Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
lượt xem 7
download
Đề tài hướng đến mục đích vận dụng phương pháp tích hợp nâng cao chất lượng dạy tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ ở chương trình lớp 11, qua đó góp phần cải tiến PPDH theo chương trình mới: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HOÀNG MAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ LĨNH VỰC: NGỮ VĂN NHÓM TÁC GIẢ: Nguyễn Thị Hà NĂM HỌC: 2021 – 2022 SỐ ĐIỆN THOẠI: 0985615300 1
- BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT TT : Thử nghiệm ĐC : Đối chứng GV : Giáo viên HS : Học sinh Nxb : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học SGK : Sách giáo khoa THPT : Trung học phổ thông THCS : Trung học cơ sở GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo 2
- PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện, trang bị kiến thức cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Để thực hiện được mục tiêu này, chương trình giáo dục phổ thông gồm nhiều môn học có nội dung và nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ phát triển toàn diện nhân cách HS đó cũng là biểu hiện quan trọng của chất lượng đào tạo phổ thông. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy các môn học nói chung cũng như Ngữ văn nói riêng, việc thực hiện đầy đủ các mục nhiệm vụ môn học, khai thác mối liên hệ giữa các môn chưa được quan tâm đúng mức. Điều đó dẫn đến chất lượng giáo dục chưa đạt hiệu quả cao mà biểu hiện cụ thể là năng lực vận dụng kiến thức vào thực tế, năng lực giải quyết vấn đề còn hạn chế. Để khắc phục hiện tượng này, ngành giáo dục Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học. Một trong những phương pháp đổi mới đem lại nhiều hiệu quả trong nhà trường hiện nay đó là phương pháp dạy học tích hợp. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp THCS. Trước đó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy. Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT. Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” (tr.27). “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.” (tr. 40). Phương pháp tích hợp cho phép GV có thể kết hợp nhiều kĩ năng trong một tiết dạy, vừa dạy kiến thức, vừa dạy kĩ năng sống, vừa dạy cách làm người. Không những thế, tích hợp còn là sự phối hợp nhiều môn khoa học hay các phân môn trong cùng một bộ môn để làm cho tiết học trở nên phong phú đa dạng và thu hút hơn đối với người tiếp nhận. Từ góc độ thực tiễn, tôi chọn tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử bởi đây là một tác phẩm thơ Mới tiêu biểu mang hơi hướng phong cách tượng trưng 3
- siêu thực của văn học phương Tây nên để thẩm thấu những tầng ý nghĩa ẩn sâu đằng sau thế giới ngôn từ nghệ thuật quả không hề đơn giản. Đó là những trang thơ thể hiện sự tài hoa cá tính, độc đáo của thi sĩ Hàn Mặc Tử được dệt nên bằng câu chữ tuyệt diệu với sự kết hợp hài hòa của chất nhạc, chất họa, cái tạng chất riêng khó lẫn của nhà thơ họ Hàn. Những vần thơ đa nghĩa gói trọn tâm tư, ẩn ức với những thế giới thơ đối lập mà thống nhất của một nhà thơ “tài hoa bạc mệnh”. Do vậy, việc “giải mã” tác phẩm cũng chính là đi tìm về vẻ đẹp đặc trưng của thơ Mới cũng như thơ tượng trưng Việt Nam đầu thế kỉ XX, là đi tìm về với cốt cách tài hoa nghệ sĩ của nhà thơ được Hoài Thanh mệnh danh là “lạ lùng” trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” và Chu Văn Sơn xem là hiện tượng “lạ nhất” của thơ Mới. Mặt khác, việc tìm hiểu và đưa ra một cách tiếp nhận đối với tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ sẽ có ý nghĩa nhất định đối với người dạy và người học. Bởi vì theo ý kiến của rất nhiều GV và HS thì tác phẩm này vừa “khó dạy” vừa “khó học”. GV và HS vốn quen thuộc với thơ nhưng còn khá lạ lẫm với thơ tượng trưng hiện đại. Do đó việc tìm hiểu và thưởng thức một tác phẩm thể loại này còn vấp phải những “rào cản” nhất định. Bởi vậy, để hiểu rõ những tầng ẩn nghĩa sâu xa của tác phẩm, giáo viên không những phải nắm bắt rõ đặc trưng thể loại mà còn phải biết vận dụng phương pháp tích hợp để giúp học sinh thẩm thấu sâu sắc giá trị cũng như nét độc đáo của tác phẩm. Hướng đến việc thực hiện được yêu cầu đó chính là một động lực khiến tôi nghiên cứu đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử”. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng đến mục đích vận dụng phương pháp tích hợp nâng cao chất lượng dạy tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ ở chương trình lớp 11, qua đó góp phần cải tiến PPDH theo chương trình mới: phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở học sinh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: HS lớp 11A3, 11A4 - Trường THPT Hoàng Mai, HS lớp 11A5, 11A6 - THPT Hoàng Mai 2. Các lớp này HS đều có đặc điểm tâm lí và khả năng tiếp thu tương đương nhau. - Phạm vi: Văn bản thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (Ngữ văn 11, cơ bản) 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về việc vận dụng phương pháp tích hợp trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và văn bản Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng của GV trường THPT Hoàng Mai và trường THPT Hoàng Mai 2. - Tiếp cận, soi chiếu tác phẩm từ nhiều góc độ như góc độ lí luận văn học, lí thuyết thi pháp thể loại, góc độ âm nhạc, hội họa, địa lí, lịch sử... để đổi mới cách dạy tác phẩm. Mặt khác, qua đề tài này với sự tích hợp cùng nhiều phân môn khác 4
- nhau từ lí luận văn học đến văn học sử…, tôi giúp HS có một cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về tác giả và tác phẩm nhằm tạo tiền đề vững chắc cho việc tiếp nhận văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Từ đó tôi muốn mang đến cho các em không khí lớp học sôi nổi, các em sẽ có hứng thú, tích cực, chủ động trong cách tiếp cận tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” nói riêng và các tác phẩm trong thơ mới nói chung - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài trong việc nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp quan sát - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê toán học, so sánh... - Phương pháp thực nghiệm sư phạm 6. Đóng góp của đề tài - Về mặt lí luận, đề tài góp phần tìm hiểu cơ sở lí luận của việc vận dụng phương pháp tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - Về mặt thực tiễn, đề tài bước đầu đề xuất cách thức tiến hành dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ theo phương pháp tích hợp nhằm nâng cao hiệu quả tiếp nhận tác phẩm cho HS 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài có các phần: 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2. Cơ sở của vấn đề nghiên cứu 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 4. Nguyên tắc vận dụng biện pháp tích hợp trong dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 5. Thực nghiệm sư phạm 6. Kết quả của việc ứng dụng sáng kiến 5
- PHẦN II. NỘI DUNG 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Có rất nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về văn bản Đây thôn Vĩ Dạ nhưng chủ yếu là đi sâu khai thác giá trị nội dung và thành công về nghệ thuật của tác phẩm. Cũng có một vài bài viết, công trình khoa đề cập đến cách tiếp cận bài thơ. Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng thực hành Tiếng Việt trong dạy đọc hiểu văn bản Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử của tác giả Lữ Thị Thanh Thủy đã khai thác mối quan hệ mật thiết giữa Tiếng Việt và văn chương làm cơ sở của việc tích hợp trong dạy học Ngữ văn. Tác giả cho rằng trong quá trình dạy đọc hiểu, GV phải biết vận dụng tri thức Tiếng việt như ngữ âm, từ vựng, cú pháp, phong cách hay biện pháp tu từ để giúp HS khám phá sâu sắc hơn ý nghĩa của văn bản, đồng thời giúp HS lưu giữ được những vẻ đẹp, những giá trị nhân văn sâu sắc mà văn chương nghệ thuật mang lại. Vì thế, khi dạy tác phẩm đây thôn Vĩ Dạ, tác giả bài viết chủ yếu tập trung khai thác giá trị nghệ thuật của các biện pháp tu từ trong bài thơ như: tư từ ngữ âm, tu từ về từ, tu từ về câu. Như vậy ở đề tài này tác giả có sử dụng phương pháp tích hợp nhưng chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ của tích hợp liên môn. Với sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy Đây thôn Vĩ Dạ từ lí thuyết kí hiệu học, tác giả Ngô Thị Trang đã hướng dẫn đọc hiểu văn bản dựa vào lí thuyết kí hiệu học. Cụ thể ở một số biệp pháp sau: - Đọc và phát hiện các loại tín hiệu, biểu tượng và các cấp độ tín hiệu trong văn bản thơ là bước đầu tiên của diễn giải giúp HS có căn cứ khoa học trong việc phân tích, cảm thụ văn chương. Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc giúp cho việc cắt nghĩa, lí giải sâu sắc thuyết phục hơn ý nghĩa của tác phẩm. - Tìm hệ quy chiếu của cái biểu đạt, biểu tượng. Theo tác giả, tác phẩm văn học phản ánh hiện thực khách quan trong mối quan hệ với hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa. Do vậy, kí hiệu trong tác phẩm có cội nguồn đa dạng, gợi người đọc liên tưởng đến nhiều mối quan hệ đa chiều. Các kí hiệu trong tác phẩm như là tia hồi quang phản ánh các hệ quy chiếu đa dạng. Vì vậy, khi dạy bài thơ, tác giả bài viết đã sử dụng hệ quy chiếu từ người sáng tạo (thời đại và con người Hàn Mặc Tử), hệ quy chiếu từ văn hóa, hệ quy chiếu từ vốn sống vốn trải nghiệm của bản thân người đọc. Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát huy năng lực của HS trong bài dạy Đây thôn Vĩ Dạ của Thu Trang - Trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình đã vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ. Tác giả đã sử dụng một số hình thức dạy học như: đọc diễn cảm - sáng tạo, phương pháp vấn đáp gợi mở, thảo luận nhóm, trình bày một phút, bình giảng, sơ đồ tư duy,... 6
- Các công trình, bài viết ở trên đã đưa ra những phương pháp đổi mới trong dạy học tác phẩm Đây thôn vĩ Dạ nhưng chưa có bài viết nào khai thác tối ưu lợi thế của phương pháp tích hợp trong dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Tuy nhiên, những đề xuất trên sẽ là một gợi ý cho tôi trong việc thực hiện đề tài Vận dụng phương pháp tích hợp nâng cao hiệu quả trong dạy học tác phẩm Đây Thôn vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 2. Cơ sở khoa học của đề tài 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Dạy học tích hợp - nhu cầu tất yếu trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở nhà trường hiện nay Khái niệm tích hợp (integration) được hiểu là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Trong thực tế có khá nhiều loại tích hợp như tích hợp theo phân môn, đa môn và xuyên môn. Người giáo viên phải biết lồng ghép kiến thức nhiều phân môn, nhiều môn để tạo sự phong phú cho bài dạy. Khái niệm dạy học tích hợp là quan điểm dạy học nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết có hiệu quả những vấn đề thực tiễn. Theo đó GV sẽ lồng ghép những nội dung giáo dục vào các môn học có sẵn, thông qua các hoạt động học tập do GV tổ chức và hướng dẫn, HS không chỉ biết cách thu thập, chọn lọc và xử lí thông tin mà còn chủ động nêu nên vấn đề vận dụng các kiến thức và kĩ năng vào giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn cuộc sống. Như vậy việc dạy học tích hợp xuất phát từ yêu cầu đưa HS trở thành đối tượng trung tâm trong giờ học cũng như trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Dạy học tích hợp thực sự là một phương pháp đem lại hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy ở trương THPT hiện nay 2.1.2. Nguyên tắc dạy học tích hợp Mục đích của dạy học tích hợp là để hình thành và phát triển năng lực HS, giúp HS vận dụng để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn của cuộc sống. Bản chất của năng lực là khả năng của chủ thể kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức hợp lí các kiến thức, kĩ năng với thái độ, giá trị, động cơ, nhằm đáp ứng những yêu cầu phức hợp của một hoạt động, bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả tốt đẹp trong một bối cảnh (tình huống) nhất định và phương pháp tạo ra năng lực đó chính là dạy học tích hợp. Dạy học tích hợp có những đặc điểm sau đây: - Thiết lập các mối quan hệ theo một logic nhất định những kiến thức, kĩ năng khác nhau để thực hiện một hoạt động phức hợp. 7
- - Lựa chọn những thông tin, kiến thức, kĩ năng cần cho HS thực hiện được các hoạt động thiết thực trong các tình huống học tập, đời sống hàng ngày, làm cho HS hòa nhập vào thế giới cuộc sống. - Làm cho quá trình học tập mang tính mục đích rõ rệt. - GV không đặt ưu tiên truyền đạt kiến thức, thông tin đơn lẻ, mà phải hình thành ở HS năng lực tìm kiếm, quản lí, tổ chức sử dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong tình huống có ý nghĩa. - Khắc phục được thói quen truyền đạt và tiếp thu kiến thức, kĩ năng rời rạc làm cho con người trở nên "mù chữ chức năng", nghĩa là có thể được nhồi nhét nhiều thông tin, nhưng không dùng được. Như vậy, dạy học tích hợp là cải cách giảm tải kiến thức không thực sự có giá trị sử dụng, để có điều kiện tăng tải kiến thức có ích. Để lựa chọn nội dung kiến thức đưa vào chương trình các môn học trước hết phải trả lời kiến thức nào cần và có thể làm cho HS biết huy động vào các tình huống có ý nghĩa. Biểu hiện của năng lực là biết sử dụng các nội dung và các kỹ năng trong một tình huống có ý nghĩa, chứ không ở tiếp thụ lượng tri thức rời rạc. 2.1.3. Dạy học tích hợp môn Ngữ văn Theo Chương trình Ngữ văn, dạy học tích hợp đòi hỏi GV Ngữ văn trước hết phải thấy được mối liên hệ nội môn (đọc, viết, nói và nghe). Theo đó nội dung dạy đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà HS tích lũy được trong quá trình tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nghe và nói tốt hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt HS học được trong quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết. Những điều học được khi đọc và viết sẽ được học sinh dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội môn, trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn phải biết tận dụng các cơ hội để lồng ghép một cách nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Nghệ thuật) và những nội dung giáo dục ưu tiên xuyên suốt toàn chương trình giáo dục phổ thông (chủ quyền quốc gia, hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, quyền con người, quyền trẻ em, bình đẳng giới, giáo dục tài chính,... ). Tất nhiên, dạy học tích hợp còn gắn liền với các hoạt động nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đa dạng hóa các phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện dạy học mang tính đặc thù của môn học, sao cho khi kết thúc mỗi cấp lớp, học sinh đạt được các yêu cầu cần đạt mà chương trình đã đề ra. Trên cơ sở đó có thể thấy, phạm vi tích hợp trong giờ dạy Ngữ văn rất phong phú: có thể tích hợp nội môn (giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn hay giữa những bài học có cùng chủ đề); có thể tích hợp liên môn Văn - Lịch sử (mở rộng theo hướng vận dụng những kiến thức về hoàn cảnh lịch sử - xã hội, thời đại, 8
- về nhân vật lịch sử... để lí giải lịch sử phát sinh, khai thác giá trị về nội dung và nghệ thuật, thành công và hạn chế của tác phẩm); tích hợp Văn - Địa lí (theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh, thổ nhưỡng, khí hậu để lí giải rõ chi tiết về thiên nhiên, hình tượng nhân vật,…); tích hợp Văn - Mĩ thuật (có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa về một số hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm: thiên nhiên, con người,…); tích hợp Văn - Nghệ thuật (hát, ngâm thơ, diễn kịch, sân khấu hóa)… Dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông (PowerPoint, videoclip, tranh ảnh và các phần mềm ứng dụng khác), qua kênh hình trình chiếu của giáo viên, học sinh sẽ tiếp cận được những hình ảnh trực quan sinh động, đầy màu sắc và ấn tượng… 2.2. Cơ sở thực tiễn Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã dự giờ và đi sâu khảo sát, điều tra tình hình dạy học phân môn Văn của GV và HS ở các trường THPT trên địa bàn thị xã Hoàng Mai (Phụ lục 2). Kết quả khảo sát như sau: Về phía giáo viên: Ngoài những tiết thao giảng, dạy học chủ đề, nghiên cứu bài học có sự đóng góp ý kiến của cả tổ chuyên môn thì phần lớn những tiết học đọc - hiểu văn bản hiện nay chủ yếu giáo viên sử dụng câu hỏi phát vấn, đàm thoại và thuyết giảng. Giáo viên ít sử dụng câu hỏi khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng; câu hỏi nêu vấn đề kích thích năng lực sáng tạo của học sinh. Đặc biệt, phương pháp dạy học tích hợp chưa được vận dụng hiệu quả. Chúng tôi đã khảo sát GV trên cả hai Trường THPT Hoàng Mai và Trường THPT Hoàng Mai 2. Khi được hỏi về mức độ quan tâm đến việc vận dụng phương pháp tích hợp trong dạy học văn bản văn học, số GV quan tâm và rất quan tâm là 16/19 (chiếm 84,2%), số GV không quan tâm chỉ 3/19 (chiếm 15,8%). Có 19/19 GV (chiếm 100%) xác nhận việc vận dụng phương pháp tích hợp trong dạy học có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Dù đa số GV xác định được tầm quan trọng của việc vận dụng phương pháp tích hợp trong dạy học song trên thực tế GV vận dụng phương pháp này còn rất ít chỉ có 4/19 (chiếm 21%); có 5/19 GV (chiếm 26,3%) sử dụng câu hỏi gợi mở. Có 13/19 GV (chiếm 68,3%) giảng cho HS nghe. Về phía học sinh: học sinh học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng đọc hiểu văn bản thơ mới, không thể đọc hiểu những văn bản tương tự; chưa biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống; thiếu sáng tạo và không biết cách tự học; thiếu động cơ học tập. Khả năng tiếp nhận tác phẩm của học sinh còn hạn chế, học sinh chưa phát hiện và lí giải được những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, chưa thấy được sự thống nhất nội dung và hình thức biểu hiện của văn bản, không biết tìm kiếm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết. Kĩ năng nói, viết, trình bày vấn đề còn yếu. 9
- Chúng tôi đã khảo sát 170 HS trên cả 4 lớp thực nghiệm. Khi được hỏi nhận xét của em về các giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trên lớp số học sinh rất hứng thú và ít hứng thú chiếm tỉ lệ ít ỏi 50 em (chiếm 29,4%), ngược lại tỉ lệ học sinh không hứng thú là 120 em (chiếm 76,5%). Có 116 em (chiếm 68,2%) muốn giáo viên giảng bài và ghi chép, có 34 em (chiếm 20%) muốn giáo viên đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt cụ thể, có 20 em (chiếm 11,8%) mong muốn giáo viên cho học sinh được tự do thể hiện ý kiến. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng trên? Thứ nhất từ phía GV: Do áp lực thi cử, một số giáo viên chạy theo thành tích khiến cho một tiết đọc hiểu văn bản trở thành một tiết “giảng văn”. Cô say sưa với bài giảng của mình, thuyết giảng tất cả vốn hiểu biết của mình về tác phẩm cho học sinh nghe, ghi chép. Học sinh nghe thì thấy hay nhưng nghe xong thì dễ quên ngay. Văn chương thể hiện cái tôi rất rõ, bởi thế học sinh không thể nhớ nguyên xi lời văn của thầy cô dù các em có cố gắng bắt chước, học thuộc lòng. Giáo viên chưa thay đổi quan niệm về người học và việc đánh giá người học; chưa thực sự chú ý đến nhu cầu, mong muốn, hứng thú của các em; chưa khuyến khích học sinh tìm tòi, sáng tạo; sự tương tác giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh còn hạn chế. Về phía học sinh: Hứng thú học môn Ngữ văn của học sinh vẫn là chuyện “Biết rồi, khổ lắm…” bởi xu thế hiện nay học sinh chỉ học bộ môn để đối phó, hoặc để thi cử… rất ít tìm được học sinh học môn Ngữ văn với niềm đam mê. Ở nhiều nhà trường, Ngữ văn vẫn là môn bị học sinh kêu ca, là môn học “buồn ngủ”, đem lại cảm giác “sợ” cho đa số học sinh. Qua kiểm tra và đánh giá trên cơ sở thường xuyên và định kì cho thấy một số em nắm nội dung bài học một cách sơ sài, qua loa. Giáo viên ghi bảng thế nào, các em trả lời nguyên như thế. Nếu hỏi lật ngược vấn đề tại sao em hiểu như vậy thì các em không thể giải thích được. Về phía tác phẩm: Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiên phong trong việc cách tân thi pháp của thơ Mới. Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới đa dạng, nhiều màu sắc. Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ Mới những sáng tạo độc đáo, những hình tượng ngôn từ đầy ấn tượng, gợi cảm giác liên tưởng và suy tưởng phong phú. Ngoài bút pháp lãng mạn, nhà thơ còn sử dụng bút pháp tượng trưng và yếu tố siêu thực. Tiếp cận với thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử là cảm nhận được tính hàm súc, mới lạ của ngôn từ, hình ảnh thơ; tính đa nghĩa, tạo sinh của văn bản thơ; tính điêu luyện trong cách tổ chức, cấu trúc tác phẩm và tính mơ hồ, khó hiểu. Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm thơ mang đậm dấu ấn thơ Mới hiện đại được đưa vào nội dung giảng dạy Ngữ văn 11, THPT chương trình mới. Và nó nhanh chóng trở thành một trong những bài học trọng tâm để học sinh tiếp nhận. Học sinh còn lạ lẫm với những sáng tác nghệ thuật theo thể tượng trưng. Giáo 10
- viên thì phải tự tìm tư liệu để lĩnh hội thấu đáo tác phẩm, lại phải tìm cách diễn đạt sao cho thật dễ hiểu đối với học sinh. Từ thực tế trên, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ là cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường. 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 3.1. Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học Để có một bài giảng hoàn chỉnh và hấp dẫn lôi cuốn, học sinh tiếp nhận tác phẩm một cách chủ động sáng tạo thì khâu chuẩn bị được xem như một phần quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, trước khi dạy văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” chúng tôi đưa ra một số cách để học sinh chuẩn bị bài như sau: 3.1.1. Biện pháp thứ nhất: Giao cho học sinh trả lời một hệ thống câu hỏi bám sát sách giáo khoa đồng thời lồng vào các câu hỏi mở Ở biện pháp này, chúng tôi chuẩn bị hệ thống câu hỏi có gợi ý chi tiết ở tất cả các hoạt động của bài dạy. Phần tìm hiểu chung gồm các câu hỏi sau: - Hãy tìm và chỉ ra những nét tiêu biểu trong cuộc đời Hàn Mặc Tử để làm rõ số phận tài hoa bạc mệnh của Hàn Mặc Tử? - Thời đại xã hội và cuộc đời nhà thơ đã ảnh hưởng thế nào đến phong cách thơ Hàn Mặc Tử? - Cho biết hoàn cảnh ra đời của tác phẩm? Có nên cột chặt ý nghĩa của hoàn cảnh ấy vào câu chuyện riêng tư cũng như vào một địa danh hẹp là chốn Vĩ Dạ, sông Hương khi tìm hiểu tác phẩm? Phần tìm hiểu văn bản gồm các câu hỏi: Khổ 1: - Mở đầu bài thơ là một câu hỏi. Em hãy cho biết đó là câu hỏi của ai? Giọng điệu hỏi như thế nào? Ý nghĩa của lời hỏi? - Bức tranh thiên nhiên trong hoài niệm của Hàn Mặc Tử hiện lên như thế nào? - Em có nhận xét gì về thiên nhiên và con người thôn Vĩ ở khổ thơ này? Qua đó, em cảm nhận như thế nào về tâm trạng của thi nhân? Khổ 2 - Bức tranh thiên nhiên khổ 2 có gì khác biệt với khổ 1? 11
- - Thiên nhiên ở hai câu thơ đầu được miêu tả như thế nào? Thể hiện tâm trạng gì của tác giả? - Hình ảnh bến trăng sông trăng gợi cho em cảm nhận gì về vẻ đẹp thiên nhiên? Đằng sau phong cảnh ấy là tâm sự gì của nhà thơ? Khổ 3: Cảm nhận tâm trạng của thi nhân ở khổ thơ thứ 3? Câu hỏi gợi: - Em hãy nhận xét cách ngắt nhịp câu thơ "Mơ khách đường xa, khách đường xa"? "Khách đường xa" là ai? Tác dụng của điệp ngữ "khách đường xa" - Em có nhận xét gì về cách miêu tả hình ảnh người con gái trong câu thơ "Áo em trắng quá nhìn không ra"? - "Sương khói mờ nhân ảnh" là hình ảnh thực hay mơ? + Em có nhận xét gì về đại từ phiếm chỉ “ai”? "Ai" lặp lại hai lần nhằm mục đích gì? Phần luyện tập và vận dụng: Do dung lượng về thời gian chỉ vẻn vẹn trong hai tiết dạy, HS không thể trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại lớp. Vì vậy, phụ thuộc vào năng khiếu của HS, tôi đã giao cho các em chuẩn bị trước một số nội dung như viết đoạn văn, vẽ tranh cảm nhận vẻ đẹp thôn Vĩ. 3.1.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp với công nghệ thông tin hướng dẫn các em tìm tài liệu tham khảo trên mạng internet để bổ trợ kiến thức Thời đại công nghệ thông tin là thời đại cho phép HS không chỉ chuẩn bị bài bằng sách vở mà còn có thể mở rộng vốn hiểu biết của mình bằng cách tìm hiểu thông tin trên mạng. GV khuyến khích mỗi học sinh về tìm hiểu thêm các kiến thức bổ sung như: về thơ Mới, thơ tượng trưng, thơ siêu thực, vẽ tranh (nếu lớp có Hs vẽ đẹp) và nêu những nét khái quát về Sông Hương và thôn Vĩ Dạ (thuộc thành phố Huế); tìm hiểu về bối cảnh thời đại hình thành thơ mới; tìm hiểu vẻ đẹp đặc trưng về tâm hồn, tính cách của người Huế…. Tôi xem đây là một nhiệm vụ, cũng là một cơ hội để học sinh có thể nhận điểm số cao khi trả lời câu hỏi bổ sung những kiến thức thêm về tác giả, tác phẩm. 3.2. Tích hợp trong quá trình hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản tác phẩm 3.2.1 Biện pháp thứ nhất: Tích hợp với kiến thức phân môn * Tích hợp với Lý luận văn học: Hành trình tiếp nhận “đứa con tinh thần” của mỗi nhà văn là một hành trình khám phá thú vị nhưng cũng đòi hỏi người đọc có những định hướng tiếp nhận phù hợp dựa vào đặc trưng thể loại của tác phẩm. Để giúp học sinh dễ hiểu hơn và hứng 12
- thú hơn trong quá trình khám phá tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ, tôi sẽ vận dụng các kiến thức từ phân môn lý luận văn học để cung cấp cho các em những kiến thức lý luận chung nhất nhằm tạo “bước đệm” trước khi tìm hiểu tác phẩm. Khi hướng dẫn HS tìm hiểu về thể thơ, tôi đặt ra câu hỏi: Trình bày hiểu biết về thơ tượng trưng siêu thực phương Tây, ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực đến thơ Mới nói chung và thơ Hàn Mặc Tử nói riêng. Từ việc tìm hiểu kiến thức trên, HS sẽ thấy được sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng siêu thực đã tạo nên phong cách thơ độc lạ của Hàn Mặc Tử. Thơ tượng trưng, siêu thực - Ra đời khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở phương Tây. - Đi đầu là Bô đơ le, Rim bau, Breton... - Đặc điểm: + Sáng tác tự động: nhà văn ghi lại lập tức từ ngữ, hình ảnh, dòng ý tưởng chợt xuất hiện trong đầu trong trạng thái nửa thức nửa tỉnh, sáng tạo trong trạng thái “nhập đồng”. + Xây dựng hình ảnh siêu thực: Đó là sự xích lại gần nhau của “hai hiện thực cách quãng” (Pierre Reverdy), là những “va đập chói lòa của từ ngữ”. + Tính nhạc trong thơ: “thơ là sự tái hiện những nhịp điệu, những tương ứng, sự hòa âm của vạn vật và tâm hồn con người tạo thành một thế giới thống nhất về âm thanh” . Thơ Mới - Ra đời vào đầu thế kỉ XX, chịu ảnh hưởng từ thơ lãng mạn Pháp - Nội dung: + Đề cao ý thức bản ngã và là tiếng nói mạnh mẽ của cái tôi cá nhân đòi quyền sống, quyền hạnh phúc. + Thể hiện lòng yêu đời, yêu sống nhưng bế tắc. + Bộc bạch tình yêu nước thầm kín + Đề tài quen thuộc: thiên nhiên, tình yêu và tôn giáo. - Nghệ thuật: phá vỡ hàng rào thi pháp trung đại hướng tới lối viết cách tân mới mẻ, sống động, lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp cuộc sống. Thơ Mới mang đặc điểm rõ nét của thơ tượng trưng, siêu thực phương Tây. Ảnh hưởng thơ tượng trưng siêu thực đến thơ Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực. Trong thơ Hàn, nhiều bài thơ mang khuynh hướng siêu thoát vào thế giới siêu nhiên, tôn giáo, nhưng đó là hình chiếu ngược của khát vọng sống, khát vọng giao cảm với đời. Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh 13
- liệt đến đau đớn tột cùng. Một số bài thơ cuối đời của thi sĩ họ Hàn còn đan xen những hình ảnh ma quái – dấu ấn của sự đau đớn, giày vò về thể xác lẫn tâm hồn. Đó là sự khủng hoảng tinh thần, bế tắc và tuyệt vọng trước cuộc đời. * Tích hợp với văn học sử Trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, tôi tích hợp với văn học sử để đối sánh tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử với các nhà thơ khác nhằm tìm ra “tạng chất” riêng ở thi nhân. Để thấy sự khác biệt trên, tôi yêu cầu HS tìm hiểu so sánh sự thống nhất và khác biệt giữa thơ Hàn Mặc Tử với thơ truyền thống; thơ Hàn Mặc Tử với các nhà thơ lãng mạn như Huy Cận, Xuân Diệu. - So sánh Thơ Hàn Mặc Tử và thơ truyền thống (cái nhìn lịch đại) Tiêu chí Thơ truyền thống Thơ Hàn Mặc Tử Giống - Đều thể hiện được tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua nhau giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm thơ. - Đều sử dụng một số thi liệu truyền thống quen thuộc như trăng, dòng sông, gió mây.... Khác nhau + Chủ yếu là thơ nói chí, tỏ lòng, +Thể hiện được lòng yêu Về nội thể hiện được tinh thần yêu nước, đời, lòng yêu nước thầm dung: lòng tự hào, tự tôn dân tộc, chủ nghĩa kín của thi nhân. anh hùng. + Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên + Con người là chuẩn mực làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp. của mọi vẻ đẹp. + Cái tôi cá nhân không được + Tái hiện được nhiều góc thể hiện trong các tác phẩm. khuất trong tâm hồn con người không còn bó hẹp như văn học trung đại. + Ý thức bản ngã, cái tôi cá nhân được thể hiện một cách rõ ràng, được đề cao. Khác nhau + Tính quy phạm chặt chẽ + Thoát khỏi hệ thống ước Về hình + Hệ thống ước lệ phức tạp, lệ phức tạp, thế giới hình thức nghiêm ngặt. ảnh thơ mới mẻ, đầy sức sống. + Tính hàm súc cao: lời ít, ý nhiều 14
- +Thể thơ: Thất ngôn bát cú + Cách tân nhiều thể thơ đường luật, lục bát, song thất lục bát, truyền thống và sáng tạo ra … các thể thơ tự do. +Nhiều hình ảnh độc đáo đan cài giữa thực và ảo. - So sánh thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận (những đỉnh cao của phong trào thơ Mới) để thấy nét riêng của thơ Hàn Mặc Tử Tiêu chí Xuân Diệu Huy Cận Hàn Mặc Tử Giống - Đều là các nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới 1932-1945. Nhau - Đề cao cái tôi yêu đời, yêu sống nhưng không tránh khỏi nỗi cô đơn, bế tắc của cái tôi thơ Mới với ý thức bản ngã sâu sắc. - Giàu tình yêu quê hương, đất được thể hiện một cách thầm kín. - Chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng, siêu thực của văn học Pháp. - Thế giới hình ảnh vừa kế thừa yếu tố cổ điển của văn học truyền thống vừa đầy sáng tạo, cách tân mới lạ. - Ngôn ngữ tinh tế, giàu xúc cảm, đậm chất nhạc, chất họa. Khác Xuân Diệu Huy Cận Hàn Mặc Tử nhau Nội dung - Thơ Xuân Diệu là - Tình yêu đời ẩn kín - Tình yêu đời đến tiếng nói yêu đời sau nỗi buồn sầu cô đau đớn quằn quại, đến rát bỏng, cuồng đơn ảo não với nỗi ám ảnh bởi nỗi đau nhiệt và đôi lúc băn buồn tự vạn cổ dồn về thân phận và mặc khoăn, hoài nghi. của một cái tôi bế tắc cảm bệnh tật. trước cuộc đời Nghệ - Ám ảnh thời gian - Khắc khoải không - Ám ảnh “hồn và thuật gian. trăng” - Thế giới hình ảnh - Đối lập giữa hai thế - Đối lập giữa hai thế thơ sống động tươi giới: thế giới vũ trụ giới: một bên ma non, biếc rờn, có đôi rộng lớn vô hạn và thế quái, điên loạn một có cặp. giới con người nhỏ bé bên trong trẻo, thanh hữu hạn. khiết; có sự đan cài giữa hai cõi thực và mộng. - Hình ảnh tiêu biểu - Với Hàn Mặc Tử “trăng” với thơ “trăng” là sự giao 15
- Xuân Diệu là biểu - Hình ảnh “trăng”ít thoa, hoà hợp với tượng của cái đẹp xuất hiện trong thơ người, thậm chí nhà thuần tuý, trăng là Huy Cận bởi Huy Cận thơ còn hoá thân vào đối tượng, là khách ám ảnh bởi nỗi buồn trăng, rao bán trăng. thể. trường cửu . Vị trí Nhà thơ mới nhất Nhà thơ ảo não nhất Nhà thơ lạ nhất 3.2.2. Biện pháp thứ hai: Tích hợp kiến thức liên môn để thấy được vẻ đẹp phong phú của bức tranh Vĩ Dạ và tâm hồn thi nhân * Tích hợp với lịch sử Để HS có cơ sở cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc hơn, GV cần giúp HS hiểu được cuộc đời riêng và thời đại xã hội của nhà thơ bởi “Thơ là tiếng lòng”, là dấu ấn tư tưởng tình cảm riêng của người nghệ sĩ, còn người nghệ sĩ là thư kí trung thành của trái tim; thơ xuất phát từ tấm lòng, tâm hồn người viết. (Nguyễn Đình Thi). Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình. Thơ Mới cũng mang trong mình âm vang thời đại, nỗi buồn của thế hệ yêu nước nhưng bất lực trước thời thế. Cái tôi trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn“ Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận...” (Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Buồn và cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không phải là hiện tượng lạ mà do nguyên nhân khách quan chung. Họ không biết phải làm gì và đi theo hướng nào trong xã hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội. Và để giải tỏa tâm trạng đó, họ tìm đến với thơ và thể hiện theo nhiều cảm xúc khác nhau. Thơ mới theo chủ nghĩa lãng mạn, với cảm hứng thiên nhiên và trữ tình làm chủ đạo, song không vì vậy mà bỏ rơi thời đại. Thơ mới thể hiện tình yêu đất nước của các nhà thơ lúc bấy giờ. Các bài thơ đậm tính dân tộc thể hiện tấm lòng của những 16
- con người Việt Nam trước thời buổi nước mất nhà tan. Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đánh giá Phong trào thơ mới, Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa” ... “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm” Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu trong phong Trào thơ Mới. Đâу thôn Vĩ Dạ là tác phẩm xuất sắc của thi nhân - được trích trong tập Thơ điên. Khi ѕáng tác bài thơ nàу, Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, ông đang phải chịu đựng những cơn đau giằng хé từ căn bệnh phong hàn. Thế nhưng khi đọc Đâу thôn Vĩ Dạ người đọc như hòa ᴠào một thế giới khác, nơi ấу không phải lời kêu than của một người đang lâm bệnh nặng mà ở đó là một tâm hồn уêu thương thiên nhiên, уêu thương con người da diết. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên tuуệt mĩ, một hồn thơ nặng tình, là góc nhìn mới mẻ nơi хứ Huế. Tác giả đã đem đến cho người đọc những ᴠần thơ đầу хúc cảm, một ᴠẻ đẹp thấm đượm nỗi buồn của хứ Huế. Để giúp HS hiểu rõ về con người cũng như phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử, chúng tôi đã tích hợp với kiến thức môn lịch sử. Cụ thể chúng tôi đặt ra các câu hỏi gợi mở: - Nêu hoàn cảnh ra đời và đặc điểm thơ Mới? - Bi kịch trong cuộc đời của Hàn Mặc Tử? - Những yếu tố đó đã tác động như thế nào đến phong cách sáng tác của nhà thơ? Từ việc trả lời các câu hỏi đó, các em sẽ lí giải được tại sao đọc những trang thơ của Hàn Mặc Tử ta bắt gặp một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh, yêu con người đến khát khao, cháy bỏng; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. * Tích hợp với kiến thức địa lí Khi giảng dạy tác phẩm, để giúp học sinh hình dung rõ nét hơn về thôn Vĩ Dạ và xứ Huế, chúng tôi đã giao cho các em tìm hiểu trước kiến thức về địa lí xứ Huế. HS sử dụng bản đồ xứ Huế và hình ảnh thôn Vĩ Dạ, sông Hương- địa danh được nhắc đến trong tác phẩm để trình bày trước lớp. Từ những kiến thức này, học sinh sẽ dễ liên tưởng đến các hình ảnh trong tác phẩm nhằm khai thác hiệu quả giá trị nghệ thuật của từng câu chữ, hình ảnh. * Thôn Vĩ Dạ - Thuộc huyện Phú Vang, Huế. 17
- - Nguồn gốc địa danh Vĩ Dạ do hai chữ Vi Dã đọc chệch ra. Về ý nghĩa, “Vi” là lau lách, “Dã” là đồng nội, là cánh đồng. Vậy “Vi Dã” có nghĩa là cánh đồng lau lách. - Ở làng Vĩ Dạ, mỗi nhà là một biệt thự với kiến trúc nhà vườn đặc trưng, có cây cảnh, hòn non bộ, vườn nuôi chim chóc, trông rất đẹp mắt. Vỹ Dạ có phong cảnh nên thơ, có dòng sông xanh, có những thiếu nữ thướt tha duyên dáng, những chàng trai phong nhã, đa tình và là đề tài cảm hứng cho các thi nhân. * Sông Hương: - Sông Hương thuộc miền Trung Việt Nam. Sông có hai dòng chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn huyền thoại và khi về đến đồng bằng, nó không chảy qua nhiều địa phương mà nằm gọn gàng trong lòng một thành phố duy nhất, Thừa Thiên - Huế. Thủy trình hơn 80 km của sông Hương xưa nay luôn là điều hấp dẫn không chỉ với các nhà địa lí mà còn cả với những nghệ sĩ say mê cái đẹp. Đoạn sông chảy qua Huế uốn lượn hiền hòa như dải lụa của tự nhiên nhằm tôn thêm vẻ kiều diễm cho thành phố Huế. Bản đồ xứ Huế, thôn Vĩ Dạ và vẻ đẹp sông Hương được HS sử dụng khi thuyết trình 18
- * Tích hợp với kiến thức văn hóa: Thơ Hàn Mặc Tử bên cạnh chất thơ bay bổng bao giờ cũng thấm đẫm chất văn hóa, chất Huế đậm nét. Bởi vậy, khi giảng dạy tác phẩm, giáo viên phải giúp học sinh hiểu sâu hơn về văn hóa xứ Huế nhằm giúp các em thấy được linh hồn văn hóa xứ sở được gửi gắm trong bài thơ. Để làm được điều đó, chúng tôi định hướng cho HS tìm hiểu kiến thức văn hóa của mảnh đất cố đô làm cơ sở cảm nhận hình ảnh thơ. Trong tác phẩm, có hai hình ảnh gợi vẻ đẹp văn hóa xứ Huế. Hình ảnh thứ nhất tái hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế qua câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Để HS cảm nhận được vẻ đẹp đó, GV đặt ra câu hỏi: “Với hiểu biết về văn hóa xứ Huế, em hiểu như thế nào về câu thơ Lá trúc che ngang mặt chữ điền”? Qua tìm hiểu, HS biết được về tính cách, vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế. Người Huế giản dị, chân thành đặc biệt là người con gái Huế luôn dịu dàng, kín đáo, nhẹ nhàng, thâm trầm mà không kém phần sâu sắc. Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực. Nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng mang vẻ đẹp phúc hậu đậm chất Á Đông. Có thể nói, thi nhân rất hiểu con người xứ Huế, hiểu cái sâu sắc ẩn kín bên trong họ để có được những câu thơ giàu ý nghĩa đến vậy. Hình ảnh thứ hai xuất hiện trong bài thơ là tà áo dài truyền thống - một nét đẹp văn hóa vốn có từ lâu đời của mảnh đất cố đô. Nét văn hóa ấy được gợi ra qua hình ảnh: Áo em trắng quá nhìn không ra. Ở hình ảnh thơ này, GV đặt ra câu hỏi: Em có nhận xét gì về cách miêu tả hình ảnh người con gái trong câu thơ Áo em trắng quá nhìn không ra? HS phát hiện hình ảnh người con gái được miêu tả theo mức độ tăng tiến: áo trắng- trắng quá- nhìn không ra để cực tả sắc trắng. Đó là hình ảnh biểu tượng cho trong trắng, tinh khôi của người con gái xứ Huế, đồng thời đó còn là sắc trắng trong tâm tưởng của nhà thơ. Vẻ đẹp của thiếu nữ Huế trong tà áo dài 19
- * Tích hợp với hội họa Tính hình tượng và tính phi vật thể của chất liệu ngôn từ giúp cho tác phẩm văn học có thể tác động vào trí tưởng tượng của người đọc, tái tạo trong tâm trí họ những bức tranh tâm tưởng được “mã hóa” dưới lớp vỏ ngôn từ mà nhà thơ gửi gắm. Không chỉ là thể hiện từng màu, mà còn có thể là sự phối hợp của nhiều màu tạo thành chỉnh thể thẩm mỹ hài hòa từ đường nét đến hình khối. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tổ hợp của bốn bức tranh tâm trạng với những sắc thái khác nhau được tạo nên với những ngôn từ nghệ thuật. Đó là một bức tranh vườn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm tinh khôi, với một vẻ đẹp đầy sức sống, tươi tắn: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Đó là bức tranh tuyệt đẹp tràn ngập màu sắc và ánh sáng. Những chi tiết trong tranh cũng đậm tính hội họa. Đó còn là bức tranh chia lìa của thiên nhiên, của mây và gió. “Gió theo lối gió mây đường mây/ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Nhịp thơ 3/4 cùng phép điệp “gió…gió”, “mây…mây” như bẻ đôi câu thơ thành thế chia lìa, những sự vật sự việc tưởng như không bao giờ tách rời là mây gió nay đành phải xa nhau trong cảm hứng đau thương về sự chia lìa nơi trái tim thi sĩ. Bức tranh thứ ba, bức tranh con thuyền trăng và dòng sông trăng hiện lên lung linh trong tâm trí, nhưng ở đây tác giả chỉ gợi chứ không tả, con thuyền và ánh trăng hiện lên trong thơ một cách tự nhiên: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?”. Câu thơ như vẽ vào tâm trí người đọc một bức tranh bàng bạc của một chốn hư ảo chỉ có trong tưởng tượng: Dòng sông trăng. Câu thơ gợi cho con người cái mênh mang bất tận của cõi trời và nước, cái long lanh trầm mặc như dát bạc của ánh trăng. Đó là một khung cảnh thoáng đãng, mở ra khoáng đạt đến vô tận và ngân đầy ánh sáng. Bức tranh cuối cùng là bức tranh mờ sương khói của một cõi tâm hồn, của thế giới đau thương mờ mờ nhân ảnh. Chữ “mơ” và “sương khói” đã họa lên cái không gian mông lung mơ màng, nhờ nhờ khói sương của một cõi đau thương nơi chỉ nhà thơ có thể đặt chân đến. Đây là một bức tranh đầy ám ảnh, của một cõi mơ, cõi đau thương, cõi thơ điên, đập vào tâm trí người đọc. Bốn bức tranh trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bốn bức tranh tâm cảnh với những nỗi niềm, xúc cảm, sắc thái được họa lại chủ yếu qua màu sắc, đường nét, ánh sáng. Ba bức tranh sau hiện lên bằng bút pháp gợi chứ không tả, chỉ đi vào những nét chấm phá chứ không đi vào chi tiết cụ thể. Cảm nhận bốn bức tranh, người đọc phải mở rộng trái tim mình, phát huy trí tưởng tượng cao độ và vận dụng kiến thức về hội họa, điều này làm nên đặc sắc và góp phần tạo nên sức sống cho tác phẩm. Trong quá trình hướng dẫn bài học, tôi đã yêu cầu HS dựa vào chi tiết, hình ảnh của bài thơ kết hợp vận dụng hiểu biết về hội họa tái hiện bằng ngôn ngữ bức 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong bài Cacbon của chương trình Hóa học lớp 11 THPT
19 p | 138 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12
27 p | 39 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kiến thức văn học trong dạy học một số nội dung phần Công dân với đạo đức môn GDCD lớp 10 nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh tại trường THPT Thái Lão
43 p | 35 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng cơ chế giảm phân để giải nhanh và chính xác bài tập đột biến nhiễm sắc thể
28 p | 38 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng toán tổ hợp xác suất trong việc giúp học sinh giải nhanh các bài tập di truyền phần sinh học phân tử và biến dị đột biến
17 p | 40 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM trong chương trình Hóa học hữu cơ 11
74 p | 41 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng quan điểm tích hợp thông qua phương pháp dự án để dạy chủ đề Liên Bang Nga
77 p | 74 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng lí thuyết chuẩn độ axit – bazơ trong giảng dạy Hóa học ở trường chuyên và phục vụ bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia, Quốc tế
143 p | 37 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Các biện pháp nâng cao hiệu quả làm bài phần Đọc - hiểu trong đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn THPT
36 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn tập môn Lịch Sử theo định hướng 5 bước 1 vấn đề, đáp ứng yêu cầu mới của kỳ thi THPT Quốc gia
29 p | 35 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
29 p | 44 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng định lý Thales để tìm lời giải cho các bài toán hình học tọa độ trong mặt phẳng
35 p | 28 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn