intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc – hiểu văn bản văn học chương trình Ngữ văn 12

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho HS; làm cho giờ dạy – học đọc – hiểu VBVH sôi nổi, hào hứng và phát huy tốt hơn ưu thế của loại giờ học này nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Ngữ văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc – hiểu văn bản văn học chương trình Ngữ văn 12

  1. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................................................1 I. Lý do chọn đề tài: ...........................................................................................................................1 1. Về lí luận: ......................................................................................................................................1 2. Về thực tiễn: ..................................................................................................................................1 II. Mục đích nghiên cứu: ...................................................................................................................2 1. Đối tượng nghiên cứu: ..................................................................................................................3 2. Khách thể nghiên cứu: ..................................................................................................................3 3. Phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu ...............................................................................................3 IV. Nhiệm vụ, thời gian và phương pháp nghiên cứu. ....................................................................3 1. Nhiệm vụ nghiên cứu: ...................................................................................................................3 2. Thời gian: Tháng 11/2021 đến 04/2022 ........................................................................................3 3. Phương pháp: ................................................................................................................................3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.....................................................................................................................4 I. Cơ sở lí luận: ...................................................................................................................................4 1. Thế nào là dạy học nêu vấn đề? ....................................................................................................4 2. Tính cần thiết của việc vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ dạy – học Ngữ văn: ....................4 II. Thực trạng của đề tài:...................................................................................................................5 1. Thực trạng dạy bộ môn văn của giáo viên: ..............................................................................5 2. Thực trạng học văn của học sinh: .................................................................................................6 III. Nội dung, biện pháp thực hiện đề tài: ........................................................................................7 1. Quan niệm về câu hỏi nêu vấn đề trong đọc – hiểu VBVH: .........................................................7 2. Một số yêu cầu khi xây dựng câu hỏi nêu vấn đề: ........................................................................7 3. Một số biện pháp thực hiện vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu VBVH: ..............8 4. Thiết kế bài dạy có vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu văn bản văn học .......... 13 IV. Kết quả có so sánh, đối chiếu số liệu trước và sau khi thực hiện giải pháp. ........................... 24 1. Kết quả: ...................................................................................................................................... 24 2. So sánh đối chiếu số liệu trước và sau khi thực hiện giải pháp, nhận xét về hiệu quả của việc vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu văn bản văn học. ................................................... 24 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................................ 26 1. Kết luận: ........................................................................................................................................ 26 2. Khuyến nghị: ................................................................................................................................. 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................. 28 PHỤ LỤC ............................................................................................................................................. 29
  2. Trang 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài: 1. Về lí luận: Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn là một môn nền tảng, là một bộ phận quan trọng tạo nên trình độ văn hóa của con người. Môn Ngữ văn có vị trí khá quan trọng trong việc bồi dưỡng tâm hồn, góp phần hình thành nhân cách học sinh. Nâng cao hiệu quả của dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đòi hỏi cần có một sự đổi mới cơ bản về nội dung cũng như phương pháp dạy học nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động của học sinh (HS). Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề (CHNVĐ) để nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc – hiểu văn bản văn học là một trong những biện pháp khá hữu hiệu nhằm bồi dưỡng, phát triển năng lực Ngữ văn (năng lực tiếp nhận văn học) cho HS ở nhà trường THPT. Hơn thế, kể từ khi đổi mới chương trình SGK, hình thức kiểm tra, đánh giá người học càng cần phải đặt trọng tâm vào việc đổi mới PPDH chuyển từ giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Những năm gần đây, Luật giáo dục (2005) liên tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế phát triển và nhu cầu thực tế của đất nước. Luật giáo dục số 38/2005/QH11 của Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 44/2009/QH12, Điều 28.2 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào giáo dục.” 2. Về thực tiễn: Môn Ngữ văn ở trường THPT nói chung, chương trình Ngữ Văn 12 nói riêng là sự tích hơp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Mỗi phân môn có vai trò, nhiệm vụ và vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho HS. Trong đó, phân môn Đọc văn, nhất là các giờ đọc – hiểu văn bản Văn học (VBVH) có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và năng lực thẩm mĩ cho HS. Ở một mức độ nhất định, các giờ đọc – hiểu VBVH khơi gợi được nhiều hứng thú cho giáo viên (GV) và HS trong hoạt động dạy – học. Sự yêu thích môn Ngữ văn phần lớn cũng bắt nguồn từ niềm say mê các giờ đọc – hiểu này. Tuy thế, trong một số năm gần đây, không khí và hiệu quả dạy – học Ngữ văn, bao gồm cả dạy – học phân môn Đọc văn và các giờ đọc – hiểu VBVH ở nhiều nhà trường thực sự không được như mong muốn của cả người dạy lẫn
  3. Trang 2 người học. Không khí nhiều giờ học tẻ nhạt, nặng nề, “thiếu lửa”. Nhiều GV dạy cho hoàn thành nhiệm vụ còn HS thì thụ động, lười học, lười suy nghĩ, ngại phát biểu hoặc nếu buộc phát biểu thì trả lời cho qua. Khi làm văn, HS viết những câu văn, bài văn nghèo nàn, ngô nghê về ý tứ, lủng củng trong diễn đạt. Hiệu quả dạy – học Ngữ văn chưa đạt yêu cầu. Qua hoạt động dự giờ các đồng nghiệp khá thường xuyên, tôi nhận thấy một trong rất nhiều lý do khiến học sinh không mấy hứng thú và mặn mà với các giờ đọc – hiểu VBVH là khá nhiều giáo viên văn chưa sử dụng được hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài đủ sức lôi cuốn học sinh tham gia giờ học với tinh thần chủ động, tích cực và say mê. Cá biệt, có giáo viên thường xuyên nêu những câu hỏi không đạt yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm khiến học sinh và đôi khi cả giáo viên dự giờ cũng không biết phải trả lời như thế nào. Ở trường nơi tôi công tác, so với một số trường trong khu vực thì chất lượng đầu vào của HS chưa cao nên dù chương trình SGK Ngữ văn mới, trong đó có SGK Ngữ văn 12 chứa đựng tiềm năng to lớn cho việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề thì nhiều đồng nghiệp của tôi chưa đủ kiên nhẫn để để sử dụng một cách tối đa CHNVĐ trong các giờ đọc – hiểu. Nếu có dùng thì thường là những câu hỏi đơn giản, các dạng CHNVĐ cũng chưa phong phú, đa dạng. Việc sử dụng những câu hỏi yêu cầu HS phải dùng tri thức đã biết để tìm tòi, phát hiện tri thức mới hoặc phải tổng hợp, bao quát tri thức trên nhiều lĩnh vực, phải trăn trở suy nghẫm để mở rộng, xoáy sâu vấn đề hoặc vận dụng, liên hệ VBVH vào thực tế xã hội, thực tiễn đời sống lại càng khiêm tốn. Xuất phát từ thực tế đó, trong phạm vi bài tập nghiên cứu khoa học này, tôi đưa ra một số ý kiến về việc Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc – hiểu văn bản văn học với áp dụng thực tế trong các giờ đọc – hiểu văn bản văn học thuộc chương trình Ngữ văn 12. Tôi quyết định chọn đề tài này, trước hết để bản thân có điều kiện khái quát nâng cao chuyên môn. Sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và tiếp tục đổi mới PPDH môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THPT. II. Mục đích nghiên cứu: - Dựa trên một số lí luận cơ bản về khoa học, tâm lí học về việc đổi mới PPDH văn...để đề ra một số biện pháp thực hiện vận dụng CHNVĐ trong giờ đọc – hiểu VBVH. - Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn cho HS bản lĩnh tự tin, khả năng diễn đạt một vấn đề, gây hứng thú học tập cho HS; làm cho giờ dạy – học đọc – hiểu VBVH sôi nổi, hào hứng và phát huy tốt hơn ưu thế của loại giờ học này nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Ngữ văn. III. Đối tượng, khách thể và phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu.
  4. Trang 3 1. Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả giờ đọc – hiểu văn bản văn học. 2. Khách thể nghiên cứu: Học sinh khối 12 (12A7, 12A10). 3. Phạm vi giới hạn đề tài nghiên cứu Các bài dạy trong chương trình ngữ văn 12. Cụ thể minh họa qua bài “Chiếc thuyền ngoài xa”. IV. Nhiệm vụ, thời gian và phương pháp nghiên cứu. 1. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Xác định cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của dạy học nêu vấn đề. - Đề xuất một số biện pháp vận dụng CHNVĐ trong giờ đọc – hiểu VBVH. - Thiết kế một bài dạy vận dụng câu hỏi nêu vấn đề. 2. Thời gian: Tháng 11/2021 đến 04/2022 3. Phương pháp: - Trước hết, tôi nghiên cứu một số lí luận cơ bản về khoa học, tâm lí học, về việc đổi mới PPDH văn...làm cơ sở cho việc đề ra một số biện pháp trong phương pháp dạy học nêu vấn đề. Bước tiếp theo, tôi thực hành nghiên cứu, soạn một số giáo án và thực nghiệm sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu văn bản văn học chương trình Ngữ văn 12. Qua thực nghiệm, nhìn lại quá trình nghiên cứu đề tài, tôi rút ra một số kinh nghiệm làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng vào dạy học sau này. - Phương pháp cụ thể như sau: + Điều tra học sinh, kết quả trước đó. Số liệu khảo sát trước khi thực hiện đề tài Lớp Sĩ số Dự Điểm Điểm Điểm Điểm khảo sát 3 - 4,5 5-6 6,5 – 7,5 8 - 10 12A7 45 45 0 20 17 8 (0%) (44,4%) (37,8%) (17,8%) 12A10 43 43 12 20 11 0 (27,9%) (46,5%) (25,6%) (0%) + Thực nghiệm sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu văn bản văn học cho các đối tượng khác nhau: lớp đồng đều chất lượng, lớp đại trà. + Đánh giá và thống kê chất lượng của phương pháp thông qua từng tiết dạy.
  5. Trang 4 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận: 1. Thế nào là dạy học nêu vấn đề? Dạy học nêu vấn đề là một phương pháp dạy học trong đó GV không trình bày tri thức theo một trình tự có sẵn mà có sự sắp xếp lại tài liệu để đặt thành những tình huống có vấn đề, những mâu thuẫn kích thích người học phải suy nghĩ, phải tìm cách giải quyết. Qua đó, giúp HS nắm được các biện pháp của hoạt động nhận thức và lĩnh hội tri thức mới. Phương pháp này dựa trên nền tảng của ý tưởng dạy học phát triển, tức là quá trình học tập của HS phải độc lập nhận biết kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Quá trình dạy học, GV hình thành được ở học sinh phương pháp nhận thức, còn HS phải sáng tạo, phát hiện ra các biện pháp, thủ thuật để hình thành kiến thức mới. Bản chất của phương pháp dạy học nêu vấn đề là: Trong quá trình học tập, HS vừa nắm được kiến thức, vừa nắm được phương pháp, tức là trong quá trình học có yếu tố tự nghiên cứu. Và trong quá trình học tập HS gặp phải những mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa kiến thức đã biết với kiến thức cần nhận thức. Chính mâu thuẫn này làm cho HS có ý muốn phải giải quyết. Khi đó sẽ tạo ra các tình huống có vấn đề. Để tạo ra tình huống có vấn đề, nhất thiết phải có những CHNVĐ. Đặt HS vào hệ thống câu hỏi có vấn đề trong giờ dạy môn Ngữ Văn giúp các em hình thành thói quen tư duy và phát huy được khả năng sáng tạo của bản thân để đọc – hiểu văn bản Văn học. Nhà lí luận dạy học La-Léc-ne nhận định: “Hoạt động sáng tạo chỉ nảy sinh khi nào giải quyết được vấn đề, khi nào phải đương đầu với tình huống có vấn đề”. Như vậy việc đặt ra tình huống có vấn đề và cụ thể hóa bằng câu hỏi nêu vấn đề là cách thức để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS trong giờ dạy – học văn, giúp học sinh không chỉ chiếm lĩnh được tri thức nội dung cần đạt mà còn hình thành kĩ năng chiếm lĩnh tri thức mới. Vì vậy việc dạy học nêu vấn đề và hệ thống CHNVĐ thích ứng với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Dạy học nêu vấn đề còn đáp ứng được yêu cầu cải tiến một giờ dạy – học văn của Vụ giáo dục phổ thông “Trong giờ giảng văn, giáo viên phải nêu những vấn đề, dẫn dắt học sinh phát hiện được những cái hay, cái đẹp. Giáo viên uốn nắn hướng dẫn để các em làm được việc này, không làm thay”. Nhà văn M.Gorky từng nhận xét “Tác phẩm văn học nào cũng là tác phẩm có vấn đề”. Thực tế giảng dạy văn cho thấy “vấn đề” chính là điều mà tác giả phản ánh, lí giải trong tác phẩm. 2. Tính cần thiết của việc vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ dạy – học Ngữ văn: Giảng dạy môn Ngữ Văn giúp HS tìm hiểu về cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật, là một sản phẩm
  6. Trang 5 của nhà văn, được lựa chọn để đưa đến với người đọc là GV và HS. Vì vậy mỗi ý kiến của người đọc - HS đưa ra về tác phẩm đều đáng quý và đáng trân trọng. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học tác phẩm tự sự, GV không nên phủ định những vấn đề học sinh đưa ra mà cần định hướng cho HS cách suy nghĩ nhận xét đúng đắn với mỗi tác phẩm văn chương. GV đóng vai trò hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm, tự khám phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm. GV bằng những câu hỏi đặt vấn đề, câu hỏi gợi mở, câu hỏi định hướng khám phá, tạo điều kiện tốt nhất cho HS tự cảm nhận về tác phẩm, tự nhận định về giá trị đích thực của tác phẩm.Việc dạy văn, mà đặc biệt là việc phân tích tác phẩm văn học, để tạo sự hấp dẫn và hứng thú với HS nhất định phải là việc biến học sinh thành người trong cuộc để các em tự phát huy năng lực tư duy của mình, tự khám phá ra những giá trị đích thực của tác phẩm. Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm chủ thể cũng được đặt ra. Bản chất của sự đổi mới đó là chuyển từ phương pháp thông báo tái hiện sang việc tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của học sinh nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của người học, để người học tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng. Để thực hiện điều đó cần phối hợp các xu hướng: tích cực hoá, cá biệt hoá, phân hoá hoạt động nhận thức - học tập của HS. Dạy học để phát huy tính tích cực của HS, đã và đang được thực hiện. Tuy nhiên khó khăn nhất là việc vận dụng vào thực tế giảng dạy sao cho hiệu quả. Một trong những phương pháp quan trọng trong việc giảng dạy môn Ngữ Văn chính là việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề và sử dụng CHNVĐ để nâng cao và phát huy tính tích cực chủ động của HS khi cảm thụ tác phẩm văn học vốn là ngôn ngữ hàm ẩn, đa nghĩa, đa thanh, dễ tạo ra những tình huống tiếp nhận khác nhau ở người học. II. Thực trạng của đề tài: 1. Thực trạng dạy bộ môn văn của giáo viên: Qua quá trình dạy học, kinh nghiệm của bản thân, quá trình dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy: - Một số GV có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giờ học song chưa hiệu quả còn mang tính hình thức. + Khi nêu vấn đề, một số câu hỏi chưa định hướng đúng vào những vấn đề trung tâm cốt lõi của tác phẩm. Câu hỏi không có chủ định từ trước, bộc phát tức thời, chưa định hướng được trong việc tìm hiểu tác phẩm văn học, tản mạn, giữa các câu hỏi chưa có sự hỗ trợ liên kết với nhau, không có tính hệ thống và bao quát những vấn để tác giả đặt ra trong tác phẩm, hay những câu hỏi chỉ nhằm tái hiện kiến thức trong tác phẩm vì vậy chưa thể phát huy được tính tích cực chủ động của HS, chưa tạo được tình huống có vấn đề để HS nhận thức, bởi vậy chưa tạo được sự chủ động trong việc tiếp cận tác phẩm văn chương. + Các câu hỏi nêu vấn đề chưa mang tính hệ thống, rời rạc không liên kết
  7. Trang 6 kiến thức trong bài dạy. Có những câu hỏi nêu vấn đề vụn vặt chưa tạo được sự hứng thú cho HS. - Một trong những nguyên nhân khiến một giờ học văn nhàm chán, học sinh không hứng thú là do câu hỏi chưa gây được sự tò mò đối với HS, chưa hướng vào vấn đề chính mà chỉ đi tản mạn vào một số vấn đề nhỏ, tất cả những yếu tố đó làm giảm sự chủ động và tích cực của việc học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. + Loại câu hỏi thiên về tái hiện kiến thức, ít có câu hỏi có khả năng luyện trí thông minh và tư duy sáng tạo của học sinh. + Một số câu hỏi nêu vấn đề ở mức độ khó nhưng chưa có sự gợi ý chi tiết. + Khi sử dụng CHNVĐ, GV chỉ hỏi mà chưa tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề. - Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng trên là một số GV nhận thức chưa rõ bản chất của việc dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường không đơn thuần là giảng văn, phân tích văn học mà là dạy đọc văn bản. Đó là quá trình đối thoại giữa học sinh – giáo viên – nhà văn thông qua Văn bản văn học. Đó là hình thức giao tiếp, đối thoại vượt thời gian, không gian. Bên cạnh đó một số GV vẫn còn nhiều ngộ nhận về lý thuyết và lúng túng trong biện pháp thực thi việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học. - Ngoài ra, GV chuẩn bị bài dạy chưa thật kĩ, đặc biệt là chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp so với bài dạy, chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài của học sinh, chưa phân loại đối tượng HS trong từng lớp… GV chưa ý thức rõ về dạng câu hỏi, mức độ yêu cầu của câu hỏi dẫn đến khâu tổ chức dạy học tìm hiểu bài học thiếu tính khoa học nảy sinh tình trạng GV hỏi một đằng HS trả lời một nẻo hoặc trả lời không đúng trọng tâm yêu cầu. 2. Thực trạng học văn của học sinh: - HS chưa thấy được vai trò quan trọng của môn Ngữ văn trong nhà trường nên không yêu thích và có một bộ phận có thể nói rằng là các em rất sợ học Văn. - HS còn thụ động, chưa phát huy được vai trò sáng tạo và khả năng tư duy. Có thể nói rằng, đây là một bộ môn có quá nhiều tài liệu tham khảo nên các em có thái độ ỷ lại, dựa dẫm vào tài liệu mà thụ động không chịu suy nghĩ, sáng tạo. Khả năng tự học còn nhiều hạn chế. - HS chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, chưa biết cách trả lời, hay thậm chí còn lúng túng trong những câu hỏi khó, chưa biết cách vận dụng vào sáng tạo trong các tình huống của bài học. Học sinh coi giờ Ngữ văn là giờ đọc chép, chưa tham gia vào việc xây dựng bài. Khả năng đọc – hiểu Văn bản văn học, khái quát, cảm nhận tác phẩm văn học còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả của các giờ học đọc – hiểu Văn
  8. Trang 7 bản văn học ngày càng được quan tâm hơn. Góp phần tạo nên hiệu quả đó là việc vận dụng hệ thống CHNVĐ trong dạy học của người GV. Tuy nhiên, không có biện pháp nào là tối ưu, để đạt hiệu quả giáo dục, người giáo viên cần biết vận dụng kết hợp các biện pháp, các PPDH một cách linh hoạt. III. Nội dung, biện pháp thực hiện đề tài: 1. Quan niệm về câu hỏi nêu vấn đề trong đọc – hiểu VBVH: CHNVĐ là một yếu tố quan trọng cần được nghiên cứu kỹ trong việc ứng dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. CHNVĐ trong đọc – hiểu VBVH có thể được hiểu là những câu hỏi chứa đựng “Mâu thuẫn nghệ thuật” (điểm đáng chú ý về nội dung, nghệ thuật, về một chi tiết, hình ảnh,… nào đó của văn bản), được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức, làm nảy sinh ở các em một sự hứng thú, suy nghĩ để tìm cách giải đáp, nhằm hiểu sâu tác phẩm. Nói cách khác, đây là loại câu hỏi đem lại cho HS sự khó khăn trong việc tìm câu trả lời. Muốn giải quyết nó, các em phải động não, phải suy nghĩ, tìm tòi những tri thức mới dựa trên những tri thức, kinh nghiệm sẵn có của mình. Câu hỏi CHNVĐ không phải là sự sao chép, tái hiện lại những điều đã có trong sách giáo khoa mà là những tìm tòi, phát hiện mới do thực hiện các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp để hiểu sâu Văn bản văn học. Trong dạy học Ngữ Văn nói chung, giờ đọc – hiểu VBVH nói riêng, CHNVĐ có tác dụng to lớn. Nó phát huy tính tích cực, độc lập suy nghĩ, tính chủ động tìm tòi, sáng tạo, kích thích hứng thú, say mê, lôi cuốn các em vào quá trình tìm hiểu sâu, khám phá các tầng nghĩa bên trong, các điểm sáng thẩm mỹ, thưởng thức cái hay, cái đẹp và trực tiếp tham gia vào quá trình biến văn bản văn học thành tác phẩm văn học với sự sáng tạo của riêng mình. Quan trọng hơn, các em được hình thành và rèn luyện khả năng tự tiếp nhận, tự đánh giá, phân tích văn bản văn học theo quan điểm của riêng mình. Ngoài ra, nó còn có tác dụng thôi thúc các em tìm hiểu thêm nhiều tư liệu liên quan đến văn bản được học. Nói chung, việc sử dụng hiệu quả CHNVĐ của giáo viên sẽ làm phát triển năng lực cảm thụ, tiếp nhận văn học của HS và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ Văn ở nhà trường phổ thông. 2. Một số yêu cầu khi xây dựng câu hỏi nêu vấn đề: - CHNVĐ phải được đặt ra từ vấn đề của tác phẩm. Để đặt được câu hỏi phát hiện trúng vấn đề cần triển khai, GV phải tìm hiểu thật thấu đáo tác phẩm và chỉ có hiểu tác phẩm giáo viên mới có thể phát hiện được những chi tiết có khả năng trở thành vấn đề và đó là những vấn đề thích đáng nhất. - GV phải hiểu được đối tượng HS mình giảng dạy, hiểu được khả năng tư duy và nhận thức của các em để từ đó vận dụng CHNVĐ cho phù hợp. Thực tế tâm lý lứa tuổi của HS THPT thích tìm tòi khám phá những tri thức mới, thích tham gia giải thích cái mới theo quan điểm riêng. HS lứa tuổi này đã biết suy luận đánh giá trên cơ sở phân tích các dữ liệu học tập. Một số HS thường sa vào diễn đạt lan man mà không nêu lên được những nội dung sâu sắc của tác phẩm.
  9. Trang 8 Vì vậy, khi hiểu đối tượng từng lớp mình giảng dạy, giáo viên sẽ đặt ra được những câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với từng đối tượng HS. - GV tôn trọng những cảm thụ suy nghĩ của HS. Tạo điều kiện cho HS nói lên suy nghĩ của mình do tác phẩm gợi ra chứ không phải chỉ nói lặp lại theo ý của người khác. GV nên xem HS là chủ thể tích cực trong hoạt động cảm thụ tác phẩm. Mục đích lớn nhất của giờ đọc – hiểu VBVH sẽ là “dạy suy nghĩ, dạy tìm tòi” và dưới sự hướng dẫn của GV, HS tự mình cảm nhận và chiếm lĩnh tác phẩm. - Để vận dụng thành công CHNVĐ, điều cần thiết là giáo viên tạo không khí học tập hứng thú, tạo mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò. Với mục đích là học sinh có thể mạnh dạn trao đổi với bạn, với GV về những điều mà HS suy nghĩ cảm nhận. Như thế GV sẽ đóng vai trò làm cầu nối giữa HS với tác phẩm văn học. GV không áp đặt gò ép, không chê bai mà khơi gợi dẫn dắt HS để các em có cơ hội thể hiện suy nghĩ của mình. - Thực tế việc vận dụng những CHNVĐ trong giờ đọc – hiểu VBVH luôn là những câu hỏi khó vì nó chứa đựng những nội dung quan trọng của tác phẩm. Để trả lời được câu hỏi, HS phải tổng hợp được nhiều nguồn kiến thức. Vì vậy trước khi triển khai ở trên lớp cần có hệ thống câu hỏi phụ để HS chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa. Từ những câu hỏi cụ thể đó, GV giúp HS có thể tìm hiểu những kiến thức có liên quan đến câu hỏi nêu vấn đề, tránh việc HS bị động lúng túng. 3. Một số biện pháp thực hiện vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu VBVH: Qua tài liệu tham khảo và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy câu hỏi nêu vấn đề có các mức độ sau: Câu hỏi nêu vấn đề tái hiện (mức độ thấp); Câu hỏi nêu vấn đề giải thích, chứng minh; Câu hỏi nêu vấn đề tìm tòi, phát hiện, sáng tạo (mức độ cao). 3.1. Câu hỏi nêu vấn đề tái hiện: Đây là dạng CHNVĐ ở mức độ thấp không đòi hỏi HS phải tư duy mà chỉ cần huy động trí nhớ hoặc dựa vào thông tin về tác giả, văn bản văn học trong SGK là có thể trả lời câu hỏi của giáo viên. Ví dụ: Trong giờ đọc – hiểu văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, GV nêu câu hỏi: Đọc phần Tiểu dẫn trong SGK, sau đó nối từ khóa trung tâm với các thông tin chính xác về tác giả, tác phẩm Người lái đò sông Đà cho dưới đây?
  10. Trang 9 In trong tập In trong tập Thể loại Vang bóng một thời Sông Đà truyện ngắn (1960) (1940) Là kết quả của chuyến đi thực Thể loại tùy bút tế vào tuyến lửa Quảng Trị Thể hiện phong cách hướng nội, kết hợp nhuần Là kết quả của Người lái đò sông Đà nhuyễn chất trí tuệ và trữ chuyến đi thực tình của tác giả tế Tây Bắc Mục đích tìm kiếm “chất Thể hiện phong Mục đích “xê dịch” cho vàng” của thiên nhiên và cách tài hoa, khuây cảm giác “thiếu chất vàng mười của con uyên bác quê hương” người Tây Bắc Ví dụ: Trong giờ đọc – hiểu văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, GV nêu câu hỏi: Trong đoạn trích, vẻ đẹp của dòng sông Hương được nhà văn khám phá ở những góc nhìn nào? Dưới góc nhìn địa lí, nhà văn khám phá vẻ đẹp của sông Hương ở những không gian nào? HS dễ dàng trả lời: Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong đoạn trích được tác giả khám phá ở các góc nhìn: Địa lí, lịch sử và văn hóa. Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc nhìn địa lí được tác giả khám phá ở không gian: Vùng thượng nguồn và đồng bằng (ngoại ô và trong lòng thành phố Huế). Ví dụ: Khi hướng dẫn HS tìm hiểu cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước từ dòng thơ 10-29 trong đoạn trích Đất nước (trích Mặt đường khát vọng), GV nêu câu hỏi: Anh/chị hãy ghi vắn tắt “định nghĩa” về đất nước trong các dòng thơ từ 10-13 (1), từ 14-29 (2) vào các phiếu học tập? HS tái hiện: - Định nghĩa về đất nước trong các dòng thơ từ 10-13: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm - Định nghĩa về đất nước trong các dòng thơ từ 14-29: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
  11. Trang 10 Đất là nơi Chim về Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Nước là nơi Rồng ở Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Ví dụ: Trong giờ đọc – hiểu văn bản Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, GV nêu câu hỏi: Nhân vật Mị xuất hiện qua các chi tiết nào trong phần đầu đoạn trích? HS tái hiện: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra. => CHNVĐ tái hiện có thể xem là bước đầu, là cơ sở giúp HS trong việc giải quyết các CHNVĐ ở mức độ cao hơn trong quá trình đi sâu tìm hiểu, khám phá, phát hiện những giá trị của VBVH. 3.2. Câu hỏi nêu vấn đề giải thích – chứng minh: Dạng câu hỏi này yêu cầu HS giải thích, tìm hiểu nguyên nhân, từ đó tìm ra bản chất của vấn đề. Đây là dạng câu hỏi khá khó vì để trả lời, HS phải nắm thật chắc vấn đề đang tìm hiểu. Ngoài ra, các em phải có vốn kiến thức sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau; có tư duy lôgic và đôi khi phải có cả sự nhạy cảm văn học nhất định. Với dạng câu hỏi này HS có thể bám sát VBVH đang được tìm hiểu hoặc có thể vận dụng những kiến thức bên ngoài văn bản để tìm câu trả lời. Để xây dựng được hệ thống CHNVĐ giải thích, chứng minh vừa hấp dẫn, vừa đảm bảo được mục tiêu bài học, GV nên căn cứ vào mục tiêu cần đạt kết hợp với hệ thống câu hỏi “hướng dẫn học bài” trong SGK, thể loại văn bản, dung lượng của bài học. Ngoài ra, GV còn phải chú ý đến đối tượng HS từng lớp, từng nhóm, thậm chí từng cá nhân trong lớp. Ví dụ: Khi hướng dẫn HS tìm hiểu tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân, GV nêu câu hỏi: Tại sao giữa nạn đói năm 1945, ranh giới mong manh giữa cái chết và sự sống, Tràng lại dám “nhặt” vợ? Việc Tràng “nhặt” vợ có ý nghĩa như thế nào? HS vận dụng một số thao tác giải thích, chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề: Hành động dám “nhặt vợ” của Tràng trên nền bối cảnh của nạn đói khủng khiếp, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mong manh ấy đã cho thấy Tràng quyết định đánh đổi tất cả để có được hạnh phúc. Vượt lên tất cả sự đói khát cùng cực, cái chết cận kề, Tràng sẵn sàng chia sẻ miếng ăn đồng nghĩa với việc chia sẻ cả mạng sống của mình cho người khác. Trên hết, hành động ấy đã thể hiện niềm khao khát được sống, khao khát có được tình yêu, hạnh phúc của người đàn ông khốn khổ như Tràng.
  12. Trang 11 Hành động dám “nhặt vợ” của Tràng góp phần quan trọng làm nổi bật giá trị ý nghĩa của tình huống truyện: Tuy nghèo đói, cực khổ, ngay cả khi kề bên cái chết, những người nông dân vẫn giàu tình yêu thương đồng loại, vẫn khao khát hạnh phúc và tin tưởng vào tương lai. Đó cũng là cách họ “sống cho ra người” dù tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết như ý đồ nghệ thuật của Kim Lân khi viết Vợ nhặt. Ví dụ: Khi tìm hiểu nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, GV nêu câu hỏi: Tại sao người đàn bà lại cam chịu một cách nhẫn nhục cuộc sống bị chồng hành hạ, đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”? Vì sao người đàn bà lại từ chối sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu, thậm chí lại van xin hai người đừng bắt mình bỏ người chồng vũ phu, tàn độc? HS vận dụng một số thao tác giải thích, chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề: Người đàn bà nhẫn nhục cam chịu cuộc sống bị chồng hành hạ, đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” mà “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn” thậm chí khi Phùng và Đẩu khuyên nên bỏ người chồng vũ phu, tàn độc ấy thì bà lại van xin: “Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa: - Con lạy quý tòa... - Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” Nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh ở bà là tình thương vô bờ với những đứa con. Bà hiểu thiên chức làm mẹ, sinh con ra phải có trách nhiệm với con, phải sống cho con chứ không phải sống cho mình. Hơn thế, sự chịu đựng, hi sinh ở bà còn bởi bà là người sống sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng. Cuộc sống của người đi biển cần phải có đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi con. Bà tự trách mình, thấy mình cũng có lỗi trong việc dẫn đến hành động vũ phu của người chồng “Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật...Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn...” Bà hiểu chồng, cảm thông, vị tha cho những hành động tàn độc của chồng: Trước kia, “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Về sau, “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh...” Bà bao dung, vị tha cho chồng bởi bà hiểu căn nguyên dẫn đến những hành động tàn độc của chồng là do cuộc sống quá lam lũ, vất vả đổ dồn lên người lão. Vì lẽ đó, bà nhẫn nhục cam chịu những trận đòn roi của chồng như một lẽ tất yếu, thậm chí bà còn xin với chồng khi nào đánh thì đưa lên bờ mà đánh để tránh cho những đứa con bị tổn thương. => Người đàn bà hàng chài là biểu tượng của tình mẫu tử. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Giàu lòng yêu thương, đức hi sinh, nhân hậu, bao dung, vị tha.
  13. Trang 12 3.3. Câu hỏi nêu vấn đề tìm tòi, phát hiện, sáng tạo: Đây là dạng CHNVĐ đòi hỏi HS không chỉ biết giải thích, chứng minh mà hơn thế phải biết khái quát, phát hiện ra bản chất của vấn đề, tầng lớp nghĩa ẩn của VBVH. Học sinh được nêu cảm nhận, quan niệm, suy nghĩ, nhận thức, hiểu biết, ý kiến cá nhân về VBVH được đọc – hiểu. Vận dụng những CHNVĐ ở góc độ này đòi hỏi GV phải lưu ý tới mục đích, hình thức hỏi, tránh đưa ra những câu hỏi mang tính chất thách đố HS, phải chú ý tới đối tượng tiếp nhận ở khả năng nhận thức, tư duy. Dạng câu hỏi này thường hướng tới đối tượng HS khá, giỏi nhằm phát huy khả năng nhận thức, tư duy, sáng tạo của các em. Để HS trung bình cũng có thể được trả lời, GV cần có thêm những câu hỏi dẫn dắt, gợi mở. Tuy nhiên, GV nên cân nhắc về mật độ dùng, độ khó của câu hỏi và phải lường trước những cách lý giải khác nhau mà học sinh có thể nêu ra để có sự “chèo lái” hợp lý nhằm đạt mục tiêu giờ học. Nếu không linh hoạt trong các khâu này, chẳng những không làm rõ được bản chất của vấn đề mà còn làm cho mọi chuyện trở nên phức tạp, không khí giờ học bị ảnh hưởng,… Ví dụ: Khi đọc – hiểu văn bản Vợ nhặt của Kim Lân, GV nêu câu hỏi: Dựa vào mạch truyện có thể chia văn bản thành mấy đoạn? Nêu ý chính của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện được dẫn dắt như thế nào? HS tìm tòi, thảo luận và trả lời: Văn bản chia thành 4 đoạn + Đoạn 1. (Từ đầu đến “thành vợ thành chồng”: Tràng đưa “người vợ nhặt” về nhà. + Đoạn 2. (Từ “Ít lâu nay…” đến “cùng đẩy xe bò về”): Tác giả kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng. + Đoạn 3. (Từ “Tràng chợt đứng dừng lại…” đến hết đoạn lược bớt: Tình thương của người mẹ già nghèo khó đối với đôi vợ chồng mới. + Đoạn 4 (Còn lại): Những con người cơ cực đùm bọc cưu mang nhau và nhen nhóm lòng tin về sự đổi đời trong tương lai. Qua bố cục trên ta thấy mạch truyện được dẫn dắt theo sự kiện “nhặt vợ” của nhân vật Tràng. Tình huống ấy đã tác động đến tâm trạng và hành động của các nhân vật đồng thời làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm. Ví dụ: Khi đọc – hiểu văn bản “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, sau khi cho HS nghe clip ca khúc “Tiếng gọi sông Đà” của nhạc sĩ Trần Chung trên nền hình ảnh của những ngày đầu trị thủy xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình, GV nêu câu hỏi: Qua lời bài hát cùng những hình ảnh trong clip kết hợp với hai câu thơ trích dẫn ở phần mở đầu của văn bản “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” (Wladyslaw Broniewski – nhà thơ cách mạng Ba Lan) và “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” (Nguyễn Quang Bích), anh/chị cảm nhận như thế nào về dòng sông Đà?
  14. Trang 13 HS thảo luận và trả lời: Sông Đà – con sông kiều diễm, thơ mộng, hiền hòa song cũng ngông ngược, dữ dằn, hung bạo. Hai đặc điểm ấy làm nên cái độc đáo, lạ hóa của dòng sông Tây Bắc. Nhưng chính cái ngông ngược, hung bạo của dòng sông lại là “chất vàng” của thiên nhiên mà nhà văn Nguyễn Tuân kiếm tìm, khám phá khi ông đến với miền Tây Bắc xa xôi này. Ví dụ: Khi đọc – hiểu bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, GV nêu câu hỏi: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sóng trong khổ thơ 7? Theo anh/chị nét đẹp truyền thống và hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện như thế nào trong khổ thơ? HS trả lời: Trong khổ thơ, sóng khi chìm khi nổi, lúc trôi về phương Bắc, lúc dạt về phương Nam nhưng cuối cùng mọi con sóng đều tìm về vỗ vào bờ cát. Quy luật muôn đời của tự nhiên được Xuân Quỳnh biến thành cơ sở vững chắc cho niềm tin bất diệt. Dẫu có lận đận, gian truân đến chừng nào thì người phụ nữ đang yêu cũng đến được bến bờ hạnh phúc. Niềm tin ấy là nguồn sức mạnh giúp họ vượt qua mọi khoảng cách thời gian, không gian, băng qua mọi gập ghềnh, trắc trở để đến với tình yêu. Đó là nét hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu. Nó hoàn toàn khác với sự thụ động trong tình yêu của người phụ nữ trong ca dao “Yêu anh chẳng dám nói ra / Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời”... Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh can đảm, mãnh mẽ với tình yêu thủy chung và niềm tin vững chắc vào tình yêu. Khổ thơ vừa mang nét đẹp truyền thống ở sự thủy chung son sắt vừa mang nét hiện đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu là thế. Khi tổ chức giờ đọc – hiểu cho học sinh, người giáo viên không thể không yêu cầu học sinh nêu quan điểm cá nhân xuất phát từ những ý kiến thuận chiều hoặc ngược chiều về VBVH được đọc – hiểu. Việc làm này có tác dụng mở rộng, khắc sâu kiến thức cho học sinh hoặc định hướng để học sinh hiểu và tiếp nhận VBVH một cách phù hợp. Để thiết kế và đưa vào sử dụng những câu hỏi này, giáo viên dạy văn phải tích cực nghiên cứu về VBVH được đọc – hiểu; tìm hiểu các nguồn tài liệu liên quan; sàng lọc, chọn lựa những tư liệu tin cậy để sử dụng. Tuy nhiên, đây không phải là dạng câu hỏi có thể sử dụng rộng rãi với hầu hết các VBVH như kiểu câu hỏi yêu cầu học sinh nêu quan niệm cá nhân xuất phát từ bản thân VBVH được đọc – hiểu. 4. Thiết kế bài dạy có vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc – hiểu văn bản văn học Tiết 68,69,70 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA Nguyễn Minh Châu A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1. Kiến thức: - Cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra sự thật: đằng sau bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm mà anh tình cờ chụp được là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia
  15. Trang 14 đình hàng chài. Từ đó thấu hiểu: mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. - Phân tích được nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: tình huống truyện độc đáo mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, chọn điểm nhìn đặc sắc, đa chiều, ngôn ngữ nhân vật linh hoạt, sáng tạo. 2. Kĩ năng: - Củng cố, nâng cao kĩ năng đọc – hiểu truyện ngắn hiện đại thời kì đổi mới. - Rèn kĩ năng tự đọc, tự học một cách chủ động, sáng tạo. 3. Thái độ: - Cách nhìn nhận nghệ thuật và con người. - Ý nghĩa thời sự của tác phẩm: Trân trọng giá trị của hạnh phúc gia đình. 4. Định hướng phát triển năng lực: - Năng lực thu thập thông tin liên quan đến truyện ngắn hiện đại Việt Nam. - Năng lực đọc – hiểu tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam. - Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. - Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước và sau 1975. - Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học. B. THIẾT KẾ BÀI HỌC: I. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: - Giáo viên: Soạn giáo án, sưu tầm tư liệu (ảnh nhà văn Nguyễn Minh Châu, cảnh con thuyền ngoài biển buổi bình minh), tìm hiểu hoàn cảnh đất nước và nền văn học Việt Nam sau 1975. - Học sinh: + Giáo viên yêu cầu hoc sinh tìm hiểu tư liệu về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, hoàn cảnh đất nước và nền văn học Việt Nam sau 1975. + Đọc kĩ văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” và trả lời câu hỏi phần Hướng dẫn học bài trong SGK. II. Tiến trình dạy học: 1. Ổn định tổ chức: 2. Kiểm tra bài cũ: Trình bày hiểu biết của anh/chị về hoàn cảnh đất nước và nền văn học Việt Nam sau 1975?
  16. Trang 15 3. Bài mới: Giới thiệu bài: Sau 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong hòa bình đã mở ra cho văn học những tiền đề mới. Nhiều nhà văn trăn trở, tìm tòi hướng đi mới cho văn học trong tình hình mới : khám phá đời sống ở phương diện đời thường trên bình diện đạo đức thế sự. Một trong những cây bút tiên phong trong sự tìm tòi, khám phá ấy là Nguyễn Minh Châu với một số tác phẩm tiêu biểu như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa … Hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu một trong số những tác phẩm đó của nhà văn: Chiếc thuyền ngoài xa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2