đó này đến bề mặt Trái Đất ................................ ............................... ............................................ ……………………. ..........…………… …………………………… ………….. Với cách tổ chức hoạt động học này học sinh sẽ hứng thú khám phá những điều bí ẩn được gợi ra. Việc xem Video ngắn giúp các em hình thành năng lực quan sát và phân tích hiện tượng địa lí. Tuy đây chỉ là hoạt động khởi động nhưng như một chất xúc tác khơi gợi trí tò mò của các em học sinh. Đây là cách phối hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm từ đó tạo nên năng lực suy nghĩ độc lập và năng lực hợp tác cho các em. Ngoài ra có thể sử dụng các tranh ảnh và các mô hình liên quan để học sinh quan sát và đưa ra mong muốn của bản thân về cách khai thác cũng như tìm hiểu nội dung bài. Ví dụ khi dạy “Bài 1: Các phép chiếu hình bản đồ cơ bản”giáo viên có thể cho học sinh quan sát các hình ảnh sau để mở đầu bài dạy: 8|Page
  10. Sau khi chiếu lược đồ giáo viên có thể hướng dẫn học sinh khai thác nội dung theo hệ thống câu hỏi: ? Hãy đặt tên cho các hình ảnh trên? ? Cách thể hiện bề mặt trên Trái Đất ở hai hình có gì khác nhau? ? Theo em người ta vẽ bản đồ bằng cách nào? Em mong muốn được khám phá điều gì về cách vẽ bản đồ? Đây là biện pháp dạy học áp dụng kĩ thuật dạy học phối hợp giữa trực quan và công não. Biện pháp này tôi đã thực hiện trong rất nhiều giờ dạy và tôi nhận thấy đem lại hiệu quả hơn mong đợi, học sinh hào hứng sôi nổi tham gia vào quá trình học tập. Các em được nêu suy nghĩ và mong muốn của mình về cách tìm hiểu các hiện tượng địa lí, các em không còn thụ động mà học tập tích cực. Năng lực giao tiếp, ngôn ngữ được phát huy; năng lực khai thách tranh ảnh địa lí được từng bước hoàn thiện hình thành trên chuẩn mực kĩ năng cần đạt. + Những lưu ý khi sử dụng phương pháp này: - Chọn video, hình ảnh, mô hình phải phù hợp với nội dung bài học - Đặt câu hỏi hợp lí, để khi học sinh trả lời thì nội dung câu trả lời sẽ mở ra những vấn đề kích thích tính tò mò, đặt ra nhu cầu muốn tìm tòi, khám phá của học sinh trong bài học mới. *Phương pháp đặt câu hỏi ngỏ dựa vào những hiện tượng diễn ra trong cuộc sống 9|Page
  11. Kiến thức về địa lí là những kiến thức về tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan mật thiết và diễn ra hàng ngày trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta không để ý, hoặc để ý nhưng không hiểu bản chất, hoặc không giải thích được nguyên nhân, mà những hiện tượng đó lại liên quan đến kiến thức bài học. Trong quá trình giảng dạy giáo viên nên nắm bắt được đặc thù này để vận dụng vào bài học, làm cho bài giảng trở nên sinh động, hiệu quả và tạo nên sự gắn kết giữa kiến thức lí thuyết và thực tế. Ở phần khởi động bài học nếu giáo viên đặt ra các câu hỏi dựa trên những biểu hiện diễn ra hàng ngày thì sẽ tạo được sự chú ý, tập trung của học sinh, hướng các em vào nội dung bài học một cách tự nhiên, tạo cho các em nhu cầu, hứng thú và mục tiêu của việc tìm hiểu kiến thức bài học. Ví dụ ở bài “Hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất” giáo viên có thể đặt các câu hỏi vào bài như sau: ? Tại sao ở trên cùng một Trái Đất nhưng bây giờ ở Việt Nam là ban ngày thì ở Hoa Kì hay Cu Ba lại là ban đêm? ? Ở Việt Nam là 7 giờ sáng thì ở Anh mới có 0 giờ? ? Tại sao các dòng sông của nước ta thường đào lòng (lở) ở bên phải và bồi ở bên trái? Bài học hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những vấn đề đó. Hoặc bài “ Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Mưa” trước khi vào bài giáo viên có thể hỏi: ? Tại sao lại có hiện tượng sương mù, mây và mưa? ? Tại sao trên Trái Đất có khu vực mưa nhiều, có khu vực mưa ít, có những khu vực nằm bên bờ biển mà vẫn hình thành hoang mạc? Để trả lời câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm nay nhé… Nếu như lúc khởi động tiết dạy giáo viên đặt được các câu hỏi ngỏ như thế cho học sinh thì sẽ tạo cho các em tâm thế sẵn sàng muốn tìm hiểu, muốn khám phá và định hướng cho các em luồng kiến thức mà các em cần hướng tới và chắc chắn tiết học sẽ hấp dẫn và hiệu quả hơn. Ngoài các phương pháp khởi động trên thì tôi còn thực hiện nhiều hình thức khởi động khác ví dụ như: bắt đầu từ một bài hát, bài thơ, hoặc một câu chuyện cười, hoặc chơi trò chơi ô chữ…thì bài học sẽ trở nên thú vị và hiệu quả hơn. 10 | P a g e
  12. 1.2. Vận dụng trò chơi trong dạy học Địa lí Dạy học dựa trên trò chơi là một phương pháp gây nhiều hứng thú cho người học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao của người dạy. Để có thể vận dụng tối ưu phương pháp này cần phân biệt các mức độ sử dụng trò chơi trong dạy học và đáp ứng các yêu cầu của việc tổ chức thực hiện phương pháp Trò chơi trong dạy học được hiểu đơn giản nhất là các hoạt động gây hứng thú cho học sinh bằng các hình thức thi đua mang giữa các cá nhân hay các tập thể nhằm đạt được hiệu quả về kiến thức hay kĩ năng liên quan đến việc học tập bộ môn. Trò chơi học tập nói chung hay trò chơi địa lí nói riêng rất đa dạng. Trò chơi có thể tiến hành ở đầu giờ với mục đích khởi động, tạo hứng thú và tâm lí sẵn sàng cho tiết học. Tuy nhiên, nội dung trò chơi cần thiết phải hướng đến nội dung bài học, dựa trên những hiểu biết sẵn có của học sinh. Trò chơi cũng được tiến hành trong giờ học, được coi như là một nội dung bài học. Trò chơi được tiến hành nhằm mục đích giúp học sinh hào hứng với việc khám phá kiến thức mới và chính bản thân nội dung trò chơi cũng là những kiến thức mới. Thông qua trò chơi, ngoài ý nghĩa về việc cung cấp kiến thức, trò chơi còn có giá trị to lớn góp phần phát huy sự nhanh nhạy, quyết đoán của người chơi, phát huy tính tập thể của nhóm lớp. Trò chơi còn có ý nghĩa lớn trong việc hình thành các kĩ năng sống, rèn luyện tính tự nhiên và tự tin, hòa đồng, nhân cách của học sinh thông qua qua các hoạt động, biết tôn trọng người chơi, lắng nghe đáp án và phản biện một cách hợp lí. Phương pháp tổ chức các trò chơi tôi thường tiến hành trong việc khai thác kiến thức bài mới, hoặc ở khâu củng cố bài. Khi khai thác nội dung bài mới tôi thường tổ chức các trò chơi theo nhóm hoặc đội, để học sinh khai thác kiến thức sâu và rộng hơn a .Trò chơi: LIÊN KẾT KIẾN THỨC Ví dụ 1: Khi dạy bài “ Quy luật thống nhất và hoàn chỉnh của lớp vỏ địa lí” ở phần biểu hiện tôi thường tổ chức trò chơi “TÌM VỀ NGUỒN CỘI”. + Nội dung như sau: Hoạt động 1: Ấn định số lượng người chơi dựa vào nội dung của trò chơi. Kêu gọi các học sinh trong lớp tham gia, tiếp theo bầu 3 đội trưởng của 3 đội chơi. 11 | P a g e
  13. Hoạt động 2: Phát các mảnh giấy đã chuẩn bị sẵn, trên mỗi mảnh giấy tôi có ghi tên của các hiện tượng tự nhiên, trong các hiện tượng đó sẽ có các hiện tượng tác động, chi phối lẫn nhau theo kiểu nguyên nhân- hậu quả như: - Nhiệt độ Trái Đất tăng; Băng tan; các thiên tai; tình trạng xâm nhập mặn; các đồng bằng bị thu hẹp. - Diện tích rừng giảm; mực nước ngầm hạ thấp; hạn hán; lũ quét; giảm nguồn gen động- thực vật, không khí kém trong lành. trong đó 3 bạn trưởng nhóm sẽ được phát 3 mảnh giấy có ghi nguyên nhân chính, các bạn khác sẽ là những mảnh giấy có ghi các hậu quả kéo theo Hoạt động 3 : Lần lượt cho các bạn đội trưởng đọc nguyên nhân, các bạn chơi có trên tay mảnh giấy ghi hậu quả sẽ tìm về đúng nguyên nhân của mình để tìm về đúng đội chơi. Ai tìm về sai địa chỉ sẽ bị trừ điểm của đội chơi có nhân tố đó. Hoạt động 4: Các bạn còn lại không tham gia chơi sẽ kiểm chứng và đánh giá kết quả của 3 đội chơi, sau cùng giáo viên đánh giá cho điểm từng đội chơi. Ví dụ 2: Khi dạy bài “Sự phân bố đất và sinh vật trên Trái Đất” ở phần 1 tôi tổ chức trò chơi “Người một nhà” + Nội dung như sau: Hoạt động 1: Tôi chuẩn bị sẵn những miếng giấy trên đó có ghi sẵn 1 kiểu khí hậu, hoặc 1 nhóm đất, hoặc 1 kiểu thảm thực vật. Hoạt động 2: Phát cho những học sinh tham gia chơi mỗi người 1 mảnh giấy và yêu cầu các em ghép với nhau để tạo thành những yếu tố liên quan: mỗi kiểu khí hậu sẽ tương ứng với một nhóm đất và một kiểu thảm thực vật. Hoạt động 3: Sau đó cho các nhóm sẽ tìm về với đới khí hậu của mình và tạo thành một “gia đình” hay một đội chơi. Và bạn Nhóm trưởng sẽ tự giới thiệu về các thành viên của “gia đình” mình bằng những cái tên đã được ghi trên giấy. Hoạt động 4: Các bạn còn lại sẽ đánh giá, nhận xét, giáo viên tổng hợp cho điểm. b.Trò chơi : Ô CHỮ BÍ MẬT 12 | P a g e
  14. Trò chơi này tôi thường tổ chức sau thời gian đã dạy xong kiến thức bài mới hoặc ở hoạt động khởi động bài học,để tạo điều kiện cho học sinh nhớ lại hoặc củng cố lại kiến thức đã học. Hình thức: tôi sẽ thiết kế các ô chữ dựa vào những từ đặc trưng có trong nội dung bài học và đặt các câu hỏi gợi mở để học sinh tìm đến câu trả lời, qua đó tái hiện lại kiến thức đã học. Ví dụ 1: Khi dạy bài 9- TÁC ĐỘNG CỦA NGOẠI LỰC ĐẾN ĐỊA HÌNH BỀ MẶT TRÁI ĐẤT. P H O N G H O A G I O S O N G B I E N H O A H O C L I H O C T I C H L U Y P H A H U Y B O C M O N -Tôi đã thiết kế các ô chữ như trên, cùng các câu hỏi gợi mở như sau: + Ô chữ thứ nhất gồm 6 chữ cái- Đây là quá trình phá hủy đá dưới tác động của các yếu tố ngoại lực? + Ô chữ thứ 2 gồm 3 chữ cái- Đây là tác nhân của ngoại lực tạo nên các hố trũng, bề mặt đá rỗ tổ ong? + Ô chữ thứ 3 gồm 8 chữ cái- Đây là tên của tác nhân tạo nên các dạng địa hình như vách biển, hàm ếch? + Ô chữ chìa khóa là ô chữ gồm 8 chữ cái- yếu tố có nguồn gốc bên ngoài + Ô chữ thứ 4 gồm 6 chữ cái- Đây là tên của loại phong hóa tạo ra các dạng địa hình đặc biệt? + Ô chữ thứ 5 gồm 5 chữ cái- Đây là tên của loại phong hóa chỉ làm thay đổi kích thước đá chứ không làm biến đổi về màu sắc, thành phần khoáng vật và hóa học của đá? 13 | P a g e
  15. + Ô chữ thứ 6 gồm 7 chữ cái- Quá trình tích tụ các vật liệu phá hủy để tạo thành các dạng địa hình bồi tụ còn được gọi là quá trình gì? + Ô chữ thứ 8 gồm 6 chữ cái- Trong các quá trình phong hóa thì đá sẽ bị gì? + Ô chữ số 9 gồm 6 chữ cái- Đây là một trong bốn quá trình mà ngoại lực tạo ra hình thành các dạng địa hình khác nhau? Ví dụ 2: Khi dạy bài 12: SỰ PHÂN BỐ KHÍ ÁP. MỘT SỐ LOẠI GIÓ CHÍNH. Tôi đã thiết kế các ô chữ và các câu hỏi gợi mở: + Ô chữ thứ nhất gồm 8 chữ cái- Yếu tố nào của lớp vỏ địa lí mà càng lên cao càng loãng? + Ô chữ thứ 2 gồm 8 chữ cái- Đây là tên của một đới khí hậu nóng? + Ô chữ đặc biệt gồm 5 chữ cái- Yếu tố của tự nhiên mà tình trạng thiếu ổn định? + Ô chữ thứ 3 gồm 3 chữ cái- Đây là tên gọi của sự di chuyển các khối khí? + Ô chữ đặc biệt gồm 5 chữ cái- Thể trạng của nó thay đổi theo nhiệt độ? + Ô chữ thứ 4 gồm 6 chữ cái- Đây là loại gió được hình thành chủ yếu do sự nóng lên hoặc lạnh đi không đều giữa lục địa và đại dương? + Ô chữ thứ 5 gồm 9 chữ cái- Đây là tên 1 loại gió có phạm vi hoạt động hẹp? K H O N G K H I N H I E T Đ O I G I O G I O M U A D I A P H U O N G C.Trò chơi ĐUỔI HÌNH BẮT CHỮ Đây là trò chơi tôi cũng hay thực hiện trong các tiết dạy mà nội dung kiến thức thường gắn với những hình ảnh đặc trưng. Hình thức này tôi thường chuẩn bị sẵn các hình ảnh độc đáo chiếu lên màn hình để học sinh đoán nội dung kiến thức. 14 | P a g e
  16. Hình thức này tôi thường áp dụng ở phần khởi động và củng cố bài học Với việc dạy học bằng phương pháp trò chơi học sinh được tiếp cận kiến thức một cách hào hứng và hiệu quả Trong quá trình dạy học môn Địa lý, các trò chơi nếu được sử dụng hợp lý sẽ thúc đẩy một cách tự nhiên tính năng động và tính tích cực tham gia học tập của học sinh. Hơn nữa các dạng trò chơi theo hình thức câu hỏi trắc nghiệm vừa cuốn hút các em tham gia nhưng cũng tạo điều kiện cho các em nhanh nhẹn trọng chọn lựa phương án đúng, góp phần rèn năng lực tư duy và phản ứng nhanh nhẹn cho học sinh. * Các nguyên tắc thiết kế trò chơi dạy học trong dạy học môn Địa lý - Đảm bảo tính mục đích: Mục đích của trò chơi là phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy nhiệm vụ chơi, luật chơi và hành động của trò chơi đòi hỏi học sinh phải sử dụng các giác quan, các thao tác trí tuệ, đặc biệt là thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, để lĩnh hội kiến thức của bài học, môn học. - Đảm bảo tính chất của hoạt động chơi: Mỗi trò chơi học tập phải là trò chơi đích thực, thực sự hấp dẫn, kích thích tính tích cực, tự lập, sáng tạo của học sinh. Những trò chơi nhằm tích cực hóa hoạt động học tập cho học sinh phải tạo cơ hội cho các em hứng thú, tự nguyện tham gia vào trò chơi, tích cực vận dụng vốn hiểu biết và năng lực trí tuệ của mình để giải quyết nhiệm vụ học tập trong những hoàn cảnh chơi sinh động với yếu tố thi đua lẫn nhau. - Đảm bảo tính hệ thống và tính phát triển: Các trò chơi được sắp xếp từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, tạo thành một hệ thống gồm các nhóm trò chơi nhằm nâng cao năng lực phát triển trí tuệ của học sinh. - Đảm bảo tính đa dạng: Các trò chơi hệ thống phải đa dạng, phong phú tạo cơ hội cho học sinh thực hành, vận dụng vốn hiểu biết thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và khả năng tư duy để giải quyết nhiệm vụ học tập trong những tình huống chơi đa dạng, phong phú. 1.3. Phát triển năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề, sáng tạo qua hoạt động nhóm và đánh giá theo bảng kiểm a. Hoạt động nhóm: Hoạt động nhóm là kĩ thuật dạy học tương đối quen thuộc nhưng từ trước giáo viên thường chỉ đưa ra câu hỏi để nhóm thực hiện, nên hoạt động này đôi khi mang tính hình thức thiếu thực tế. Vậy nên nếu chỉ thảo luận đơn thuần sẽ không phát huy được tối đa năng lực học tập của học sinh. Nên người 15 | P a g e
  17. giáo viên cần thực hiện đa dạng cách thức đối với hoạt động này. Ví dụ kết hợp quan sát tranh ảnh và câu hỏi, như vậy có thể rèn cho học sinh nhiều năng lực như: quan sát hình ảnh, trình bày, nhận xét, đánh giá. Tuy nhiên yêu cầu khi thiết kế phiếu học tập cho hoạt động nhóm không nên chỉ có câu hỏi tái hiện trong Sách giáo khoa. Nếu như chỉ là câu hỏi tái hiện thì không nên sử dụng hình thức thảo luận nhóm. Khi thiết kế phiếu học tập nên sử dụng bộ câu hỏi theo các mức độ: Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng thấp – Vận dụng cao. Ví dụ khi dạy Bài 5. Vũ trụ. Hệ Mặt Trời và Trái Đất. Hệ quả tự quay quanh trục của Trái Đất - phần 2. Hệ Mặt Trời: tôi đã áp dụng hình thức tổ chức hoạt động học tập thảo luận nhóm với phiếu học tập sau” PHIẾU HỌC TẬP (Thảo luận nhóm 5 phút) Câu hỏi: Quan sát hình ảnh và cho biết Hệ Mặt Trời có mấy hành tinh? Vị trí của Trái Đất so với Mặt Trời? Vị trí này có ý nghĩa thế nào? Theo em tại sao Trái Đất là hành tinh duy nhất có sự sống? ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………….. 16 | P a g e
  18. Hình ảnh: học sinh lớp 10A2 thực hiện nhiệm vụ theo thảo luận theo kĩ thuật nhóm Đây là hoạt động để rèn cho học sinh năng lực quan sát hình ảnh kết hợp với năng lực giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo, năng lực tìm hiểu kiến thức địa lí để giải quyết tình huống được đặt ra. Với cách thực hiện này học sinh được vận dụng những hiểu biết của mình vào giải quyết vấn đề học tập. Học sinh buộc phải suy nghĩ với hệ thống câu hỏi theo các mức độ: Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng thấp – Vận dụng cao, các câu hỏi phù hợp mọi đối tượng học sinh nên không có em nào bị bỏ rơi trong quá trình hoạt động. Qua thực tiễn tôi nhận thấy học sinh hứng thú học tập, nỗ lực cố gắng, có tinh thần hợp tác để cùng giải quyết vấn đề đặt ra. * Vận dụng Kĩ thuật khăn trải bàn trong phát huy năng lực học tập của học sinh Có thể nói đây là kĩ thuật dạy học rất phù hợp khi khai thác kiến thức bài mới cũng như hoạt động luyện tập, củng cố …. Đây là kĩ thuật kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Kĩ thuật này cũng rất hiện đại và hơn hết nó bắt buộc mỗi thành viên đều phải tham gia vào quá trình học tập. Trước khi cả nhóm thống nhất mỗi thành viên phải hoàn thành nhiệm vụ cá nhân. Vì vậy kĩ thuật này tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh trong hoạt động tiếp nhận kiến thức từ bài học để đưa vào giải quyết vấn đề thực tiễn. Phát triển mô hình học tậpcó sự tương tác giữa học sinh với học sinh. Để thực hiện được hiệu quả, giáo viên cần có sự chuẩn bị và hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ theo câu hỏi chi tiết cụ thể. Nếu giáo viên thường xuyên thực hiện kĩ thuật này học sinh sẽ dễ dàng thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao. 17 | P a g e
  19. Để thực hiện giáo viên cần chuẩn bị: Giấy A0, bút dạ, bút màu sáp, bút dạ màu. Giấy A0 giáo viên cần kẻ sẵn theo mô hình sau để học sinh thực hiện Hình ảnh minh họa: Bảng phụ bằng giấy A0 kĩ thuật khăn trải bàn Giáo viên có thể chia nhóm đến 8 người để thực hiện kĩ thuật này nên rất thuần lợi. GV hướng dẫn học sinh hiểu rằng các khung bên ngoài là dành cho các cá nhân, khung ở giữa sau khi thống nhất sẽ cử bạn thư kí ghi vào đó. Học sinh có thể tự quy định màu sắc cho mỗi bạn để dễ nhận biết và phân biệt. Hình ảnh học sinh lớp 10A1 thực hiện kĩ thuật khăn trải bàn Giáo viên có thể cho học sinh trưng bày sản phẩm trên bảng hoặc tại vị trí thích hợp bằng nẹp treo hay là dán bằng băng dĩnh hai mặt hặc treo theo kĩ thuật phòng tranh. Đây là kĩ thuật rất thích hợp với việc đưa ra tình huống có vấn đề và cần sự lí giải của học sinh. Cần huy động suy nghĩ của mỗi cá nhân để giải quyết vấn đề đặt ra. 18 | P a g e
  20. Tôi đã thường xuyên vận dụng kĩ thuật này trong giảng dạy và hướng dẫn học sinh tiếp cận với kiến thức phần Địa lí tự nhiên lớp 10. Tôi nhận thấy học sinh chủ động, tích cực tránh được việc học sinh ỷ lại khi hoạt động nhóm. Học sinh vừa phát huy được khả năng của cá nhân vừa huy động được khả năng của toàn nhóm. Sau khi học sinh hoàn thiện tôi tiến hành cho học sinh nhận xét đánh giá theo thang đo để học sinh nhận xét được đầy đủ và chắc chắn hơn những kết quả hoạt động. b. Đánh giá bằng bảng kiểm: Bên cạnh việc sử dụng hình thức phiếu học tập kết hợp tranh ảnh và các câu hỏi ở các mức độ khác nhau tôi còn chú trọng rèn cho học sinh năng lực đánh giá nhận xét bằng các công cụ cụ thể. Ví dụ với phiếu học tập ở trên sau khi học sinh thảo luận và báo cáo kết quả tôi tiến hành thực hiện các bước cho học sinh nhận xét đánh giá bằng bảng kiểm như sau: Mức độ hoàn thành TT Tiêu chí cần đạt Tốt Khá TB (điểm) (điểm) (điểm) 1 Có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, các thành 20 10 5 viên hoạt động tích cực, đồng đều 2 Đảm bảo về mặt thời gian 10 7 5 3 Nội dung đầy đủ, chính xác, khoa học 50 30 20 4 Đảm bảo tính thẩm mĩ, trình bày rõ ràng, 20 15 10 mạch lạc. 5 Tổng điểm đạt được Đối với cách đánh giá này sẽ khắc phục được hạn chế của việc học sinh đánh giá một cách sơ sài, không có mục tiêu đánh giá, đánh giá theo cảm tính như 19 | P a g e
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2