Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy Chương I: Mệnh đề và tập hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán 10
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy Chương I: Mệnh đề và tập hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán 10" nhằm thay thế các phương pháp dạy học truyền thống tạo ra một phương pháp dạy học mới giúp phát triển năng lực cho học sinh. Để từ đó các em học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo của mình, rèn các kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao tiếp hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng vẽ sơ đồ tư duy,...làm chủ được tương lai.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy Chương I: Mệnh đề và tập hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán 10
- MỤC LỤC Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 Chương 1. Cơ sở khoa học 3 Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu 5 Chương 3: Nội dung giải pháp đã thực hiện 10 3.1. Biện pháp 1: Vận dụng kỹ thuật mảnh ghép giúp học sinh tìm hiểu các kiến thức về mệnh đề và tập hợp 10 3.2. Biện pháp 2: Vận dụng kỹ thuật khăn trải bàn giúp học sinh rèn khả năng tư duy độc lập và tổng hợp thông tin về mệnh đề, tập hợp 17 3.3. Biện pháp 3: Tăng cường hoạt động thảo luận nhóm đôi trong phần hình thành kiến thức về mệnh đề và tập hợp 21 3.4. Biện pháp 4: Giao nhiệm vụ cho học sinh hoàn thành lược đồ tư duy tổng kết kiến thức sau khi học mệnh đề và tập hợp 24 3.5. Biện pháp 5. Tổ chức các trò chơi theo nhóm để củng cố kiến thức mệnh đề - tập hợp và phát huy tính chủ động của học sinh 31 3.6. Tính cấp thiết và khả thi 31 Chương 4: Kết quả thực hiện giải pháp 35 Phần III. KẾT LUẬN 42 1. Tổng kết lại quá trình nghiên cứu 42 2. Ý nghĩa của đề tài 42 3. Đề xuất và kiến nghị 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO 45 PHỤ LỤC 46
- Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Toán học luôn là một môn học quan trọng đối với tất cả các cấp học, nhằm phát triển tư duy logic, phát triển bản thân, hoàn thiện các kỹ năng học tập. Toán học cũng là môn học giúp các em hình thành kiến thức có thể ứng dụng vào thực tế, những trải nghiệm học tập mà các em có thể vận dụng suốt trong tương lai. Toán học khai thác khả năng linh hoạt của tư duy nhạy bén, phù hợp với ngày một phát triển của xã hội hiện đại. Đặc biệt, đối với chương trình mới của môn Toán 10 mới chú trọng đến việc phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập. Để giúp các em học sinh có thể hiểu, ghi nhớ một cách nhanh chóng cũng như thực hành được những kỹ năng đã được dạy, giáo viên cần sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học, truyền đạt kiến thức. Một trong số những phương pháp mang lại hiệu cao hiện nay chính là áp dụng các kỹ thuật dạy học tích cực như sử dụng kỹ thuật dạy học nhóm và kỹ thuật Lược đồ tư duy trong dạy Toán 10. Thông qua những hoạt động này, các em có thể trải nghiệm được những tình huống thực tế và sử dụng những kiến thức mình được học để giải quyết vấn đề. Các kỹ thuật dạy học nhóm không chỉ giúp các em học sinh phát huy tinh thần học tập chủ động, năng động và sáng tạo hơn, phương pháp này còn giúp các em rèn luyện những kỹ năng mềm cần có ở chủ nhân tương lai của thế giới. Thông qua phương pháp này, các em được rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng hợp tác với các thành viên khác, kỹ năng tìm kiếm thông tin, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng thể hiện quan điểm,.... Với hệ thống lược đồ tư duy được tích hợp qua các bài học, việc truyền đạt kiến thức cho học sinh sẽ đảm bảo tính hệ thống hóa, cụ thể hóa, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo, vừa giúp học sinh ghi nhớ được kiến thức, vừa tạo được nguồn cảm hứng mới, kích thích sự sáng tạo, hứng thú học tập của các em. Với kinh nghiệm của một người giáo viên và thông qua quan sát giờ học trên lớp của tôi cũng như của các thầy cô khác, tôi nhận thấy rằng nếu trong giờ học không được lồng ghép bất cứ hoạt động tập thể hoặc lược đồ tư duy, những hoạt động liên quan đến thực tế mà các em học sinh chỉ ngồi yên nghe giáo viên giảng bài thì hiệu quả tiết học sẽ không cao. Dễ xảy ra tình trạng các em học sinh mệt mỏi, buồn ngủ, mất tập trung trong lúc nghe giảng, từ đó các em không hiểu bài hoặc dù có tập trung nghe thì cũng khó để có thể nhớ hết và vận dụng thành thạo được các kỹ năng. Bản thân tôi, với trách nhiệm là một giáo viên phụ trách bộ môn Toán, hơn nữa lại là giáo viên trung học phổ thông, tôi cần phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn ra phương pháp giảng dạy đối với các em học sinh, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em học sinh trong lớp cũng như phù hợp với lượng kiến thức được phân bổ trong cả một năm học. Do các em đang bước vào giai đoạn mới chuyển cấp, chưa thích ứng hoàn toàn với môi trường học tập, trong khi đó, lượng kiến thức thì luôn đổi mới và ngày càng khó hơn, việc lồng ghép các hoạt động dạy học theo nhóm vào trong giờ học đóng vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết, không chỉ riêng với môn Toán lớp mà bất cứ môn học nào. Hiểu được tính cần thiết đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng kết hợp các kỹ 1
- thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy "Chương I: Mệnh đề và tập hợp" nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán 10” để nghiên cứu và tìm hiểu trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này. 2. Mục đích của đề tài Việc nghiên cứu đề tài “Vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy "Chương I: Mệnh đề và tập hợp" nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán 10” nhằm mục đích thay thế các phương pháp dạy học truyền thống tạo ra một phương pháp dạy học mới giúp phát triển năng lực cho học sinh. Để từ đó các em học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo của mình, rèn các kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao tiếp hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng vẽ sơ đồ tư duy,...làm chủ được tương lai. Bên cạnh đó đổi mới phương pháp dạy học cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy cho các thầy cô và bộ môn. 3. Đối tượng nghiên cứu Phương pháp áp dụng các kỹ thuật dạy học nhóm và kỹ thuật lược đồ tư duy trong giảng dạy môn toán 10 cho 44 học sinh lớp 10A9 trường THPT Lê Lợi. 4. Giới hạn của đề tài Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc vận dụng các kỹ thuật dạy học nhóm và kỹ thuật lược đồ tư duy vào giảng dạy Chương I: Mệnh đề và tập hợp - Toán 10 qua đó góp phần phát triển năng lực học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy. 5. Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu cơ sở lý luận dạy phần kiến thức về mệnh đề- tập hợp và các kỹ thuật dạy học nhóm, kỹ thuật lược đồ tư duy - Nghiên cứu thực trạng phương pháp áp dụng các kỹ thuật dạy học trong giảng dạy bộ môn toán tại trường - Đưa ra các giải pháp vận dụng tốt các kỹ thuật dạy học nhóm và kỹ thuật lược đồ tư duy vào giảng dạy môn toán nhằm phát triển năng lực cho học sinh. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận. - Phương pháp điều tra quan sát. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày trong 4 chương. Chương 1. Cơ sở khoa học Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu Chương 3: Nội dung giải pháp đã thực hiện Chương 4: Kết quả thực hiện giải pháp 2
- Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1. Cơ sở khoa học 1.1. Cơ sở lý luận Khái niệm kỹ thuật dạy học nhóm “Năng lực hoạt động tập thể được xem là năng lực quan trọng quyết định thành công trong xã hội hiện nay. Vì vậy, đào tạo phát triển năng lực hợp tác trở thành xu thế trong giáo dục hiện đại, và việc dạy học theo nhóm chính là sự phản ánh thực tiễn xu thế đó.” “Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Phương pháp phân công dạy và học theo nhóm giúp mọi học sinh tham gia vào quá trình học tập một cách chủ động. Tạo cơ hội cho từng cá nhân học sinh mạnh dạn chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm. Sẵn sàng đưa ra các quan điểm cá nhân để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung bài học. Giúp cho các em có cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau giải quyết nhiệm vụ chung. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.” Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học sinh. * Quy trình thực hiện Tiến trình dạy học nhóm có thể được chia thành 3 giai đoạn cơ bản: a. Làm việc toàn lớp: Nhập đề và giao nhiệm vụ - Giới thiệu chủ đề - Xác định nhiệm vụ các nhóm - Thành lập nhóm b. Làm việc nhóm - Chuẩn bị chỗ làm việc - Lập kế hoạch làm việc - Thỏa thuận quy tắc làm việc - Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ - Chuẩn bị báo cáo kết quả. c. Làm việc toàn lớp: Trình bày kết quả, đánh giá - Các nhóm trình bày kết quả - Đánh giá kết quả. * Một số lưu ý 3
- Có rất nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Số lượng học sinh,1 nhóm nên từ 4- 6 học sinh. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới. Khái niệm kỹ thuật lược đồ tư duy Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính. Đây là một phương pháp ghi chú thông minh với các ý tưởng sử dụng từ ngữ ngắn gọn cùng hình ảnh sinh động để bộ não con người có thể tiếp cận, ghi nhớ một cách nhanh chóng và lưu trữ lâu dài. Lược đồ tư duy không chỉ giúp con người ghi nhớ theo một trình tự nhất định mà còn giúp chúng ta liên hệ các dữ kiện, kích thích trí não sáng tạo để tạo hứng thú cho quá trình học tập, làm việc. Sử dụng Mindmap con người không cần mất thời gian, công sức ghi chép dày đặc các nội dung mà thông qua các tiêu đề ngắn gọn, các ký hiệu, hình ảnh hai chiều để ghi nhớ một cách tổng thể, chi tiết. * Quy trình thực hiện Bước 1: Các bạn sẽ sử dụng một tờ giấy trắng (không kẻ ô) đặt nằm ngang và vẽ chủ đề ở chính giữa tờ giấy. Giấy trắng không kẻ ô sẽ giúp cho bạn sáng tạo hơn, không bị những ô vuông cản trở suy nghĩ của bạn. Vẽ trên giấy nằm ngang sẽ giúp bạn có được không gian rộng lớn hơn để triển khai các ý. Bước 2: Bạn cần vẽ chủ đề ở chính giữa tờ giấy, từ đó mới phát triển ra các ý khác ở xung quanh nó. Bạn có thể tự do sử dụng tất cả các màu sắc mà bạn thích, chủ đề trung tâm có thể là một hình ảnh hoặc một bức tranh, nếu kết hợp cả 2 thì càng tốt. Một hình ảnh sẽ có giá trị tương đương cả nghìn từ và giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của mình. Bước 3: Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang đến cho Lược đồ tư duy những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo và nó cũng thật vui mắt. Bước 4: Nối các nhánh chính tới hình ảnh trung tâm, các nhánh chính nên được vẽ theo hướng chéo góc chứ không nằm ngang, như vậy nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng hơn. và nối các nhánh cấp hai, cấp ba với nhánh cấp một và cấp hai, v.v... Bởi vì bộ não làm việc bằng sự liên tưởng, và khi ta nối các nhánh lại với nhau, sẽ giúp ta dễ hiểu vấn đề và nhớ dễ dàng hơn. Bước 5: Vẽ nhiều nhánh cong hơn đường thẳng. Các bạn nên vẽ nhiều nhánh cong hơn đường thẳng, như thế sẽ làm cho lược đồ của chúng ta nhìn mềm bài giảng, giáo viên sẽ hình thành cho học sinh năng lực đọc hiểu, cảm thụ bất cứ tác 4
- phẩm hay đơn vị kiến thức nào. Như vậy, giáo viên có thể kiểm tra những năng lực này ở học sinh. Giáo viên sẽ không giới hạn học sinh trong quá trình tìm hiểu, trao đổi, phát biểu, chấp nhận cả những phát biểu chưa đúng, chưa chính xác. Trên cơ sở đó tiếp tục trao đổi, nhận xét và bổ sung cho học sinh. Học sinh sẽ không bị gò ép theo hướng của giáo viên theo cách dạy trước đây mà sẽ được tự do suy nghĩ, sáng tạo. Thậm chí học sinh có thể tự khám phá ra điều mới mẻ vượt ngoài điều thầy cô dạy. Đây là điểm mới được đánh giá cao, tuy nhiên, điều này cũng đặt ra yêu cầu các em cũng cần thay đổi cách học, cần chủ động hơn trong quá trình học và lĩnh hội kiến thức. “Kết quả giáo dục được tính theo các kỳ kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra đánh giá định kỳ. Việc kiểm tra đánh giá thường xuyên do giáo viên bộ môn lựa chọn thời gian phù hợp, về hình thức được thực hiện thông qua: hỏi – đáp, viết, thuyết trình, thực hành, thí nghiệm, sản phẩm học tập. Trước đây, ở tất cả các môn học có quy định số tiết học trên mỗi tuần, quy định có tuần kiểm tra định kỳ, có tuần kiểm tra học kỳ, kiểm tra học kỳ I thường vào tuần 18, kiểm tra học kỳ II ở tuần 35 của năm học. Nhưng trong chương trình mới, nhà trường có thể linh động sắp xếp thời khóa biểu, thời điểm kiểm tra giữa kỳ, cuối kỳ, miễn sao đảm bảo số tiết trong năm học. Đối với chương trình GDPT mới, phương pháp kiểm tra, đánh giá sẽ đi theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Theo đó học sinh sẽ được đánh giá phẩm chất, năng lực dựa trên ngữ cảnh học tập, thực tiễn cuộc sống, hoạt động giáo dục, trải nghiệm, sự tiến bộ của bản thân; thông qua công cụ đánh giá về nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối cảnh thật. Vì vậy, nội dung của các bài kiểm tra cũng sẽ tập trung vào việc đánh giá khả năng liên hệ kiến thức, vận dụng thực tế của học sinh hơn là việc phải học thuộc, học ghi nhớ. Ví dụ, với môn Ngữ văn, thầy cô có thể sử dụng những ngữ liệu ngoài SGK để kiểm tra khả năng cảm thụ, phân tích và mức độ nắm kiến thức của học sinh. Hay với môn Lịch sử, sẽ không nặng phải thuộc con số, sự kiện lịch sử mà chú trọng kiểm tra khả năng trình bày vấn đề lịch sử, vận dụng linh hoạt trong cuộc sống.” (Theo hướng dẫn tập huấn của NXB Giáo dục Việt Nam - https://taphuan.nxbgd.vn/) - Yêu cầu của ngành giáo dục về đổi mới phương pháp dạy học, hướng đến phát năng lực, chủ động sáng tạo của học sinh như sau: “Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 (GDPT 2018) cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phổ thông, giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.” Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu 2.1. Thực trạng công tác giảng dạy bộ môn Toán 10 tại trường Hầu hết các thầy cô dạy bộ môn Toán trong trường đã thống nhất với nhau trong việc giảng dạy, cố gắng kết hợp nhiều phương thức giảng dạy như lồng ghép các trò chơi trong việc kiểm tra bài cũ, sử dụng bài giảng điện tử để đồng nhất ở các cấp học tuy nhiên kết quả vẫn chưa thực sự cao. Việc kết quả không đạt được 5
- như ý muốn một phần vì đây là phương pháp dạy học mới, các thầy cô còn nhiều bỡ ngỡ vừa phải giảng dạy, vừa tìm hiểu. Bên cạnh đó lớp 10 là giai đoạn các em học sinh mới chuyển cấp nên môi trường THPT làm các em chưa thể thích ứng ngay được. Các em chưa thể làm quen với phương pháp dạy học mới chưa bắt nhịp được với cuộc sống ở một cấp học mới. Trong tiết học vẫn xảy ra tình trạng học sinh mất tập trung, không hiểu bài, nhiều bạn vẫn còn ham chơi game không chú tâm vào việc học dẫn đến việc không thể áp dụng những gì đã được học vào trong thực tế. Và khi các em cảm thấy những gì mình học trên trường không thể sử dụng trong thực tiễn, không có ý nghĩa thì các em sẽ có xu hướng lười học, không chịu tiếp thu, dần trở nên “mất gốc”. Việc vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy bao gồm những nhiệm vụ, việc làm trong thực tiễn có liên quan đến kiến thức bài giảng mà giáo viên yêu cầu các em phải hoàn thành dựa vào những gì các em đã được học trong tiết học đó. Hoạt động này không bắt buộc các em phải tự mày mò mà giáo viên ở đây sẽ có vai trò là người định hướng, người dẫn dắt các em sao cho áp dụng kiến thức đúng và đủ. Qua trải nghiệm thực tiễn, học sinh sẽ có được tri thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Bên cạnh đó, sự sáng tạo cũng sẽ được rèn luyện khi các em phải giải quyết các nhiệm vụ phải vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong những tình huống mới, không giống với mẫu trong sách giáo khoa. Chính vì vậy, Vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy trong giờ học có thể giải quyết được vấn đề đang tồn đọng với môn Toán lớp 10 của nhà trường. Phương pháp này vừa đáp ứng được tinh thần “vừa học vừa chơi” của các em, vừa giúp các em nhận ra được ý nghĩa, giá trị thực tiễn của những kiến thức mình được học trên lớp, từ đó các em trân trọng giờ học hơn, hứng thú chờ đợi tiết học tiếp theo, chất lượng giảng dạy cũng được nâng cao. 2.2. Khảo sát tình hình dạy và học môn toán 10 thực tế tại trường Kết quả khảo sát về việc vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy của các thầy cô trong trường lại không mấy khả quan. Dưới đây sẽ là bảng khảo sát việc vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy môn Toán lớp 10 đã được tôi thực hiện khảo sát tại cơ sở nơi tôi giảng dạy. Bảng 1: Bảng khảo sát việc vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy môn Toán lớp 10 Tên kỹ thuật Áp dụng nhiều Có áp dụng Không áp dụng Kỹ thuật mảnh 10% 35% 55% ghép Kĩ thuật khăn trải 15% 40% 45% bài Kỹ thuật nhóm đôi 5% 25% 70% 6
- Trò chơi theo 20% 25% 55% nhóm Kỹ thuật lược đồ 25% 27% 48% tư duy Biểu đồ khảo sát việc vận dụng các kỹ thuật dạy học của giáo viên tại đơn vị 80% 70% 70% 60% 55% 55% 48% 50% 45% 40% 40% 35% 30% 27% 25% 25% 25% 20% 20% 15% 10% 10% 5% 0% Kỹ thuật mảnh ghép Kĩ thuật khăn trải bài Kỹ thuật nhóm đôi Trò chơi theo nhóm Kỹ thuật lược đồ tư duy Áp dụng nhiều Có áp dụng Không áp dụng Chỉ có khoảng 10%-15% giáo viên thấy được hiệu quả và áp dụng nhiều phương pháp này vào trong bài giảng, trong khi đó, có đến 50% - 55% không hề lồng ghép kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy trong giờ học. Có khoảng 35% giáo viên đã chủ động kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào giảng dạy trong tiết học của mình nhưng không được chi tiết, cẩn thận mà chỉ sử dụng một cách qua loa, không thực sự mang lại hiệu cao cho cả học sinh và giáo viên. Đa số, các thầy cô vẫn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống để dạy các em môn Toán lớp 10. Bảng 2: Bảng kết quả khảo sát đầu năm môn toán của học sinh lớp 10A9 Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm
- có 2 em. Nhìn chung đa số các em học sinh trong lớp đạt thang điểm 5-6 chiếm 45% và 7-8 điểm chiếm 39%. Và ở mức dưới 5 điểm có 5 em học sinh chiếm 11,5% tổng số học sinh cả lớp. Bảng 3: Bảng khảo sát học sinh về việc được áp dụng các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào môn toán khi còn học THCS Đã được áp Đã được làm Chưa từng được Tên kỹ thuật dụng nhiều quen áp dụng Kỹ thuật mảnh 10% 35% 55% ghép Kĩ thuật khăn trải 5% 30% 65% bài Kỹ thuật nhóm đôi 15% 45% 40% Trò chơi theo 17% 40% 43% nhóm Kỹ thuật lược đồ 12% 42% 46% tư duy Biểu đồ khảo sát việc học sinh được áp dụng các ký thuật dạy học ở các lớp dưới THCS 70% 65% 60% 55% 50% 45% 46% 43% 42% 40% 40% 40% 35% 30% 30% 20% 17% 15% 12% 10% 10% 5% 0% Kỹ thuật mảnh ghép Kĩ thuật khăn trải bài Kỹ thuật nhóm đôi Trò chơi theo nhóm Kỹ thuật lược đồ tư duy Đã được áp dụng nhiều Đã được làm quen Chưa từng được áp dụng Đa phần ở cấp học THCS các em học sinh đều đã được làm quen với các kỹ thuật dạy học nhóm cũng như lược đồ tư duy. Tuy nhiên các biện pháp này mới chỉ dừng ở mức làm quen, giới thiệu, việc áp dụng nhiều là rất ít chỉ khoảng từ 5-17% ở tất cả các kỹ thuật. Và việc các em chưa được áp dụng các kỹ thuật này cũng ở con số rất cao trên 40%. Qua đây có thể thấy rằng việc vận dụng các kỹ thuật học nhóm cũng như kỹ thuật lược đồ tư duy cho học sinh lớp 10 là rất quan trọng để 8
- các em có thể rèn luyện những kỹ năng mềm cũng như nâng cao tính chủ động sáng tạo cho các em. 2.3. Những hạn chế, bất cập trong công tác giảng dạy Trong công tác giảng dạy, nhiều giáo viên đã quen với phương pháp dạy học truyền thống nên không vận dụng kết hợp các kỹ thuật dạy học nhóm và lược đồ tư duy vào trong giờ học. Với những giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc dạy học bằng phương pháp này, các thầy cô sẽ khó để quản lý trật tự lớp học trong lúc thực hành những dạy học nhóm hay vẽ lược đồ tư duy và khó đảm bảo tiến độ giờ học để có thể truyền đạt hết kiến thức trong một tiết học, dẫn đến tình trạng chậm giáo án. Sĩ số của lớp khá đông (44 học sinh) khiến việc theo dõi sát sao từng em học sinh trở nên khó khăn đối với giáo viên. Trình độ của các em học sinh không đồng đều. Bên cạnh những em học tốt, tiếp thu nhanh thì vẫn còn một số em, cũng có một số em trong giờ còn làm việc riêng, mất trật tự, gây ảnh hưởng đến các bạn xung quanh. Ngoài ra, các em học sinh đang ở độ tuổi mà cái tôi của các em được thể hiện ra ngoài nhiều nhất nên sẽ khiến giáo viên phải phân hóa đối tượng hoặc nhắc nhở làm mất thời gian của cả lớp. 2.4. Thuận lợi và khó khăn trong quá trình nghiên cứu - Thuận lợi: Cơ sở vật chất của trường được trang bị đầy đủ như tivi, máy chiếu, hệ thống đèn, quạt. Không gian lớp học rộng rãi, thoáng mát, sân trường nhiều cây xanh, có bóng mát cho các em chơi đùa, học tập, tham gia các hoạt động, trò chơi học tập. Nhà trường cũng tạo điều kiện thuận lợi, cho phép các lớp thực hiện nhiều tiết học ngoài trời và tổ chức học hoạt động trải nghiệm trong giờ chào cờ. Có được sự hỗ trợ nhiệt tình của phụ huynh học sinh, có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường và giáo viên trong việc giáo dục con cái. Các bậc phụ huynh đa số đều quan tâm, thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở, tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. Đội ngũ giáo viên trong trường có kinh nghiệm lâu năm trong công tác giảng dạy, có ý thức tốt về trách nhiệm của người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn hoặc giải quyết những khó khăn trong việc quản lý, xử lý các trường hợp học sinh chậm tiếp thu về học tập cũng như năng lực phẩm chất. - Khó khăn: Hiện nay, do chương trình sách mới nên các giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp mới để nâng cao chất lượng giảng dạy. Các giáo viên chưa có sự chủ động trong việc đưa các phương pháp dạy học theo nhóm và lược đồ tư duy vào bài giảng. Phần lớn các giáo viên chỉ thực hiện theo giảng dạy theo giáo án được phân công từ phía nhà trường mà không có sự sáng tạo. Từ đó, khi phải nghiên cứu đổi mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn và dẫn đến việc bỏ dở giữa chừng. 9
- Giáo viên không có nhiều thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu các phương pháp dạy học mới. Một giáo viên không chỉ dạy một lớp học mà phải dạy nhiều lớp. Có những giáo viên vừa tham gia giảng dạy môn Toán lớp 10 vừa tham gia giảng dạy môn Toán lớp 12. Việc ôn luyện, thi cử cho các em học sinh cuối cấp hầu như chiếm toàn bộ thời gian. Bên cạnh đó các giáo viên còn phải thực hiện các công tác của nhà trường như: đảm bảo việc giảng dạy đủ giờ, coi thi,.. nên gần như không có thời gian cho việc tìm tòi, nghiên cứu. Chương 3: Nội dung giải pháp đã thực hiện 3.1. Biện pháp 1: Vận dụng kỹ thuật mảnh ghép giúp học sinh tìm hiểu các kiến thức về mệnh đề và tập hợp * Mục đích Việc vận dụng kỹ thuật mảnh ghép vào quá trình dạy học nhằm mục đích giúp các em học sinh tìm hiểu các kiến thức mới một cách nhanh chóng, có logic. Đồng thời hoạt động cũng thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân và các nhóm khi thực hiện nhiệm vụ phức hợp. Thông qua đó, các em khẳng định được vai trò của bản thân, tăng cường tính chủ động, tích cực và sáng tạo giúp nâng cao kết quả học tập trong môn Toán học. * Nội dung và cách thực hiện Kỹ thuật mảnh ghép là một kỹ thuật dạy học tích cực mang tính hợp tác, kết hợp các cá nhân, các nhóm và sự liên kết giữa các nhóm nhằm mục tiêu giải quyết một nhiệm vụ phức hợp. Đồng thời kích thích sự tham gia hoạt động cũng như đề cao vai trò, trách nhiệm của từng cá nhân học sinh trong quá trình hợp tác. Kỹ thuật này yêu cầu người học phải chủ động động não, tìm hiểu và giải quyết vấn đề, không tiếp thu kiến thức một cách thụ động, qua đó tăng thêm tính hứng thú cho tiết học. Ưu điểm của Kỹ thuật mảnh ghép: + Kỹ thuật mảnh ghép giải quyết được các nhiệm vụ phức hợp dựa trên học tập hợp tác hiệu quả. + Kích thích sự tham gia của mỗi cá nhân học sinh trong hoạt động nhóm, nâng cao vai trò và giá trị của từng cá nhân trong quá trình hợp tác. + Phát triển kỹ năng giao tiếp của mỗi cá nhân thông qua việc trình bày và chia sẻ ý tưởng trong nhóm mảnh ghép. + Việc ứng dụng kỹ thuật mảnh ghép tạo cơ hội cho học sinh hiểu sâu một vấn đề. Các em không những phải tìm hiểu, chọn lọc kiến thức, suy nghĩ và tư duy để hoàn thành nhiệm vụ mà các em còn phải chia sẻ lại một cách rõ ràng, dễ hiểu cho người khác. Việc áp dụng kỹ thuật mảnh ghép vào quá trình giảng dạy Toán 10 là một phương pháp giảng dạy tích cực mang lại hiệu quả cao theo định hướng giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Các em được hợp tác làm việc cùng nhau, chia sẻ cho nhau các nội dung kiến thức mới, trau dồi thêm kỹ năng quan trọng để phát triển 10
- bản thân, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Toán học. Để thực hiện hoạt động vận dụng kỹ thuật mảnh ghép vào quá trình giảng dạy, tôi đã tiến hành như sau: Ví dụ 1: Trong bài 1: Mệnh đề (Sách giáo khoa Toán 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống), để giúp học sinh hiểu rõ về khái niệm “mệnh đề” và khái niệm “mệnh đề chứa biến”, tôi đã làm theo các bước: Bước 1: Thành lập nhóm (vòng 1) Tôi tiến hành chia lớp thành 8 nhóm, mỗi nhóm gồm 5 thành viên có học lực đa dạng từ giỏi đến khá và trung bình. Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh (vòng 1) Tôi bắt đầu giao nhiệm vụ cho học sinh thực hiện nhiệm vụ của vòng 1 như sau: Nhóm 1+2: Nhiệm vụ 1: Học sinh đọc 2 câu ở tình huống mở đầu trong sách giáo khoa và trả lời câu hỏi Hoạt động 1, từ đó rút ra khái niệm về mệnh đề. Nhiệm vụ 2: Hoàn thành bảng trong bài tập luyện tập 1 (sách giáo khoa Toán 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống trang 6). Nhóm 3+4: Nhiệm vụ 1: Học sinh đọc các câu phát biểu và xác định tính đúng sai của mỗi câu: - P: “Việt Nam thuộc Châu Á”. - Q: “2 + 3 = 6” 11
- - R: “n chia hết cho 4” → Từ đó rút ra khái niệm mệnh đề Nhiệm vụ 2: Liệt kê 5 mệnh đề đúng, 5 mệnh đề sai Nhóm 5+6: Nhiệm vụ: Học sinh đọc sách giáo khoa, xét câu “n chia hết cho 2” (với n là số tự nhiên) (sách giáo khoa Toán 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống trang 7). → Từ đó rút ra khái niệm mệnh đề chứa biến Nhóm 7+8: Nhiệm vụ 1: Xét câu R: “n chia hết cho 4”, xét tính đúng sai và rút ra khái niệm về mệnh đề chứa biến. Nhiệm vụ 2: Tìm các ví dụ về mệnh đề chứa biến mà em đã từng học. (Ví dụ mệnh đề về dấu hiệu chia hết cho các số 2,3,5,9). Các nhóm có thời gian 5 phút để thảo luận và hoàn thành nhiệm vụ. Mỗi thành viên khi thảo luận sẽ ghi chép lại kết quả thảo luận ra phiếu học tập cá nhân. Hết 5 phút, vòng 2 sẽ bắt đầu. Bước 3: Thiết lập nhóm (vòng 2) Tại vòng 2, các thành viên của 8 nhóm cũ sẽ tách ra hình thành 5 nhóm mới, mỗi nhóm 8 người. Mỗi thành viên trong nhóm mới phải là một người trong nhóm cũ. Hình minh họa Kỹ thuật mảnh ghép 12
- Bước 4: Trình bày kết quả trong nhóm (vòng 2) Mỗi thành viên sẽ trình bày lại kết quả mà mình đã thảo luận ở nhóm cũ cho các thành viên của nhóm mới để tất cả các thành viên trong nhóm hiểu và nắm được kiến thức đầy đủ về khái niệm mệnh đề, khái niệm mệnh đề chứa biến, xét được tính đúng sai của các câu mệnh đề, lấy được ví dụ minh họa chính xác. Sau khi thảo luận, các thành viên trong nhóm sử dụng kiến thức mà mình vừa khám phá, tiếp thu được để hình thành nên một bài báo cáo hoàn chỉnh về khái niệm mệnh đề và mệnh đề chứa biến. Bước 5: Giao nhiệm vụ chung Sau đó tôi giao cho các nhóm nhiệm vụ chung như sau: Xét tính Đ-S của các phát biểu sau. Cho biết phát biểu nào là mệnh đề, phát biểu nào là mệnh đề chứa biến, câu nào không phải mệnh đề. Nội dung các phát biểu Đ-S MĐ chứabiến Bạn có thích học toán không? Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi chúng đồng dạng và có 1 cạnh bằng nhau. Một tam giác là vuông khi và chỉ khi nó có một góc bằng tổng 2 góc kia. Trong đường tròn hai dây bằng nhau căng 2 cung bằng nhau . n là số nguyên lẻ là số lẻ. ABCD là hình chữ nhật Cx A X \A x | x X và x A ABCD là hình bình hành . x chia hết cho 6 x chia hết cho 2 và 3. Tam giác cân là tam giác có hai cạnh bằng nhau. Nếu một tam giác có một góc thì tam giác đó là tam giác vuông. Nếu a chia hết cho 9 thì a chia hết cho 3. Nếu thì . 13
- 17 là số nguyên tố. Số là số hữu tỉ. Dơi không phải là loài chim. Số 12 chia hết cho 3. Hà Nội là thủ đô của Thái Lan. Việt nam là một nước thuộc châu Á. Hôm nay trời đẹp quá! Bước 6: Trình bày báo cáo, nhận xét và bổ sung Sau khi các nhóm hoàn thành nhiệm vụ chung, các nhóm tiến hành nộp bài về cho giáo viên. Tiếp đó, tôi sẽ gọi đại diện 1-2 nhóm lên trình bày báo cáo cho cả 2 vòng, các nhóm còn lại có nhiệm vụ lắng nghe nhận xét và bổ sung. Với mỗi nhóm trình bày, tôi sẽ đánh giá và đưa ra những lời khen ngợi về những mặt tích cực, những mặt tốt mà các em đã đạt được trong quá trình hoạt động nhóm, khám phá tri thức và hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời tôi đưa ra những nhận xét, góp ý về những mặt chưa tốt để các em sửa đổi và hoàn thiện. Dựa vào tốc độ hoàn thành và chất lượng bài của các nhóm, tôi sẽ chấm điểm, đánh giá 5 nhóm và xếp các nhóm theo thứ tự từ nhóm có điểm cao nhất đến nhóm có điểm thấp nhất, nhận xét bài làm và tuyên dương nhóm làm tốt nhất, động viên khích lệ thành quả của các em. Cuối cùng, tôi chuẩn hóa kiến thức cho các em về nội dung mệnh đề và mệnh đề chứa biến. Việc chia nhóm ở vòng 2 có ý nghĩa giúp cho các em học sinh hiểu sâu sắc các kiến thức đã tìm hiểu ở vòng 1. Việc truyền đạt lại kiến thức cho các thành viên khác trong nhóm hiểu yêu cầu các em phải nắm vững các nội dung kiến thức mà mình đã tìm hiểu và thảo luận ở vòng 1. Thông qua đó, các em cùng nhau trao đổi để nắm được nội dung bài học một cách tổng quan cũng như chi tiết. Ví dụ 2: Áp dụng trong tiết luyện tập cuối chương 1 (Sách giáo khoa Toán 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống), để giúp học sinh ôn tập lại phần kiến thức về mệnh đề và tập hợp, tôi đã tổ chức cho học sinh làm bài tập trải nghiệm theo kỹ thuật mảnh ghép gồm các bước như sau: Bước 1: Thành lập nhóm (Vòng 1) Tôi sẽ chia các em học sinh lớp 10A9 thành 6 nhóm, mỗi nhóm 7-8 thành viên có học lực đa dạng từ giỏi đến khá và trung bình. 14
- Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh (Vòng 1) Nhiệm vụ của các em học sinh trong vòng 1 sẽ là làm phiếu khảo sát thống kê chiều cao, cân nặng của tất cả các học sinh trong nhóm, nhiệm vụ này sẽ được thực hiện trong vòng 3 phút. Mẫu bảng khảo sát nhóm 1 Tên thành viên Chiều cao Cân nặng Ví dụ: 1.50 m Ví dụ: 42kg Tôi sẽ phát cho mỗi thành viên trong nhóm một phiếu khảo sát và mỗi thành viên đều cần điền thông tin mà mình đã thu thập được vào 1 phiếu cá nhân riêng để chuẩn bị cho vòng 2 Bước 3: Thiết lập nhóm (Vòng 2): Sau khi các nhóm đã thống kê xong phiếu khảo sát của nhóm mình, tôi sẽ chia lại nhóm cho các em học sinh để thực hiện nhiệm vụ ở vòng 2. Từ 6 nhóm ban đầu, mỗi nhóm có 7-8 thành viên, thì vòng 2 mỗi thành viên tách ra thành lập 7 nhóm mới, mỗi nhóm 6-7 thành viên. Bước 4: Trình bày kết quả trong nhóm (Vòng 2) Nhiệm vụ của các nhóm trong vòng 2 là: Nhiệm vụ 1: Các thành viên trong nhóm sẽ chia sẻ kết quả thống kê đã lấy được từ vòng trước để cả nhóm tổng hợp lại thành thông tin cả lớp. Nhiệm vụ 2: Từ kết quả thống kê, các nhóm cần biểu diễn được các thông tin dưới dạng Tập hợp và các phép toán trên tập hợp nhiều nhất có thể. Bước 5: Giao nhiệm vụ chung Trong vòng 7 phút, các nhóm liệt kê ra giấy A0 các thông tin dưới dạng Tập hợp và các phép toán trên tập hợp mà nhóm mình đã tìm ra được - Đặt tên cho các tập hợp và biểu diễn tập hợp, số phần tử của tập hợp Ví dụ: + Gọi A là tập hợp cân nặng của các bạn nữa trong lớp: + Gọi B là tập hợp các bạn nam cao dưới 1.60m: - Đặt tên cho các tập hợp khác nhau, làm các phép toán tập hợp và đưa ra số phần tử của phép toán đó Ví dụ: + Gọi I là tập hợp các bạn nữ nặng dưới 50kg, => A\I có 5 phần tử + Gọi M là tập hợp các bạn nam cao trên 1.60m => M B 15
- Bước 6: Trình bày báo cáo, nhận xét và bổ sung Sau khi tất cả các đã hoàn thành nhiệm vụ chung, tôi sẽ gọi 1-2 đại diện của các nhóm trình bày lên bảng để đối chiếu và kiểm chứng kết quả. Các nhóm có nhiệm vụ kiểm tra chéo cho nhau. Ví dụ nhóm 1 đối chiếu nhóm 2, nhóm 2 đối chiếu nhóm 3… Cách tính điểm như sau: Mỗi ý đúng được 1 điểm. Lỗi sai trừ 1 điểm. Nhóm nào nhiều điểm nhất sẽ dành chiến thắng. Cuối cùng tôi sẽ tổng kết lại một lần nữa những kiến thức trọng tâm của chương này để các em học sinh có thể ghi nhớ chính xác hơn. Một số lưu ý khi sử dụng kỹ thuật mảnh ghép Khi áp dụng kỹ thuật mảnh ghép, giáo viên cần lưu ý một số điều sau: * Các mảnh ghép lại phải tạo thành bức tranh hoàn chỉnh Kỹ thuật mảnh ghép trong vòng 2 được áp dụng sau khi các hoạt động của vòng 1 đã diễn ra. Do đó, giáo viên cần đảm bảo rằng những thông tin từ các mảnh ghép lại với nhau sẽ khiến học sinh hiểu được toàn cảnh bức tranh của bài học và là cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ phức hợp được đưa ra ở vòng 2. * Hỗ trợ hoàn thành vòng 1 trước khi vào vòng 2 trong kỹ thuật mảnh ghép Các thành viên ở vòng 1 có thể có trình độ nhận thức khác nhau, nên giáo viên và các trưởng nhóm cần xác định yếu tố hỗ trợ kịp thời để tất cả mọi thành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1, chuẩn bị cho hoạt động ở vòng 2 phía sau. * Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn Ở hoạt động mảnh ghép, mỗi thành viên trong nhóm phải chia sẻ lại nội dung mình vừa thảo luận ở hoạt động trong vòng 1, để mọi thành viên trong nhóm nắm được khái niệm mệnh đề, mệnh đề chứa biến, xét được tính đúng sai của các câu mệnh đề, lấy được ví dụ minh họa chính xác. Vì vậy, số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành viên có thể truyền đạt lại kiến thức cho nhau. * Xác định các yếu tố cần thiết Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng mảnh ghép là một nhiệm vụ phức hợp và chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến thức đã có ở vòng 1. Do đó học sinh cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về kiến thức, kĩ năng, thông tin,... cũng như các yếu tố hỗ trợ cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức hợp này. * Điểm mới của biện pháp: Điểm mới của biện pháp ứng dụng kỹ thuật mảnh ghép vào việc giảng dạy môn Toán học là giáo viên đã sử dụng một phương pháp dạy học tích cực để thúc đẩy tinh thần học tập, sự chủ động tích cực của các em học sinh đối với các hoạt động cũng như với việc học. Việc tổ chức hoạt động thảo luận, giao nhiệm vụ phức hợp ở vòng 2 ngay sau các hoạt động khám phá kiến thức ở vòng 1 tạo nên hiệu quả to lớn trong việc dạy và học. Hai hoạt động được kết hợp và bổ trợ cho nhau 16
- giúp cho toàn bộ học sinh trong lớp hiểu sâu nội dung kiến thức cần học, tăng cường hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm, hợp tác cùng nhau làm việc giúp cho các em vừa phát triển về mặt kiến thức, vừa phát triển về mặt kỹ năng. 3.2. Biện pháp 2: Vận dụng kỹ thuật khăn trải bàn giúp học sinh rèn khả năng tư duy độc lập và tổng hợp thông tin về mệnh đề, tập hợp * Mục đích: Việc vận dụng kỹ thuật khăn trải bàn vào quá trình giảng dạy môn Toán 10 nhằm mục đích giúp học sinh tìm hiểu kiến thức về các mệnh đề, tập hợp. Đồng thời kỹ thuật này cũng tăng cường hứng thú cho học sinh trong môn học, kích thích học sinh chủ động tìm hiểu, khám phá và hình thành nội dung kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng hợp tác làm việc nhóm và kỹ năng tổng hợp thông tin cho mỗi học sinh. * Nội dung thực hiện: Kỹ thuật khăn trải bàn là một kỹ thuật dạy học tích cực sử dụng hình thức tổ chức các hoạt động mang tính kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình dạy và học. Đồng thời phát triển sự tương tác giữa các em học sinh, đẩy mạnh tính độc lập, trách nhiệm của từng cá nhân. Ưu điểm của Kỹ thuật khăn trải bàn: + Tăng cường tính độc lập, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân học sinh đối với môn học. + Phát triển mô hình học tập có sự tương tác qua lại giữa các học sinh với nhau. + Phát huy được trí tuệ, tư duy của cả tập thể nhóm trong quá trình học sinh hoạt động thực hiện nhiệm vụ. + Có công cụ riêng để ghi nhận kết quả của hoạt động làm việc cá nhân cũng như hoạt động thảo luận nhóm. 17
- Kỹ thuật khăn trải bàn Việc áp dụng kỹ thuật khăn trải bàn vào giảng dạy bộ môn Toán học là một cách làm mới khơi gợi động cơ học tập của học sinh, kích thích hứng thú học tập cũng như định hướng một cách hiệu quả hoạt động học tập của học sinh. Với kỹ thuật giảng dạy này, các em học sinh có thể nắm được nội dung kiến thức một cách dễ dàng, từ đó chủ động phân tích, tổng hợp và khái quát hoá để hình thành và phát triển tư duy trong môn Toán học. Ví dụ 1: để giúp học sinh hiểu rõ kiến thức về các tập con của , tôi tiến hành tổ chức cho học sinh bài luyện tập thảo luận nhóm theo kĩ thuật khăn trải bàn như sau: Bước 1: Thành lập nhóm Tôi tiến hành chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm 7-8 thành viên. Mỗi nhóm bầu ra một nhóm trưởng và một thư ký để điều phối hoạt động các thành viên và ghi chép bài báo cáo của nhóm. Bước 2: Giáo nhiệm vụ cho các nhóm Tôi đưa ra bài tập cho các nhóm như sau: Viết các tập hợp sau dưới dạng các khoảng, đoạn, nửa khoảng rồi biểu diễn trên trục số: A x | 2 x 7 B x | x 2 C x | 3 x 5 D x | 3 x 4 7 E x | x 4 F x | x 1 2 G x | x 3 4 2 x Tôi yêu cầu học sinh làm việc cá nhân giải bài tập trong vòng 3 phút, sau đó 18
- làm việc theo nhóm trong 2 phút để thống nhất lời giải. Sau đó mỗi nhóm cử ra một thành viên đại diện trình bày lại lời giải ra phiếu chung của nhóm, yêu cầu nhóm nào nhanh nhất thì mang bài lên bảng để trình bày và yêu cầu đại diện của nhóm đó thuyết trình giải thích. Bước 3: Chấm bài và nhận xét Hết giờ, các nhóm khác chuyển bài cho nhau để chấm chéo, học sinh các nhóm còn lại tập trung theo dõi góp ý và chỉnh sửa bài trên bảng. Sau khi chấm chéo xong tôi nhận xét về quá trình làm việc và thái độ làm việc của các nhóm. Tôi khuyến khích và dành những lời khen ngợi sự tích cực của các nhóm, các em đã hăng hái tham gia hoạt động và làm bài tập chính xác. Đồng thời tôi cũng nhận xét, góp ý và nhắc nhở các nhóm về những điều mà các em còn sai sót để các em chính sửa và hoàn thiện. Trong trường hợp có nhóm làm sai nhiều thì tôi yêu cầu trình chiếu bài của nhóm đó, và yêu cầu nhóm chấm giải thích vì sao trừ điểm. Thông qua đó, các em nắm được những điểm sai của mình, nhớ kỹ hơn kiến thức đúng và tránh lặp lại những lỗi sai tương tự khi giải bài tập về các tập con thường dùng của . Cuối cùng, tôi chuẩn hóa lại kiến thức về các tập con thường dùng của cho các em học sinh. Hình 1: Học sinh sử dụng kỹ thuật khăn trải bàn Ví dụ 2: Khi học về mệnh đề kéo theo, tôi sẽ tiến hành giao nhiệm vụ cho học sinh thảo luận nhóm để hoàn thành bài tập sau: Bài 1: Phát biểu các mệnh đề sau bằng cách sử dụng khái niệm “điều kiện cần”, “điều kiện đủ”. a) Nếu một số tự nhiên có chữ số tận cùng là chữ số 5 thì nó chia hết cho 5. b) Nếu thì một trong hai số và là số dương. c) Nếu một số tự nhiên chia hết cho 9 thì nó chia hết cho 3. d) Nếu và cùng chia hết cho thì chia hết cho . 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 140 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 42 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 43 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 46 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh lớp 12 nâng cao năng lực viết đoạn văn nghị luận xã hội trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia
38 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 một số kĩ năng học và làm bài thi trắc nghiệm khách quan môn Vật lí trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia
14 p | 30 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng STEM để tạo hứng thú học tập môn Hoá học với chủ đề Bình chữa cháy mini
45 p | 9 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Bài tập thực hành Word khối 10
37 p | 19 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn