intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

21
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Vận dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12)" nhằm góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực HS, phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới được Bộ GD&ĐT ban hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN CẢNH CHÂN ---------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC DỰ ÁN NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC TỰ HỌC, TỰ CHỦ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC BÀI KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG NGƯỜI THỰC HIỆN: TRẦN THỊ THU HÀ TỔ: VĂN – NGOẠI NGỮ NĂM THỰC HIỆN: 2021 - 2022 LĨNH VỰC (MÔN): NGỮ VĂN ĐIỆN THOẠI: 0387 574 009
  2. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................................. 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 1 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................................... 2 4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 2 5. Thời gian nghiên cứu .................................................................................................................... 2 6. Những điểm mới của sáng kiến .................................................................................................. 2 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................................... 2 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ....................................................................... 3 1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................................................. 3 1.1.1. Dạy học dự án ........................................................................................................ 3 1.1.2. Quan niệm về năng lực tự học, tự chủ ................................................................... 6 2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................................ 9 II. TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG THEO DỰ ÁN NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC TỰ HỌC, TỰ CHỦ CHO HỌC SINH ..................................................................... 13 1. Xác định rõ nguyên tắc dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhằm phát huy năng lực tự chủ, tự học cho HS. ............................................. 13 1.1. Dạy học theo nguyên tắc tích hợp: ......................................................................... 13 1.2. Dạy học theo hướng tích cực - hướng dẫn Đọc để Tự chủ và tự học..................... 15 1.3. Sử dụng phương tiện dạy học trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. ......................................................................... 17 2. Tổ chức dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường bằng PPDH dự án nhằm nâng cao năng lực tự chủ, tự học cho HS. ................................... 17 2.1 Tiết 1: GIỚI THIỆU VỀ DẠY HỌC DỰ ÁN VÀ BÀI KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ................................................ 17 2.2. Tiết 2: PHÂN NHÓM, LẬP KẾ HOẠCH, HƯỚNG DẪN NHIỆM VỤ TỪNG NHÓM ........................................................................................................................... 19 2.3. THỰC HIỆN DỰ ÁN (1 tuần) ................................................................................ 22 2.4. Tiết 3+ 4: GIỚI THIỆU SẢN PHẨM TRƯỚC LỚP ............................................. 22 III. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................................................................. 25 1. Mục đích thực nghiệm ................................................................................................................ 25 2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ....................................................................... 25
  3. 3. Nội dung thực nghiệm................................................................................................................. 26 4. Phương pháp .................................................................................................................................. 26 5. Giáo án thực nghiệm (Phụ lục 1) ............................................................................................. 26 6. Đánh giá Kết quả nghiên cứu và Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến263.6.1.Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ........................................................................................................................................................ 26 6.1. Kết quả kiểm tra, đánh giá ...................................................................................... 40 6.2. Nhận xét của giáo viên ........................................................................................... 41 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................... 45 PHỤ LỤC........................................................................................................................................... 46
  4. CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Viết đầy đủ GD&ĐT Giáo dục và đào tạo GV Giáo viên HS Học sinh SGK Sách giáo khoa THPT Trung học phổ thông SKKN Sáng kiến kinh nghiệm GDPT Giáo dục phổ thông KTĐG Kiểm tra đánh giá DHDA Dạy học dự án VHVN Văn học Việt Nam
  5. Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong những năm gần đây để hướng học sinh đến phương pháp học tập tích cực và tự chủ hơn, giáo viên phải là người hướng dẫn các em khám phá, lĩnh hội các kiến thức mới. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu quan trọng nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được những người làm công tác giáo dục áp dụng trong quá trình dạy học, như: Dạy học hợp tác; Dạy học khám phá; Dạy học giải quyết vấn đề; Phương pháp đàm thoại gợi mở; Phương pháp đóng vai; Phương pháp dạy học theo mẫu…Tất cả những phương pháp đó đang dần tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, giúp các em hứng thú hơn với việc học nhắm nâng cao chất lượng dạy và học. Để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, một trong những phương pháp dạy học tích cực mang lại kết quả cao chính là việc áp dụng thành công phương pháp dạy học theo dự án trong tổ chức hoạt động dạy học. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Nhưng trong thực tế dạy học với phương pháp cũ, tôi thấy giáo viên chưa truyền đạt hết được tất cả nội dung, vấn đề mà chúng ta mới chỉ truyền đạt được một lượng kiến thức nhất định về tác giả, tác phẩm, trong quá trình học tập, học sinh cũng chưa thật tự học và tự chủ trong tìm hiểu và khám phá kiến thức. Với đề tài nghiên cứu này, tôi mong muốn học sinh phát huy tốt năng lực tự học, tự chủ khi học tập môn Ngữ văn nói chung và bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng. Với mong muốn tìm ra được những cách thức đổi mới phương pháp để việc dạy học Ngữ văn ngày một đạt hiệu quả. Tôi đã lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12) làm đề tài sáng kiến của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12) cho HS lớp 12 trường THPT Nguyễn Cảnh Chân. - Phạm vi: Phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ trong trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Chương trình Ngữ văn 12). 1
  6. 3. Mục đích nghiên cứu Sử dụng phương pháp dạy học theo dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ trong trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường - Chương trình Ngữ văn 12), qua đó góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực HS, phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới được Bộ GD&ĐT ban hành. 4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu quá trình dạy học theo dự án của GV và quá trình thực hiện dự án trong học sinh qua dạy và học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường - Chương trình Ngữ văn 12) nói riêng và môn Ngữ văn nói chung ở trường THPT. Trong quá trình thực hiện sáng kiến này, chúng tôi đã vận dụng và phối hợp nhiều phương pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau : Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp điều tra, quan sát; Phương pháp phân tích, thống kê, đối chứng các số liệu; Phương pháp thuyết trình và Phương pháp thực nghiệm. 5. Thời gian nghiên cứu Năm học 2021 - 2022 từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 03 năm 2022 tôi đã thực nghiệm đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát huy năng lực tự học, tự chủ cho học sinh trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường - Chương trình Ngữ văn 12) 6. Những điểm mới của sáng kiến Về lý luận: Sáng kiến đóng góp với các bạn đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn lớp 10 nói riêng và bộ môn Ngữ văn cấp THPT nói chung về thực trạng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Về thực tiễn: Đi sâu vào dạy học theo dự án thông qua giảng dạy bộ môn mình phụ trách, tôi muốn đưa ra một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” cuả Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường THPT Nguyễn Cảnh Chân với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện. Phần 2: NỘI DUNG 2
  7. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận 1.1. Dạy học dự án a) Khái niệm Dạy học theo dự án (DHDA) là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập. Làm việc nhóm là hình thức làm việc cơ bản của DHDA. Trong tài liệu tập huấn module 2 chương trình GDPT 2018 cho rằng “Dạy học dựa trên dự án là cách thức tổ chức dạy học, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu, trình bày”. Dạy học dự án là một phương pháp dạy học trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học trực tiếp thực hiện với tính tự học, tự nghiên cứu trong toàn bộ quá trình học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, cho đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá và trình bày kết quả. b) Đặc điểm của dạy học dự án Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn môn học, thực tiễn đời sống vì vậy DHDA mang định hướng thực tiễn cao. Nhiệm vụ của dự án cần chứa đựng những nội dung phù hợp với năng lực của người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội sẽ mang lại những tác động xã hội tích cực. Trong dạy học theo dự án, người học cần chủ động, tích cực, tham gia vào các giai đoạn của quá trình học tập, điều đó góp phần khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ, do vậy DHDA phát huy tính tự lực của người học. Trong DHDA người học được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Trong quá trình thực hiện dự án sẽ làm tăng hứng thú của người học. Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn đề mang tính phức hợp. Vì thế, DHDA sẽ mang tính tích hợp, liên môn. 3
  8. Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Các thành viên trong nhóm khi tham gia dự án phải chủ động, tích cực thực hiện dự án. Mỗi thành viên cần có định hướng hành động cụ thể, thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng năng lực thực hành, vận dụng vào thực tiễn. Dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, vì thế cần có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm một cách cụ thể. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa HS và GV cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu bằng nhiều hình thức khác nhau với các quy mô khác nhau, nên DHDA luôn có tính định hướng sản phẩm. c) Cách tiến hành dạy học theo dự án Dạy học dựa trên dự án cần được tiến hành theo ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Chuẩn bị dự án (Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án) - Đề xuất ý tưởng và chọn đề tài dự án: Đề tài dự án có thể nảy sinh từ sáng kiến của GV, HS hoặc của nhóm HS. HS là người quyết định lựa chọn đề tài, nhưng phải đảm bảo nội dung phù hợp với mục đích học tập, phù hợp chương trình và điều kiện thực tế. Để thực hiện dự án, HS phải đóng những vai có thực trong xã hội để tự mình tìm kiếm thông tin và giải quyết công việc. - Chia nhóm và nhận nhiệm vụ dự án: GV chia nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm HS và những yếu tố khác liên quan đến dự án. Trong công việc này, GV là người đề xướng nhưng cũng cần tạo điều kiện cho HS tự chọn nhóm làm việc. - Lập kế hoạch thực hiện dự án: GV hướng dẫn các nhóm HS lập kế hoạch thực hiện dự án, trong đó HS cần xác định chính xác chủ đề, mục tiêu, những công việc cần làm, kinh phí, thời gian và phương pháp thực hiện. Ở giai đoạn này, đòi hỏi ở HS tính tự lực và tính cộng tác để xây dựng kế hoạch của nhóm. Sản phẩm tạo ra ở giai đoạn này là bản kế hoạch dự án. Lưu ý: Để tổ chức thành công các chủ đề dự án, GV hướng dẫn HS biết cách xây dựng kế hoạch, đảm bảo các mặt (thời gian, phân công công việc trong nhóm, phương pháp tiến hành, thiết bị cần dùng, kinh phí,…). Giai đoạn 2: Thực hiện dự án 4
  9. Giai đoạn này, với sự giúp đỡ của GV, HS tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao với các hoạt động: như đề xuất các phương án giải quyết và kiểm tra, nghiên cứu tài liệu, tiến hành các thí nghiệm, trao đổi và hợp tác với các thành viên trong nhóm. Trong dự án, GV cần tôn trọng kế hoạch đã xây dựng của các nhóm, cần tạo điều kiện cho HS trao đổi, thu thập tài liệu, tìm kiếm thông tin. Các nhóm thường xuyên cùng nhau đánh giá công việc, chỉnh sửa để đạt được mục tiêu. GV cũng cần tạo điều kiện cho việc làm chủ hoạt động học tập của HS và nhóm HS, quan tâm đến phương pháp học của HS… và khuyến khích HS tạo ra một sản phẩm cụ thể, có chất lượng. Để quá trình thực hiện dự án có hiệu quả, mỗi nhóm cần xây dựng bản kế hoạch chi tiết cho từng công việc và luôn thể hiện tinh thần làm việc nhóm, khả năng tư duy sáng tạo, khả năng suy nghĩ độc lập và cách giải quyết các vấn đề theo sự sáng tạo riêng. Lưu ý, trong quá trình thực hiện, GV cần động viên, khích lệ HS nhằm phát huy được tất cả những sở trường, năng lực cá nhân để thực hiện đề tài dự án đạt hiệu quả cao nhất. Giai đoạn 3: Báo cáo và đánh giá dự án HS thu thập kết quả, công bố sản phẩm trước lớp. Sau đó, GV và HS tiến hành đánh giá. Bước 1) Thu thập kết quả Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng bài viết nghiên cứu, báo cáo, hay tờ rơi, báo tường, tập tranh ảnh, clip,… Bài viết có thể được trình bày trên phần mềm powerpoint, hay dạng văn bản viết, hoặc là các ấn phẩm (bản tin, báo, áp phích), phim, ảnh,… Bước 2) Công bố sản phẩm Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm HS và được giới thiệu trong toàn trường. Bước 3) Đánh giá dự án Đây là giai đoạn kết thúc dự án, HS có thể tự nhận xét quá trình thực hiện dự án và tự đánh giá sản phẩm nhóm mình và đánh giá nhóm khác. GV đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện dự án của HS, đánh giá sản phẩm và rút kinh nghiệm để thực hiện những dự án tiếp theo. Nói khác, ngoài GV kiểm tra, đánh giá thì bản thân HS, cũng như những người tham dự đều tham gia đánh giá. Từ đó giúp cho mỗi HS tự nhận thấy được mặt ưu và mặt khuyết của mình để rút kinh nghiệm cho việc thực hiện đề án tiếp theo. d) Dạy học dự án trong môn Ngữ văn ở trường THPT 5
  10. Dạy học dự án là một phương pháp hoặc hình thức dạy học, trong đó GV hướng dẫn HS giải quyết một nhiệm vụ học tập có tính chất tổng hợp. Kết quả dự án là những sản phẩm có thể giới thiệu được. Trong môn Ngữ văn, việc sử dụng dạy học dựa trên dự án góp phần phát triển cho người học những phẩm chất và năng lực chủ yếu: Phẩm chất: trách nhiệm, trung thực, chăm chỉ…; các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực giao tiếp và hợp tác… và các NL đặc thù : năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học… thông qua các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe. Với việc thực hiện các sản phẩm học tập bằng các hoạt động cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe, HS sẽ có cơ hội hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Đặc thù môn Ngữ văn có nhiều nội dung dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, đề phù hợp để sử dụng dạy học dựa trên dự án GV phải tìm ra được mối liên hệ giữa những vấn đề thực tiễn đang diễn ra trong cuộc sống với nội dung bài học, từ đó xây dựng những chủ đề học tập theo dự án một cách phù hợp. Hoặc môn Ngữ văn có thể tích hợp với những môn học khác tạo thành những dự án học tập mà ở đó, những nội dung dạy học của môn Ngữ văn cũng chủ yếu được thiết kế theo định hướng hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất cho HS với những biểu hiện cụ thể liên quan đến đọc, viết, nói và nghe. 1.2. Quan niệm về năng lực tự học, tự chủ a) Một số khái niệm Theo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể [1]: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”. Trong cuốn “Học và dạy cách học” (2002) Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về năng lực tự học như sau: “Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. 6
  11. Năng lực tự chủ là khả năng áp dụng kiến thức, kỹ năng đã được học trong việc tổ chức, thực hiện một công việc. Như vậy, năng lực tự chủ và tự học là tự làm được những việc của mình ở nhà và ở trường theo sự phân công, hướng dẫn. Biết chủ động, tích cực thực hiện những công việc của bản thân trong học tập và trong cuộc sống; không đồng tình với những hành vi sống dựa dẫm, ỷ lại. b) Biểu hiện của Năng lực tự chủ và tự học trong môn Ngữ văn trườngTHPT Theo tài liệu [1], chúng tôi đã xác định cấu trúc năng lực tự chủ của học sinh trong dạy học Ngữ văn gồm các năng lực thành phần: “Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu chính đáng; Tự kiểm soát tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định hướng; Tự học, tự hoàn thiện”. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã nêu ra biểu hiện của Năng lực tự chủ và tự học được thể hiện dưới bảng sau: Năng lực Cấp trung học phổ thông 1.1. Tự lực Biết giúp đỡ người sống ỷ lại vươn lên để có lối sống tự lực. 1.2. Tự khẳng định và Biết khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu cá nhân phù hợp bảo vệ quyền, nhu cầu với đạo đức và pháp luật. chính đáng 1.3. Tự kiểm soát tình - Đánh giá được những ưu điểm và hạn chế về tình cảm, cảm, thái độ, hành vi cảm xúc của bản thân; tự tin, lạc quan. của mình - Biết tự điều chỉnh tình cảm, thái độ, hành vi của bản thân; luôn bình tĩnh và có cách cư xử đúng. - Sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua thử thách trong học tập và đời sống. - Biết tránh các tệ nạn xã hội. 1.4. Tự định hướng - Nhận thức được cá tính và giá trị sống của bản thân. nghề nghiệp - Nắm được những thông tin chính về thị trường lao động, về yêu cầu và triển vọng của các ngành nghề. 7
  12. - Xác định được hướng phát triển phù hợp sau trung học phổ thông; lập được kế hoạch, lựa chọn học các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp của bản thân. 1.5. Tự học, tự hoàn - Xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt thiện được; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế. - Đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân; tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết. - Tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh cách học. - Biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân. Bảng thống kê biểu hiện của Năng lực tự chủ và tự học (trích trong CT GDPT 2018) Như vậy, từ những quan điểm về tự học ở trên, chúng ta có thể xác định được tự chủ, tự học luôn gắn liền với hoạt động tích cực, chủ động của từng chủ thể học sinh mà chúng ta có thể gọi là “tự mình”, có nghĩa là các em phải tự mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt kiến thức và tự mình vận dụng kiến thức. Điều đó không chỉ có giá trị đối với bản thân các em mà còn giá trị đối với xã hội, đối với nhân loại. Ngoài ra, năng lực tự chủ, tự học đối với học sinh THPT còn tạo ra sự biến đổi về mặt nhận thức, đem lại một ý nghĩa lớn hơn là hình thành thói quen tự học với những suy nghĩ tìm tòi để đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề. Đó là những hoạt động có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy logic đồng thời cũng là một dấu hiệu biểu đạt mức độ của sự phát triển trí tuệ. c) Sự cần thiết của việc rèn luyện năng lực tự chủ, tự học trong dạy đọc hiểu môn Ngữ văn Sự bùng nổ của tri thức, sự phát triển của thời đại đặt ra một yêu cầu hết sức cấp bách cho nền giáo dục nước nhà là phải hiện đại hóa nội dung và phương pháp 8
  13. dạy học, trong đó chú trọng phát triển năng lực tự học của học sinh. Bộ môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế dạy đọc hiểu trong môn Ngữ văn là nội dung rất quan trọng để giúp học sinh phát triển các kỹ năng tự chiếm lĩnh, khám phá tri thức của tác phẩm. Điều này đòi hỏi người giáo viên cần phải thay đổi phương pháp dạy học tốt nhất để giúp kích thích khả năng ham học hỏi, say mê nghiên cứu, hình thành ở học sinh những kỹ năng tự học nhằm rút ngắn thời gian học tập trên lớp mà vẫn đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của giáo dục và thời đại. Kiến thức trong mỗi tác phẩm văn học vừa mang tính khái quát, vừa mang tính cụ thể. Để học sinh cảm nhận tác phẩm bằng chính năng lực của mình, việc nâng cao năng lực tự học cho học sinh là một sự lựa chọn tối ưu nhất trong hành trình nâng cao hiệu quả dạy học mà người giáo viên đang kiếm tìm. Những nội dung kiến thức trong mỗi tác phẩm là yếu tố thuận lợi cho việc rèn luyện năng lực cho học sinh THPT, đặc biệt là năng lực tự học. Dưới sự dẫn dắt, điều khiển của giáo viên, học sinh sẽ được rèn luyện và phát huy những kỹ năng quan trọng như tự đọc sách, tài liệu, tự phát hiện luận điểm, tự lập dàn ý, tự tìm dữ liệu cho một nhận định... Từ đó, hình thành cho các em một tư duy logic, khoa học, một khả năng tự học, tự nghiên cứu bài học, một năng lực độc lập suy nghĩ. 2. Cơ sở thực tiễn Để có cơ sở nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát việc sử dụng phương pháp dạy học trong môn Ngữ văn ở trong trường THPT Nguyễn Cảnh Chân 2.1. Mục đích khảo sát Thông qua việc khảo sát để hiểu rõ thực tế cảm thụ tiếp nhận văn học. Tình hình sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học, nhu cầu của giáo viên và học sinh về việc đổi mới phương pháp dạy học mới để nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung và bài học “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng. 2.2. Tư liệu khảo sát - Khảo sát quá trình dạy học của GV và quá trình học tập của HS. - Tìm hiểu các bài soạn của GV THPT về bài học “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 9
  14. 2.3. Phương pháp khảo sát - Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu thêm về tình hình dạy học bài học “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở trường THPT theo PPDH truyền thống và PPDH mới. - Tìm hiểu một số bài làm của học sinh về sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Tổng hợp các tài liệu lí luận có liên quan. 2.4. Quá trình khảo sát và kết quả khảo sát a. Khảo sát việc dạy của giáo viên thông qua dự giờ và hỏi bằng phiếu Dạy học là một công việc rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi ở người thầy không chỉ có kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, phương pháp giảng dạy mà cần phải tâm huyết với nghề nghiệp. Trên lớp, người thầy như một diễn viên vào vai. Với phương pháp dạy học truyền thống người thầy đóng vai trò trung tâm trong hoạt động dạy và học. Thầy là người truyền đạt kiến thức, học trò là người lĩnh hội kiến thức. Những năm gần đây, nền giáo dục nước ta đang trên đường đổi mới căn bản và toàn diện để nâng cao hiệu quả việc dạy và học đồng thời để tiến kịp với các nước trên trên thế giới. Chính vì vậy mà đòi hỏi GV phải nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học để tạo hứng thú cho HS có như vậy mới phù hợp và theo kịp nền giáo dục trên thế giới. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát các giáo viên và học sinh trực tiếp tham gia dạy - học bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở THPT Nguyễn Cảnh Chân cụ thể như sau: + 09 GV của trường THPT Nguyễn Cảnh Chân + 163 học sinh của trường THPT Nguyễn Cảnh Chân Nội dung khảo sát Để có cơ sở thực tiễn chắc chắn cho việc nghiên cứu đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát bằng hình thức trực tiếp dự giờ, gặp gỡ và trao đổi với các giáo viên dạy học Ngữ văn lớp 12 và học sinh ở một số lớp thuộc các trường trung học phổ thông qua phỏng vấn và phiếu hỏi. Hai mẫu phiếu hỏi dành cho hai đối tượng khảo sát như sau: 10
  15. Phiếu khảo sát dành cho Giáo viên Số lượng: 10 giáo viên Mức độ Thường Thỉnh Không bao Vấn đề xuyên thoảng giờ SL % SL % SL % Thầy (cô) có thường xuyên đi tập huấn về đổi mới phương pháp dạy 0 0 10 100 0 0 học không? Trong quá trình dạy học bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường các thầy 3 30 7 70 0 0 (cô) có áp dụng đổi mới phương pháp không? Trong quá trình giảng dạy bộ môn, thầy (cô) có dạy sử dụng PPDH Dự 1 10 7 70 2 20 án không? Dạy học “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc 0 0 3 30 7 70 Tường có kết hợp với hoạt động trải nghiệm không? GV có thường xuyên giao nhiệm 6 60 4 40 0 0 vụ cho HS làm việc nhóm không? b. Phiếu khảo sát dành cho học sinh Tổng số: 163 học sinh ST Rất không Không Thích Rất thích T Mức độ thích thích Nội dung SL % SL % SL % SL % 1 Em có thích thầy(cô) 0 0% 3 1,9 40 24,5 120 73,6 dạy theo phương pháp mới không (dạy học dự án) ? 11
  16. 2 Trong bài học “Ai đã 3 1,8 5 3,1 55 33,8 100 61,3 đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường em có thích tích hợp nhiều nội dung kiến thức không? 3 Học bài “Ai đã đặt tên 13 8,0 50 30, 50 30,7 50 30,7 cho dòng sông?” của 7 Hoàng Phủ Ngọc Tường em chỉ học kiến thức trong SGK và kênh ảnh, video. 4 Học “Ai đã đặt tên cho 3 1,8 10 6,1 20 12,3 130 79,8 dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường được đi thực tế (dã ngoại). 5 Học văn học kết hợp với 10 6,1 13 7,9 70 43,0 70 43,0 phát triển năng lực (hội họa, âm nhạc, diễn xướng…) Qua việc khảo sát thực trạng dạy và học ở trường THPT Nguyễn Cảnh Chân cho thấy GV và học HS nhận thức đúng đắn vai trò và ý nghĩa của việc dạy đổi mới PPDH trong bộ môn Ngữ văn, đặc biệt trong dạy họa bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung. Mặc dù vẫn còn gặp những khó khăn trong quá trình triển khai, việc rèn luyện kĩ năng, phát triển năng lực của HS vẫn chưa được chú ý đúng mức. Để việc đổi mới PPDH đạt hiệu quả cao, cần phải có sự đổi mới từ hình thức đến nội dung, phương pháp. Đồng thời, bản thân GV và HS cũng phải có ý thức trách nhiệm trong việc trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, đào sâu kiến thức, áp dụng các phương pháp dạy học kĩ thuật hiện đại vào trong dạy học bộ môn. Như vậy mới khơi dậy sự hứng thú, yêu thích của HS đối với môn Ngữ văn. Từ những lí do trên cho thấy, việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp và kĩ thuật dạy học là rất quan trọng và việc lựa chọn dạy học dự án bài kí “Ai đã 12
  17. đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là con đường phù hợp để nâng cao năng lực tự chủ, tự học trong học sinh. II. TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?” CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG THEO DỰ ÁN NHẰM PHÁT HUY NĂNG LỰC TỰ HỌC, TỰ CHỦ CHO HỌC SINH 1. Xác định rõ nguyên tắc dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhằm phát huy năng lực tự chủ, tự học cho HS. 1.1. Dạy học theo nguyên tắc tích hợp: Tích hợp nghĩa là liên kết các môn học hữu quan thành một chỉnh thể thống nhất, chống lại sự phân tán rời rạc, nhằm tạo thành lực để hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao nhất. Việc xác định nguyên tắc dạy học tích hợp đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường để thực hiện dạy học theo dự án. Tác giả sáng kiến lựa chọn các vấn đề tích hợp sau: a) Tích hợp nội bộ môn học - Là tích hợp những nội dung của các phân môn, các lĩnh vực nội dung thuộc cùng một môn học theo những chủ đề, chương, bài nhất định. Trong môn Ngữ văn, tích hợp trong nội bộ môn học là kết hợp dạy 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn trong cùng một bài dạy. - Các hợp phần của lí luận văn học, tác phẩm văn học và làm văn. - Các chuyên đề từ những đơn vị bài học có cùng chủ đề. Ví dụ: Tích hợp lí luận văn học trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường : + Khi đọc hiểu văn bản văn học, cần phải cho học sinh khai thác tác phẩm dựa trên đặc trưng thể loại – thể kí, nội dung và hình thức của tác phẩm, hình tượng nghệ thuật của tác phẩm, cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm, phong cách nghệ thuật…của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường . - Tích hợp lí luận văn học trong dạy làm văn + Giáo viên cần củng cố và rèn luyện cho học sinh kĩ năng đối sánh và cách tổ chức kiểu bài đối sánh. Chẳng hạn như: cho học sinh đối sánh vẻ đẹp Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân với vẻ đẹp Sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Tích hợp tiếng Việt trong đọc hiểu văn bản 13
  18. + Cho học sinh xử lí các đơn vị từ vựng, ngữ, câu. Đối với từ vựng, cần cho học sinh tìm từ thay thế để hiểu được sắc thái ý nghĩa của từ trong văn bản. Cụ thể khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường cần chú ý việc sử dụng từ ngữ, câu văn, xây dựng hình ảnh …của Phủ Ngọc Tường khi miêu tả vẻ đẹp Sông Hương xứ Huế. b) Tích hợp theo định hướng liên môn Là các môn học được liên hợp với nhau và giữa chúng có những chủ đề, vấn đề, những khái niệm lớn và những ý tưởng chung. Trong môn Ngữ Văn, tích hợp được thể hiện ở việc khai thác các kiến thức liên nghành xã hội để chuyển tải đơn vị kiến thức của bài học. Sau đây là một vài đề xuất về cấp độ tích hợp liên môn của người viết. *Văn - Sử: Mỗi tác phẩm văn học gắn với một giai đoạn lịch sử nhất định. Có ba bối cảnh lịch sử xã hội cần được nêu ra trong bài học: bối cảnh lịch sử xã hội của tác giả, bối cảnh lịch sử xã hội của tác phẩm và bối cảnh lịch sử xã hội của sự kiện và nhân vật được phản ánh trong tác phẩm. Dạy Ai đã đặt tên cho dòng sông?, cần phải đưa học sinh quay trở lại thời điểm 1981, từ đó thấy được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và nội dung sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như cảm nhận vẻ đẹp của mảnh đất cố đô – Huế. Đặc biệt là các giai thoại để lí giải về tên gọi của dòng sông – Hương giang. *Văn - Địa lí: Trong dạy học Ngữ văn, giáo viên cần tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh để lí giải và làm rõ một số chi tiết, hình ảnh nghệ thuật trong tác phẩm một cách hiệu quả. Với bài như Ai đã đặt tên cho dòng sông?, giáo viên cần cho học sinh xem hình ảnh, địa thế, dòng chảy… của dòng sông để thấy được thủy trình của sông Hương, từ đó khám phá vẻ đẹp của sông Hương. Thấy được tấm lòng trân trọng của tác giả dành cho quê hương đất nước, con người qua đó thấy được giá trị của việc bảo về thiên nhiên đất nước. *Văn - Âm nhạc: Từ bao giờ văn học và âm nhạc có mối duyên tình gắn kết hết sức tự nhiên. Vì vậy, trong dạy học Ngữ văn, thiết nghĩ, nếu giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt sự kết hợp này, chắc chắn bài học sẽ trở nên thú vị hơn hẳn. Khi dạy bài Ai đã đặt tên cho dòng sông?, giáo viên đã cho học sinh nghe bài hát Dòng sông ai đã đặt tên của tác giả Trần Hữu Pháp làm nội dung khởi động để tạo hứng thú cho học sinh tiếp nhận bài học. Qua nhạc phẩm “Dòng sông ai đã đặt tên” học sinh thấy được vẻ 14
  19. đẹp quê hương Việt Nam. Từ đó góp phần tác động đến tư tưởng tình cảm của học sinh, học sinh ý thức được niềm tự hào về vẻ quê hương và có ý thức trân trọng, bảo vệ. Thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng quê hương. *Văn - Triết: Trong triết học Ân Độ, triết học Chămpa cổ đại, sông nước là biểu tượng của vẻ đẹp nữ tính, vì vậy trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường khai thác và miêu tả vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ khác nhau, đặc biệt khi miêu tả hành trình sông Hương đến Huế người đọc có thể cảm nhận đó là hành trình của một cô gái kiếm tìm tình yêu. *Văn - điện ảnh: Thông qua những thước phim tư liệu về Sông Hương học sinh được trực quan, giúp học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức đã học, bổ sung nguồn tư liệu phong phú cho bài học. c) Tích hợp theo định hướng đa môn. - Các môn học là riêng biệt nhưng có những liên kết chủ đích giữa các môn học và trong từng môn bởi các chủ đề hay các vấn đề chung. - Dạy tích hợp theo hướng đa môn trong chương trình Ngữ văn có thể áp dụng với các tác phẩm văn học dân gian, đặc biệt là sân khấu dân gian. Cần kết hợp liên nghành với các nghành khoa học: mỹ học, văn hóa học, y học , hóa trang, sân khấu, vũ đạo, âm nhạc.... 1.2. Dạy học theo hướng tích cực - hướng dẫn Đọc để Tự chủ và tự học Cùng với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy đọc hiểu văn bản nói riêng, giáo viên bước đầu đảm bảo được các nguyên tắc dạy học tích cực, đó là: Lấy học sinh là trung tâm, luôn gắn liền lí thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Để phát huy tốt năng lực Tự chủ và tự học cho HS, GV cần hướng dẫn HS tự đọc văn bản để khám phá kiến thức. Có rất nhiều tài liệu, sách, báo, đặc biệt là sách giáo khoa HS cần đọc để học. Trong đó việc đọc trước sách giáo khoa sẽ tạo tiền đề cho việc tiếp thu kiến thức từ việc dạy học của GV, nó giúp HS biết một cách khái quát về nội dung sắp được học, phát hiện vấn đề từ đó có nhu cầu giải quyết vấn đề. Tuy nhiên phần lớn HS chưa biết cách đọc nên không thể đảm bảo đọc là đã học được. Trước hết GV cần giúp HS phân biệt được các mức độ đọc: - Mức không: nghĩa là HS chỉ thuần túy đọc và tin rằng sau đó lập tức sẽ hiểu ra. HS chỉ chăm chú làm sao đọc thật nhanh cho xong tài liệu này. 15
  20. - Mức bề mặt: HS đọc với thái độ thụ động, chỉ quan tâm đến: bao quát nội dung, các em đã đọc được bao nhiêu, tìm đúng được câu trả lời, học đúng nguyên văn. - Mức bề sâu: HS đọc với thái độ tích cực và quan tâm đến: nội dung trọng tâm, hiểu nội dung đó nói gì? Từ nội dung này rút ra đươc gì? Nó có liên quan đến cái gì? Những điểm chưa rõ cần đặt ra vấn đề? Đọc để học phải là một quá trình tích cực, Vậy làm cách nào để tận dụng cơ hội cho HS học được nhiều qua việc đọc? Câu hỏi này có thể trả lời bằng việc GV cần phải nêu yêu cầu và khuyến khích đọc bằng cách: - Đưa ra yêu cầu tìm kiếm một thông tin cụ thể từ cuốn sách đọc. - Đa dạng yêu cầu đối với các đối tượng học sinh khác nhau: thể hiện theo nhiều mức độ: biết, hiểu, thậm chí là vận dụng nội dung đã đề cập. .- Có thể yêu cầu một số nhóm đọc một số tài liệu khác nhau và sẽ trình bày trước tập thể lớp để trao đổi, bàn luận về một số vấn đề. Muốn thu được hiệu quả từ việc đọc, GV ngoài việc nêu ra yêu cầu cũng cần phải cho phép học sinh đọc với tốc độ của các em và rèn cho các em kĩ năng đọc: - Đọc khảo sát: đọc lướt cả tài liệu, chú ý nội dung và bố cục. - Đặt câu hỏi: trước khi đọc mỗi phần nên đặt ra các câu hỏi: Mình đang đọc gì? Cần rút ra điều gì ở phần này? Điều mới mẻ và thú vị ở đây? - Đọc nghiền ngẫm tài liệu và cố gắng trả lời từng câu hỏi đã đặt ra ở trên. - Cuối mỗi phần cần dừng lại để nhấn mạnh, ghi lại những điểm chủ yếu nhất hoặc những thắc mắc của người đọc. - Đọc xong cuốn sách hình dung lại toàn bộ bố cục, rút ra logic của tài liệu và đưa ra những nhận xét của bản thân về cuốn tài liệu. Tuy nhiên ý thức đọc để học của học sinh cũng rất quan trọng. Nhưng thực tế cho thấy rằng các em không có nhu cầu đọc nên không chủ động tiếp cận kiến thức. Để kích thích việc đọc một cách hiệu quả hơn tôi thường đặt ra thang điểm trong kiểm tra thường xuyên cụ thể là 2/10 điểm tùy theo mức đọc của học sinh từ 1 đến 1,5 điểm đạt được khi các em đọc ở mức bề mặt và 0,5 cho đọc ở mức sâu. Thang điểm này sẽ dần chuyển dịch tăng lên ở mức sâu sau thời gian rèn luyện kĩ năng đọc ở học sinh. Chẳng hạn như khi dạy học bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, GV yêu cầu học sinh đọc với mức độ sâu để gợi hứng thú nhập cuộc cho HS khi cảm thụ tác phẩm. HS căn cứ vào kết cấu của tác phẩm tự tìm ra 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2