Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài trong dạy học Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn nhằm nâng cao khả năng tự học và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh khối 10
lượt xem 1
download
Đề tài: “Xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài trong dạy học Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn nhằm nâng cao khả năng tự học và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh khối 10 Trường THPT” có hiệu quả thiết thực và ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao khả năng tự học, tạo hứng thú, hiệu quả học tập và đặc biệt là hình thành, phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cũng như các năng lực khác cho học sinh lớp 10, trường THPT Đề tài đã thúc đẩy ý chí, tinh thần ham học hỏi, sự chủ động tự giác trong quá trình học tập của học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài trong dạy học Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn nhằm nâng cao khả năng tự học và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh khối 10
- 1 MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................. 2 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 2 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2 II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................................ 3 1. Thực trạng trước khi áp dụng đề tài ........................................................... 3 2. Nội dung đề tài............................................................................................... 6 3. Tính mới, tính sáng tạo của đề tài ............................................................. 12 a. Đối với học sinh ........................................................................................... 12 b. Đối với giáo viên .......................................................................................... 13 III. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC ......................................................................... 14 1. Tác dụng của bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học14 2. Kết quả đạt được ......................................................................................... 15 IV. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG .............................................. 17 PHỤ LỤC 1 ...................................................................................................... 18 KẾ HOẠCH BÀI HỌC MINH HỌA ............................................................ 18 PHỤ LỤC 2 ...................................................................................................... 28 CÁC PHIẾU HỌC TẬP PHIẾU HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI HỌC .. 28 PHỤ LỤC 3:..................................................................................................... 30 PHIẾU HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ VÀ CHUẨN BỊ CHO TIẾT HỌC TỚI 30 PHỤ LỤC 5: PHIẾU KHẢO SÁT VẤN ĐỀ TỰ HỌC MÔN TOÁN CỦA HỌC SINH LỚP 10 TRƯỜNG THPT ................................................................ 35 PHỤ LỤC 6 ...................................................................................................... 36
- 2 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Năm học 2022 – 2023 là năm đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 cho học sinh khối 10 với mục tiêu chính là phát triển năng lực cho học sinh, đồi hỏi học sinh cần tích cực, chủ động trong học tập và chiếm lĩnh tri thức. * Về phía giáo viên: - Tích cực thay đổi phương pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 và đáp ứng nhu cầu của người học. Trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên đã có những câu hỏi định hướng, dẫn dắt học sinh tìm ra tri thức mới. - Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên vẫn còn theo các phương pháp dạy học truyền thống, chưa thực sự đổi mới, hoặc đổi mới một cách hình thức. * Về phía học sinh: - Đa phần các em đều chăm ngoan, tự giác trong học tập. Các em cũng đã được làm quen với các phương pháp học tập tích cực từ các bậc học dưới nên có thể dễ dàng thích nghi với những phương pháp học tập mới. Tuy nhiên các em học còn thụ động, giáo viên dạy gì học nấy. Để giải quyết vấn đề đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài trong dạy học Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn nhằm nâng cao khả năng tự học và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh khối 10”. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 1.1. Mục đích nghiên cứu - Khi giải quyết các vấn đề mới của bộ môn, Giáo viên không xây dựng trên cơ sở thực nghiệm hoặc khái quát, tương tự hóa mà sẽ đưa ra vấn đề trực tiếp. Khi gặp tình huống tương tự học sinh vận dụng máy móc, thiếu sáng tạo và không có nhu cầu và khả năng tìm và phát hiện ra một điều mới mẻ. Hầu hết các nội dung của bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình , đều được giáo viên đưa ra một cách trực tiếp, cho học sinh công nhận luôn điều đó mà không giải thích tại sao hoặc dẫn dắt, kết nối từ kiến thức cũ, từ các vấn đề trong thực tiễn 1.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu năng lực Toán học trong chương trình Toán học lớp 10 ở trường trung học phổ thông. 1.3.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu một số văn bản, tài liệu liên quan đến phương pháp dạy học, tài liệu giáo dục học và lý luận dạy học môn Toán.
- 3 Phương pháp điều tra, quan sát thực tiễn: Lập phiếu khảo sát khả năng phát triển năng lực Toán học và giải quyết vấn đề thực tiễn thông qua dạy học chủ đề quy hoạch tuyến tính 10. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm sư phạm ở trường trung học phổ thông để kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả của đề tài. 1.4. Các bước thực hiện đề tài - Khảo sát thực tiễn vào dạy học chủ đề quy hoạch tuyến tính 10 ở trường THPT Đô Lương 1. - Tổng hợp kết quả điều tra và phân tích số liệu thu thập được để đưa ra kết luận về thực trạng vấn đề và tính thiết thực, cần thiết của vấn đề nghiên cứu. - Soạn giáo án theo hướng phát triển năng lực học sinh thông qua chủ đề quy hoạch tuyến tính. Từ đó thực nghiệm ở lớp được chọn, kiểm tra đánh giá sự tiến bộ của học sinh để đánh giá tính hiệu quả của đề tài. - Phân tích kết quả sau khi tác động, từ đó đưa ra kết luận về tính thiết thực, khả năng ứng dụng của đề tài nghiên cứu II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng trước khi áp dụng đề tài 1.1. Thực trạng Năm học 2022 – 2023 là năm đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 cho học sinh khối 10 với mục tiêu chính là phát triển năng lực cho học sinh, đồi hỏi học sinh cần tích cực, chủ động trong học tập và chiếm lĩnh tri thức. * Về phía giáo viên: - Tích cực thay đổi phương pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 và đáp ứng nhu cầu của người học. Trong quá trình dạy học, nhiều giáo viên đã có những câu hỏi định hướng, dẫn dắt học sinh tìm ra tri thức mới. - Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên vẫn còn theo các phương pháp dạy học truyền thống, chưa thực sự đổi mới, hoặc đổi mới một cách hình thức. Trong thời gian qua, khi giảng dạy các nội dung của môn Toán, giáo viên thường đi theo các bước truyền thống như sau: + Đưa ra nội dung kiến thức mới. + Giáo viên hướng dẫn học sinh làm ví dụ mẫu. + Học sinh làm bài tập áp dụng trên lớp. + Giao nhiệm vụ cho học sinh làm bài tập về nhà. Cụ thể trong dạy học bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình – Đại số 10 (Bộ sách giáo khoa theo chương trình phổ thông 2006), giáo viên thường dạy theo quy trình như sau:
- 4 Bước 1: Dạy học hình thành khái niệm bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Bước 2: Dạy học củng cố, luyện tập khái niệm. Bước 3: Nêu cách biểu diễn tập nghiệm của bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Bước 4: Thực hiện ví dụ mẫu thể hiện việc biểu diễn tập nghiệm của bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Bước 5: Học sinh thực hành lại với ví dụ tiếp theo. Bước 6: Nêu khái niệm hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Bước 7: Biểu diễn tập nghiệm của bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Bước 8: Áp dụng vào bài toán tối ưu. Bước 9: Giao nhiệm vụ về nhà. Với quy trình giảng dạy như trên và kinh nghiệm giảng dạy từ những năm học trước thì hầu hết giáo viên cũng áp dụng quy trình đó cho chương trình GDPT mới mà cụ thể là Chương II: Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Toán 10 (Bộ sách giáo khoa “Kết nối tri thức” – Chương trình phổ thông 2018). Như vậy, trong bài học, giáo viên hầu như không có hoạt động giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị cho bài học sau. Nếu có thì giáo viên chỉ nhắc học sinh đọc trước bài chứ không có hoạt động định hướng cho học sinh phải nhớ lại, tìm hiểu những kiến thức nào hoặc có bài tập tìm tòi mở rộng cho bài học. Vì phần áp dụng kiến thức vào thực tiễn, các bài toán tối ưu diễn ra vào cuối cùng của bài học nên việc áp dụng xử lý các tình huống liên quan đến thực tiễn còn sơ khoáng, thậm chí là bỏ qua, yêu cầu học sinh tự về nhà tìm hiểu (không có hướng dẫn cụ thể) do hết thời gian trên lớp. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh là một yêu cầu bắt buộc. Theo quy trình trên thì phương pháp giảng dạy này chưa đáp ứng được yêu cầu đó. * Về phía học sinh: - Đa phần các em đều chăm ngoan, tự giác trong học tập. Các em cũng đã được làm quen với các phương pháp học tập tích cực từ các bậc học dưới nên có thể dễ dàng thích nghi với những phương pháp học tập mới. Tuy nhiên các em học còn thụ động, giáo viên dạy gì học nấy. - Khi học bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình – Đại số 10 (Bộ sách giáo khoa theo chương trình phổ thông 2006) và Chương II: Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Toán 10 (Bộ sách giáo khoa “Kết nối tri thức” – Chương trình phổ thông 2018), học sinh thường cảm thấy rất khó hiểu, nhiều nội dung kiến thức đan xen, khó ghi nhớ. Các em hay gặp khó khăn về các nội dung kiến thức như: Vẽ đường thẳng ax by c 0 , cách xác định điểm trên mặt phẳng tọa độ, xác định miền nghiệm của các bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn. Đặc biệt là khi gặp
- 5 các bài toán gắn liền với thực tiễn, học sinh không biết cách đưa các bài toán này về các bài toán học thông thường dẫn đến hoang mang, không giải quyết được, hoặc làm theo một cách máy móc nhưng không hiểu. - Bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình – Đại số 10 (Bộ sách giáo khoa theo chương trình phổ thông 2006) và Chương II: Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Toán 10 (Bộ sách giáo khoa “Kết Nối Tri Thức” – Chương trình phổ thông 2018) là nội dung học khá trừu tượng, có nhiều ứng dụng trong thực tiễn, có tính tư duy cao đòi hỏi học sinh tập trung cao độ, nỗ lực và cố gắng rất nhiều và hơn hết là phải biết liên hệ kiến thức vào thực tiễn và từ tình huống thực tiễn phải biết diễn giải chúng bằng ngôn ngữ toán học. Tuy nhiên, hầu hết học sinh đều nắm kiến thức phần này một cách mơ màng, hời hợt. Ngay tại thời điểm học đó, học sinh có thể làm được hầu hết các dạng bài tập nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, các em đã quên hết cách làm. Biểu hiện cụ thể là khi thi hết học kì, các em đều cảm thấy các bài tập dạng này khó, không biết cách giải quyết nhất là những bài toán có tính liên hệ thực tế, bài toán quy hoạch tuyến tính . Một biểu hiện nữa là học sinh gặp lúng túng, không biết cách làm khi gặp những dạng toán “mới”, “lạ”, thậm chí cả những vấn đề thực chất là những vấn đề cũ mà chỉ đổi cách hỏi, cách tiếp cận. 1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên - Khi giải quyết các vấn đề mới của bộ môn, Giáo viên không xây dựng trên cơ sở thực nghiệm hoặc khái quát, tương tự hóa mà sẽ đưa ra vấn đề trực tiếp. Khi gặp tình huống tương tự học sinh vận dụng máy móc, thiếu sáng tạo và không có nhu cầu và khả năng tìm và phát hiện ra một điều mới mẻ. Hầu hết các nội dung của bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình , đều được giáo viên đưa ra một cách trực tiếp, cho học sinh công nhận luôn điều đó mà không giải thích tại sao hoặc dẫn dắt, kết nối từ kiến thức cũ, từ các vấn đề trong thực tiễn. - Giáo viên chưa thực sự chú trọng trong việc phát triển các năng lực toán học (biểu hiện tập trung nhất của năng lực tính toán) bao gồm các thành phần cốt lõi sau: năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hoá toán học; năng lực giải quyết vấn đề toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán. Trong đó năng lực mô hình hóa Toán học thường ít được quan tâm, hoặc bỏ qua. - Giáo viên chưa thấy được sự quan trọng của việc chuẩn bị cho bài học tới của học sinh. Với lối suy nghĩ, kiến thức mới học sinh không thể tự tiếp thu được hay học sinh có đọc bài thì cũng chẳng hiểu gì nên phần đa giáo viên đều bỏ qua khâu hướng dẫn, định hướng cho học sinh tự học. Nhất là với nội dung phần Bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn lại khá khó, nhiều kiến thức được công nhận. Các tiết học trên lớp chỉ có thời gian nhất định nhưng giáo viên phải truyền tải một lượng kiến thức khá lớn. Học sinh chưa chuẩn bị bài nên các kiến thức đưa ra học sinh không tiếp thu kịp, hoặc giáo viên không đủ thời gian để truyền tải hết
- 6 khối lượng kiến thức, nhiều phần kiến thức bị đưa ra một cách sơ khoáng, phần vận dụng, tìm tòi sáng tạo bị bỏ qua, ít được quan tâm. Nhiều phần kiến thức đưa ra bị rời rạc, không có mối liên hệ chặt chẽ với bài trước hoặc phần trước dẫn đến học sinh không tiếp thu kiến thức liền mạch, bài học bị khô khan, thiếu hứng thú. - Học sinh đã có thói quen học tập thụ động, giáo viên dạy gì học nấy từ trước nên việc học sinh tự học hầu như không có, dẫn đến tình trạng tiếp thu kiến thức mới gặp khó khăn, không hiểu bài hoặc hiểu nhưng mất rất nhiều thời gian dẫn đến tình trạng chán nản, không có hứng thú học tập. - Một bộ phận giáo viên vẫn còn ngại đổi mới, vẫn tập trung dạy học nội dung kiến thức. Bởi khi đổi mới, dạy học theo hướng phát triển năng lực, giáo viên cần chuẩn bị nhiều hơn, bỏ ra thời gian khá nhiều nhưng lại chưa nhìn thấy ngay được sự phát triển năng lực của học sinh nên sẽ cảm thấy dạy học phát triển năng lực là vô ích, không mang lại hiệu quả. Như vậy, từ các nguyên nhân trên, tôi nhận thấy việc chuẩn bị trước bài học ở nhà, việc tự học của học sinh là nguyên nhân cơ bản. Việc hiểu đúng, hiểu rõ tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài là điều vô cùng quan trọng, có vai trò rất lớn trong việc giáo dục toàn diện, phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, khơi dậy cảm hứng học tập, niềm vui, niềm đam mê với các môn học nói chung, môn Toán nói riêng. Đặc biệt là với những nội dung ít có tính liên hệ thực tiễn, khó, trừu tượng, nhiều kiến thức hàn lâm như dạy học Bất phương trình, hệ bất phương trình thì điều đó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Đây đồng thời cũng là nguyên nhân mà Giáo viên có thể tác động nhằm thay đổi. 2. Nội dung đề tài 2.1. Cơ sở khoa học 2.1.1 Cơ sở lí luận Nói về học, ông cha ta từ xưa có câu học và hành, học phải đi đôi với hành hay trăm nghe không bằng một thấy. Ngày nay, các nghiên cứu về năng lực nhận thức của con người cũng chỉ ra quan hệ mật thiết giữa thực hành và khả năng ghi nhớ (Nguồn: Học viện quản lý giáo dục). Khả năng thu nhận tri thức Khả năng ghi nhớ Vị giác 1% Nghe 20% Xúc giác 1,5% Nhìn 30% Khứu giác 3,5% Nghe và Nhìn 50% Thính giác 11% Tự trình bày 80% Thị giác 83% Tự trình bày và làm 90% Xuất phát từ nghiên cứu trên, việc dạy học theo hướng tích cực đang ngày càng là vấn đề cấp thiết. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật như hiện
- 7 nay, quá trình dạy học đã có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Dạy học ngày nay không còn là quá trình mà người thầy giữ vai trò trung tâm của hoạt động dạy học, là người truyền thụ tri thức cho học sinh; còn học sinh thì tiếp thu những tri thức đó một cách máy móc, thụ động. Mà dạy học ngày nay là quá trình lấy học sinh làm trung tâm của mọi hoạt động học tập, người thầy đóng vai trò hướng dẫn, điều hành, giúp đỡ, định hướng cho học sinh tự chiếm lĩnh tri thức của bản thân. Với xu hướng đó, giáo dục nhà trường phải chú trọng vào việc đặt ra những cơ hội học tập, điều kiện thuận lợi cho học sinh trong quá trình học tập.Trên cơ sở định hướng đó, ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực, nỗ lực đổi mới phương pháp dạy – học sao cho phát huy tối đa tính tích cực, năng động của học sinh. Nhiều hoạt động đổi mới phương pháp dạy học đã được triển khai với nhiều hình thức, đề tài khác nhau. Tuy nhiên, đối với đặc thù môn Toán học chưa có nhiều cơ hội để sử dụng đa dạng hình thức, phương pháp dạy học. Để thực hiện được các phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả, trước hết cần phải xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng bài học một cách hoàn chỉnh. Với bộ câu hỏi, bài tập định hướng, học sinh sẽ có những định hướng quan trọng trong quá trình tự học, tự nghiên cứu, chiếm lĩnh tri thức của bạn thân. Bên cạnh đó, các em sẽ có sự linh hoạt trong việc xử lý tình huống, vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.Từ đó, các em sẽ thấy được tầm quan trọng, ứng dụng của kiến thức mình học được. Với bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn cho học sinh tự học phù hợp, các em sẽ là những người chủ động, sẵn sàng tiếp thu tri thức một cách khoa học. Các em sẽ tự bắt tay vào tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ tri thức hiệu quả nhất. Đó là yếu tố lôi cuốn sự chú ý HS, phát huy tính tích cực, chủ động của HS trong quá trình học tập. Muốn vậy phải thiết kế làm sao để việc trình bày, tập hợp kiến thức mà kích thích được hứng thú của HS. Chìa khóa của vấn đề là GV phải biết cách đặt câu hỏi, đưa ra bài tập một cách logic lại gây được hứng thú học tập cho HS làm cho HS thật sự bị cuốn vào việc trả lời cho các câu hỏi đó. 2.1.2 Cơ sở thực tiễn Trên thực tế đa phần GV không thiết kế hệ thống những câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài mà chỉ yêu cầu học sinh đọc trước bài, không có những câu hỏi định hướng để học sinh tiếp cận kiến thức. Học sinh dù có chuẩn bị bài thì cũng không biết bắt đầu từ đâu, liên kết kiến thức cũ và mới như thế nào, trọng tâm của bài học là phần nào. Huống chi, đa phần học sinh đều không có sự chuẩn bị bài, và việc chuẩn bị bài của học sinh lại không được giáo viên kiểm tra thường xuyên hoặc thậm chí là không bao giờ kiểm tra. Thiếu những câu hỏi định hướng bài học sẽ rơi vào việc trình bày hời hợt, nông cạn và ngoài chủ đích. Thậm chí, với những nội dung ít có tính liên hệ thực tiễn, khó, trừu tượng, nhiều kiến thức hàn lâm như chương II: Hàm số bậc hai – Đại số 10, học sinh lại càng cảm thấy thiếu hứng thú, rất khó để tiếp cận và tiếp thu kiến thức mới. Để thiết kế được
- 8 bộ câu hỏi định hướng GV phải có những kiến thức thuần túy về việc sử dụng câu hỏi dạy học nói chung và bộ câu hỏi định hướng bài học nói riêng. Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập định hướng hiện nay vì vậy là một vấn đề hết sức quan trọng bởi tính đơn giản, hiệu quả và khả thi của nó. Điều cơ bản là GV cần chuẩn bị cho mình bộ câu hỏi định hướng cho học sinh tự chuẩn bị, nghiên cứu trước bài học để điều khiển hoạt động học tập của HS theo chuẩn kiến thức và kĩ năng đã xác định. Bộ câu hỏi định hướng chuẩn bị cho bài học là một trong những bộ câu hỏi có nhiều ưu điểm. Nó gồm các câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung hướng dẫn việc tiếp thu bài học hiệu quả hơn đồng thời phát triển được tư duy của HS nhằm giúp các em trở thành những người có động cơ và tự định hướng. Nó giống như những câu hỏi dạy học mà các GV thường sử dụng nhưng có tính logic, tính định hướng, tính khái quát cao hơn nhằm phát triển tư duy cho HS. Bên cạnh đó bộ câu hỏi này cũng có những câu hỏi mở tạo điều kiện cho mọi HS tham gia tích cực vào quá trình dạy học. Theo ý kiến của tôi, nghiên cứu để sử dụng tốt bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, chuẩn bị bài học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Nếu giáo viên xây dựng được bộ câu hỏi định hướng đầy đủ, đa dạng và sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả trong quá trình dạy học sẽ kích thích khả năng tự học, nâng cao tính tích cực học tập của học sinh trong việc học tập qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Nội dung kiến thức về bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn bao gồm khá nhiều kiến thức cũ đã học ở THCS và kiến thức mới đan xen. Kiến thức cũ là nền tảng, kiến thức nền để xây dựng kiến thức mới. Vì vậy, việc có một bộ câu hỏi, bài tập định hướng cho học sinh tự học là điều rất cần thiết. Khi hoàn thành bộ câu hỏi, bài tập định hướng giúp học sinh nhớ lại kiến thức cũ, tìm hiểu cơ sở, kiến thức nền để nắm bắt được kiến thức mới. Đồng thời, học sinh cũng nhận thấy những vấn đề mới nảy sinh cần sử dụng kiến thức mới để hoàn thành. Từ đó, các em có hứng thú, tích cực hơn trong học tập, lĩnh hội kiến thức mới một cách thuận lợi, ghi nhớ và áp dụng vào trong các vấn đề toán học nảy sinh trong bài học. 2.2. Bộ câu hỏi định hướng bài học 2.2.1. Khái niệm Là hệ thống các câu hỏi do giáo viên đưa ra nhằm mục đích định hướng cho dạy học một nhóm kiến thức thuộc một bài học, một số bài học. Bộ câu hỏi định hướng là sự thể hiện cụ thể, sinh động mục tiêu dạy học: các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ … Bộ câu hỏi định hướng bao gồm: câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. 2.2.2. Các bộ phận của bộ câu hỏi định hướng
- 9 a. Câu hỏi khái quát Câu hỏi khái quát là những câu hỏi mở, hướng đến những ý tưởng và những khái niệm mang tính bền vững. Câu hỏi khái quát thường mang tính liên môn và giúp học sinh thấy được sự liên quan giữa các môn học với nhau. Câu hỏi khái quát đưa ra nhiều câu trả lời. Đối với các câu hỏi loại này, câu trả lời thường không có trong một cuốn sách, chúng thường là những cây hỏi khái quát về thực tế. Câu hỏi khái quát thu hút được sự quan tâm của học sinh với yêu cầu tư duy cao. Câu hỏi khái quát buộc học sinh phải phân tích tư duy, áp dụng những giá trị và giải thích những kinh nghiệm của mình. b. Câu hỏi bài học Câu hỏi bài học có liên quan trực tiếp đến bài học và hỗ trợ việc nghiên cứu câu hỏi khái quát. Các câu hỏi bài học cũng là các câu hỏi mở giúp học sinh thể hiện hiểu biết của mình về những khái niệm cốt lõi của bài học. Câu hỏi bài học thường có đáp án mở, lôi cuốn các em vào việc khám phá những ý tưởng cụ thể của từng chủ đề, môn học hoặc bài học. Các giáo viên ở các môn khác nhau có thể dùng cùng một câu hỏi bài học của nhóm cho một vấn đề chung, việc thống nhất câu hỏi khái quát thông qua nhóm. Câu hỏi bài học đưa ra những vấn đề hoặc kích thích thảo luận nhằm bổ trợ cho câu hỏi khái quát. Câu hỏi bài học cũng khuyến khích khám phá, duy trì hứng thú, cho phép học sinh trả lời theo cách tiếp cận sáng tạo, độc đáo. Các câu hỏi loại này kích thích học sinh tự kiến giải các sự kiện. c. Câu hỏi nội dung Câu hỏi nội dung là những câu hỏi cụ thể mang tính sự kiện với một số lượng giới hạn các câu trả lời đúng. Thường thì câu hỏi nội dung liên quan đến định nghĩa, sự nhận biết và gợi nhớ thông tin mang tính khái quát – tương tự như loại câu hỏi mà ta thường thấy trong các bài kiểm tra. Câu hỏi nội dung là những câu hỏi hỗ trợ quan trọng cho câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học. Đặc điểm điển hình của câu hỏi nội dung là câu trả lời phải rõ ràng, phải đúng hay cụ thể, thường được xếp vào loại câu hỏi “đóng” Câu hỏi nội dung được sắp xếp theo những tiêu chuẩn về nội dung, mục tiêu dạy học, hỗ trợ cho các câu hỏi khái quát cũng như câu hỏi bài học Ví dụ: Ta xét bài toán sau Bài toán 1: Nhân dịp Tết Trung thu, một cửa hàng dự định sản xuất hai loại bánh: bánh nướng và bánh dẻo. Mỗi chiếc bánh nướng cần 120g bột mì và 60 g đường. Mỗi chiếc bánh dẻo cần 160 g bột mì và 40 g đường. Cửa hàng đã nhập và 60 kg bột mì và 24 kg đường . Mỗi chiếc bánh nướng lãi 8000 đồng, mỗi chiếc bánh dẻo lãi 6000 đồng.
- 10 Câu 1: Cửa hàng định sản xuất mỗi loại 100 chiếc bánh, em hãy xác định: a. Lượng đường cần sử dụng. b. Lượng bột cần sử dụng. c. Tiền lãi thu được từ việc bán hết số bánh trên. Câu 2: Nếu gọi x và y lần lượt là số bánh dẻo và bánh nướng mà cửa hàng dự định sản xuất thì x và y cần thỏa mãn những điều kiện gì? Câu 3: Giả sử số bánh làm ra được tiêu thụ hết, em hãy cho biết cửa hàng cần sản xuất số lượng mỗi loại bánh là bao nhiêu để cửa hàng thu về lợi nhuận cao nhất. Với bài toán trên thì câu hỏi 1 là một câu hỏi nội dung, câu hỏi 2 là dạng câu hỏi bài học và câu hỏi 3 là câu hỏi khái quát. 2.2.3. Một số kinh nghiệm khi xây dựng bộ câu hỏi định hướng Khi xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học, ta cần chú ý đến các vấn đề sau: Suy nghĩ về các câu hỏi học sinh sẽ đặt ra khi ta dạy bài này và chú trọng vào việc làm thế nào để cuốn hút học sinh bằng các câu hỏi có thể nảy sinh từ các vấn đề học tập trong bài. Suy nghĩ về nội dung bài dạy có những đơn vị kiến thức nào trọng tâm, những nội dung đó cần những tri thức đã có nào để hình thành, có thể liên hệ với thực tiễn không? Nếu có thể, nên đưa ra một hệ thống các câu hỏi, bài tập định hướng để học sinh tự học, tự nghiên cứu tìm ra kiến thức mới. Từ đó, học sinh nắm bắt được tri thức trong bài. Việc kiểm tra, đánh giá quá trình tự học của học sinh chính là việc báo cáo kết quả mà học sinh đã tự nghiên cứu ở nhà. GV có thể thông qua đó, điều chỉnh những chỗ học sinh còn thiếu sót, chốt lại kiến thức mà học sinh cần phải nắm được. Sau khi xây dựng bộ câu hỏi định hướng nên trao đổi với đồng nghiệp và thu thập ý kiến nhằm xem xét lại các câu hỏi trước khi sử dụng. Liên tục xem xét và chỉnh lí, bổ sung các câu hỏi trong suốt quá trình xây dựng hồ sơ bài dạy. a. Nguyên tắc thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học Để định hướng cho việc thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học trong chương II – Đại số 10, tôi đã xây dựng bộ câu hỏi định hướng bài học dựa trên các nguyên tắc sau:
- 11 - Bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học cần hướng đến việc phát huy năng lực tư duy, kích thích được hứng thú học tập của học sinh. - Bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học cần hướng vào mục tiêu, chú ý các nội dung quan trọng. - Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, ngôn ngữ trong sáng. - Bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học đảm bảo vừa sức, số lượng vừa phải. - Bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học cần có tính logic cao, có sự gắn kết giữa câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. - Đa dạng về hình thức và mức độ nhận thức của các câu hỏi: có câu hỏi tái hiện, câu hỏi sáng tạo, câu hỏi vận dụng … Để đảm bảo chất lượng của bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học thì sau khi thiết kế cần trao đổi với đồng nghiệp và các chuyên gia. Việc sử dụng các loại câu hỏi đã thiết kế khi lên lớp là hết sức linh hoạt, tùy thuộc vào trình độ của học sinh và các điều kiện cụ thể. b. Quy trình thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học Quy trình thiết kế bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học gồm 8 bước: Bước 1: Xác định mục tiêu và trọng tâm bài học Bước 2: Xác định đối tượng, kiến thức có liên quan Bước 3: Xác định phương pháp dạy học chủ yếu sẽ tiến hành và điều kiện dạy học Bước 4: Thiết kế bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học Bước 5: Xác định tính logic, cách diễn đạt, dự kiến thời gian, đáp án cho mỗi câu hỏi Bước 6: Đánh giá bước đầu chất lượng câu hỏi Bước 7: Thử nghiệm trong dạy học Bước 8: Hoàn thiện bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học và sử dụng c. Quy trình sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học Để sử dụng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài họccó hiệu quả trong việc tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới ta tiến hành các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, bài tập theo mức độ tăng dần, theo từng bước để dần tiếp cận, chiếm lĩnh kiến thức mới Bước 2: Đưa ra hệ thống câu hỏi, bài tập định hướng để học sinh tự thực hiện ở nhà. Bước 3: Học sinh suy nghĩ, tìm hiểu kiến thức để tìm câu trả lời các câu hỏi, bài tập định hướng
- 12 Bước 4: Học sinh báo cáo kết quả của hệ thống câu hỏi, bài tập định hướng trên lớp vào tiết học. Bước 5: Đánh giá câu trả lời Bước 6: Khẳng định và cũng cố d. Một số chú ý khi sử dụng bộ câu hỏi định hướng Khi sử dụng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học, trong quá trình dạy học ta cần chú ý đến các vấn đề sau: - Sự khác nhau giữa câu hỏi khái quát và câu hỏi bài học không quá rõ ràng, ngược lại chúng được xem là một chỉnh thể thống nhất. Chúng cùng hướng đến mục đích định hướng cho việc học, khuyến khích người học liên kết đến nhiều câu hỏi cụ thể hơn, nhiều câu hỏi khái quát hơn, hướng dẫn khám phá, khai thác những ý tưởng quan trọng. - Tùy thuộc vào tình huống và cách sử dụng, một câu hỏi có thể là câu hỏi khái quát cũng có thể là câu hỏi bài học. - Câu hỏi khái quát được hình thành một cách tự nhiên, mới xem có cảm giác là tùy tiện, không liên quan. Câu hỏi khái quát cần hấp dẫn, thích hợp với lứa tuổi và vốn ngôn ngữ của học sinh. Chú ý tránh những câu hỏi khái quát tổng quát, trừu tượng, khó tiếp cận đối với học sinh. - Nhiều câu hỏi bài học hỗ trợ một câu hỏi khái quát. Nhiều câu hỏi bài học trong một số bài, một chương, một nhóm kiến thức, một môn học … có thể khám phá nhiều khía cạnh khác nhau của các câu hỏi khái quát. Các nhóm giáo viên của nhiều môn học khác nhau có thể sử dụng các câu hỏi bài học của mình để hỗ trợ một câu hỏi khái quát chung, thống nhất. - Câu hỏi mang tính vận dụng kiến thức, nếu để giải thích đơn thuần thì sẽ là câu hỏi nội dung. Nhưng cũng chính những vấn đề đó, nếu đưa vào thực tế cuộc sống, mang tính bao trùm nhiều kiến thức trong bài học có thể trở thành câu hỏi bài học hoặc câu hỏi khái quát. - Khi xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học, giáo viên cần tập trung vào các câu hỏi được các nhà khoa học quan tâm thường xuyên trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, các câu hỏi được học sinh quan tâm. 2.5. Kế hoạch dạy học minh họa a. Bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự chuẩn bị Bài học: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn (SGK – Toán 10 – Bộ sách kết nối tri thức – Chương trình phổ thông 2018) (Phụ Lục 2) b. Kế hoạch bài học minh họa (Phụ lục 1) 3. Tính mới, tính sáng tạo của đề tài a. Đối với học sinh
- 13 Việc học sinh hoàn thành phiếu hướng dẫn tự học đã giúp các em chủ động nắm bắt kiến thức, tự nghiên cứu tìm hiểu những kiến thức nền, kiến thức liên quan. Học sinh chính là những người tìm ra tri thức, nên việc tiếp thu, ghi nhớ sẽ hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp học tập truyền thống. Học sinh được trực tiếp làm và trình bày nên việc ghi nhớ kiến thức sẽ lâu và sâu. Nhiệm vụ tự học của học sinh diễn ra liên tục, thường xuyên làm cho học sinh hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu, tự phát hiện và giải quyết được nhiều vấn đề trong thực tiễn. Từ đó, hình thành nên những phương pháp học tập hiệu quả. Học sinh khi chủ động tìm hiểu, lĩnh hội tri thức cảm thấy hứng thú hơn với môn học vì học sinh hiểu bài, có thời gian tìm hiểu các ứng dụng của bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn trong thực tiễn, các bài toán kinh tế và các môn học khác. Các em tìm thấy được niềm vui, niềm say mê đối với môn học. Trong quá trình thực hiện Phiếu hướng dẫn học sinh tự học, học sinh được tiếp cận dần dần các đơn vị kiến thức từ dễ đến khó, được chia thành nhiều mức độ khiến cho học sinh cảm thấy tự tin, từng bước làm chủ được kiến thức. Việc biểu diễn miền nghiệm của bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn không còn quá phức tạp, khô khan nữa bởi học sinh đã nắm được toàn bộ kiến thức nền, kiến thức cũ vào bài học một cách linh hoạt. Việc chuyển các bài toán tối ưu từ ngôn ngữ thực tế thông thường sang ngôn ngữ của bài toán cũng trở nên đơn giản, đễ dàng hơn. Từ đó, việc giải quyết các tình huống thực tiễn đối với học sinh sẽ trở lên thuận lợi, linh hoạt hơn. Qua quá trình giải quyết các tình huống thực tiễn, các bài toán gắn liền với thực tiễn, năng lực mô hình hóa Toán học, năng lực tự chủ, tự học được hình thành và phát triển liên tục. Ngoài ra, việc học sinh tích cực hoàn thành phiếu hướng dẫn trự học còn mang lại nhiều điều bổ ích như: - Rèn luyện cho HS những phẩm chất trong giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác… - Giúp HS phát triển tư duy, kĩ năng lập luận, diễn đạt cũng như thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè. - Phát triển các năng lực toán học bao gồm các thành phần cốt lõi sau: năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hoá toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán, mà đặc biệt là năng lực mô hình hóa toán học, một trong những thành tố rất quan trọng để học sinh xử lý, giải quyết các vấn đề thực tiễn của Toán học. b. Đối với giáo viên Việc áp dụng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học vào giảng dạy là một trong những hoạt động thay đổi phương pháp giáo dục từ truyền thống sang dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm. Từ đó, giúp cho việc dạy học tích cực, tập trung theo hướng phát triển năng lực người học không còn
- 14 khó khăn nữa. Việc học sinh đã chuẩn bị bài, tự học ở nhà đã làm giảm khá nhiều thời gian hình thành tri thức mới ở trên lớp. Từ đó giáo viên có nhiều thời gian hơn trong việc hướng dẫn học sinh vận dụng, tìm tòi sáng tạo. Học sinh đã chuẩn bị bài, tự học ở nhà cũng khiến cho việc tiếp thu tri thức mới dễ dàng hơn, do học sinh đã hiểu, nắm bắt được kiến thức nền nên việc truyền tải tri thức mới của giáo viên không còn quá nặng nề. Giáo viên cũng có nhiều thời gian hơn để tập trung thực hiện các phương pháp giáo dục mới. Việc xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học cũng góp phần thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá học sinh theo hướng tích cực. Thay vì việc kiểm tra bằng những đề bài, bài tập truyền thống thì giáo viên có thể kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh bằng nhiều hình thức như: cho học sinh thuyết trình, báo cáo, nộp phiếu hướng dẫn học tập, thậm chí là chấm sản phẩm hoạt động nhóm của học sinh. Việc xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học cũng đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, lấy người học làm trung tâm và mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018. Qua việc sử dụng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học, giáo viên đã hình thành và phát triển khả năng tự chủ, tự học, năng lực mô hình hóa toán học cho học sinh. Giáo viên không còn cảm thấy khó khăn, lúng túng, áp lực trong việc đổi mới giáo dục, thay đổi chương trình giáo dục từ cũ sang mới. Việc xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học có thể áp dụng trong rất nhiều nội dung của chương trình môn Toán cũ và mới. Giáo viên thường xuyên sử dụng bộ câu hỏi định hướng sẽ giúp việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức dễ dàng hơn, giáo viên sẽ quen thuộc với việc đổi mới phương pháp dạy học, đồng thời đáp ứng được mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới. III. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1. Tác dụng của bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm hướng dẫn học sinh tự học tự chuẩn bị bài trong nội dung , tôi đã nhận thấy rõ được tác dụng của Bộ câu hỏi, bài tập định hướng. Riêng với bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài ở nhà trong Bài 4: Bất phương trình bậc nhất hai ẩn – Chương IV: Bất đẳng thức, bất phương trình – Đại số 10 (Bộ sách giáo khoa theo chương trình phổ thông 2006), tôi tiến hành thực nghiệm và có sự tham gia góp ý của các thầy cô trong tổ nhóm chuyên môn. Qua dự giờ một tiết dạy thử nghiệm, các thầy cô giáo đều đánh giá rất cao về hiệu quả mà bộ câu hỏi định hướng mang lại. Kết luận chung của tiết dạy thực nghiệm: đạt được các mục tiêu đề ra, đem lại hiệu quả học tập, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu, tạo hứng thú và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh.
- 15 Một vài hình ảnh trong tiết dạy thử nghiệm (PHỤ LỤC 6) Như vậy, bộ câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài có những tác dụng sau: - Định hướng hoạt động cho giáo viên và học sinh vào nội dung quan trọng, tránh được tình trạng trình bày nông cạn, hời hợt, ngoài chủ định. - Giúp giáo viên và học sinh đạt được các mục tiêu bài học. - Dẫn dắt học sinh đến kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi. - Giúp học sinh học tập tốt hơn, nhanh hơn, thông minh và sâu sắc hơn. - Rèn kỹ năng tổ chức và sử dụng kiến thức. - Rèn cho học sinh kỹ năng tư duy bậc cao. - Rèn cho học sinh khả năng tự học, chủ động, sáng tạo trong các hoạt động học. - Khơi gợi sự chú ý trong học tập của học sinh. - Kích thích hứng thú học tập của học sinh. - Hình thành và phát triển năng lực tự học và năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh, đáp ứng được mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018. 2. Kết quả đạt được 2.1. Về khả năng tự học Hầu hết học sinh đều tự giác, tích cực tự học ở nhà. Điều này thể hiện ở phiếu Hướng dẫn tự học được học sinh thực hiện đầy đủ, tương đối chính xác. Học sinh hào hứng và rất mong muốn được báo cáo kết quả học tập của bản thân và của nhóm mình. Rất nhiều em cũng đã thay đổi phương pháp học tập từ truyền thống sang tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu ở nhiều môn học không chỉ riêng môn Toán. Các em học sinh không chỉ hoàn thiện, thực hiện tốt các nhiệm vụ mà giáo viên giao phó mà còn chủ động tìm tòi, khám phá các lĩnh vực trong thực tiễn có thể áp dụng kiến thức đã được học. Thậm chí, các em còn lên mạng tra cứu các thông tin, các bài toán kinh tế có liên quan, tự đề ra các nhiệm vụ cho bản thân giải quyết các tình huống đó. Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ tự giác học tập, khả năng tự chủ, tự học của học sinh thông qua phiếu khảo sát (Phụ lục 5) 2.2. Hiệu quả học tập của học sinh - Kết quả thi khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy trình độ 02 lớp tương đương nhau. Sau khi dạy thực nghiệm, tôi tiến hành kiểm tra 45 phút ở 02 lớp thực nghiệm (10T2) và đối chứng (10D2) bằng hình thức làm bài trắc nghiệm (Phụ lục 4).
- 16 - Kết quả thu được ở hai lớp như sau: Lớp Điểm trung bình bài kiểm tra trắc nghiệm 10T2 (Thực nghiệm) 7,24 10D2 (Đối chứng) 6,47 Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra kiến thức giữa 02 lớp 100% 2 90% 16 25 80% 70% 60% 55 50% 53 40% 30% 20% 24 10% 20 0% 5 10T2 LỚP 10B2 10D2 LỚP 10B5 10 16 2 8,0 - 9,0 55 25 5,0 - 7,0 24 53 2,0 - 4,0 5 20 2,0 - 4,0 5,0 - 7,0 8,0 - 9,0 10 Từ kết quả phân tích dữ liệu thu được cho thấy: Điểm trung bình của lớp thực nghiệm là 7,24 và của nhóm đối chứng là 6,47. Chênh lệch điểm trung bình của lớp thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng là 0,77. 2.3. Hiệu quả về việc hình thành và phát triển năng lực mô hình hóa toán học cho học sinh Qua quá trình giảng dạy, quan sát và đánh giá, tôi thấy học sinh có sự thay đổi rõ rệt trong học tập và năng lực của học sinh. Khi gặp các tình huống thực tiễn, các em đã biết vận dụng kiến thức đã được học vào để nghiên cứu, giải quyết các tình huống đó. Các em biết chuyển đổi đưa các tình huống đó về các bài toán, dạng toán quen thuộc một cách linh hoạt, sáng tạo để xử lý tình huống một cách hợp lý, nhanh gọn. Qua đó, sự phát triển của năng lực mô hình hóa Toán học được thể hiện một cách rõ nét. Không những thế, các năng lực khác cũng được hình thành và phát triển toàn diện. Bởi qua quá trình hoạt động nhóm hoàn thành Phiếu học tập chuẩn bị bài học, các em thảo luận, trao đổi, tìm ra các cách giải quyết phù hợp. Các em không còn sợ, ngại khi gặp các bài toán gắn với thực tiễn hoặc các tình huống Sau khi dạy thực nghiệm, tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra (Phụ lục 4) bằng bình thức trắc nghiệm, tôi nhận thấy lớp 10T2 (lớp thực nghiệm) các em đã làm được hầu hết các bài toán liên quan đến thực tiễn, trong khi lớp 10D2 (lớp đối chứng) các em làm được một phần hoặc bỏ qua, né tránh các bài toán này. Như vậy, việc xây dựng bộ câu hỏi định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài là một việc hết sức cần thiết trong quá trình dạy học nhằm hình thành và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học, giúp học sinh xử lý, giải quyết các bài toán
- 17 có yếu tố thực tiễn, hoặc các tình huống liên môn, tình huống xảy ra trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Từ kết quả thực nghiệm này có thể thấy việc vận dụng đề tài: “Xây dựng bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài trong dạy học Bất phương trình và hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn nhằm nâng cao khả năng tự học và phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cho học sinh khối 10 Trường THPT” có hiệu quả thiết thực và ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao khả năng tự học, tạo hứng thú, hiệu quả học tập và đặc biệt là hình thành, phát triển năng lực mô hình hóa Toán học cũng như các năng lực khác cho học sinh lớp 10, trường THPT Đề tài đã thúc đẩy ý chí, tinh thần ham học hỏi, sự chủ động tự giác trong quá trình học tập của học sinh. Qua quá trình thực hiện yêu cầu của bộ câu hỏi, bài tập định hướng hướng dẫn học sinh tự học, tự chuẩn bị bài, các em được rèn luyện những thói quen tốt, khả năng làm việc nhóm, hình thành và phát triển năng lực, ngày càng hoàn thiện bản thân. Đề tài đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục và mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018. IV. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG - Đề tài này có thể áp dụng rộng rãi ở tất cả các trường THPT. Bởi vì, việc vận dụng phương pháp này không đòi hỏi phải đầu tư nhiều vào việc mua sắm trang thiết bị dạy học mà có thể tự sưu tầm tài liệu phục việc giảng dạy trên mạng Internet, báo, tạp chí,.... - Đây là biện pháp cho giáo viên, học sinh tham khảo, áp dụng vào hoạt động dạy và học nhằm mang lại hiệu quả cao không chỉ với học sinh khối lớp 10, giáo viên có thể áp dụng cho cả khối 11 và khối 12. - Giáo viên có thể áp dụng cho các đối tượng học sinh từ yếu, trung bình, đến khá, giỏi. Tùy theo mục đích yêu cầu đối với từng đối tượng học sinh, giáo viên điều chỉnh mức độ áp dụng cho phù hợp.
- 18 PHỤ LỤC 1 KẾ HOẠCH BÀI HỌC MINH HỌA CHƯƠNG IV: BẤT ĐẲNG THỨC – BẤT PHƯƠNG TRÌNH BÀI 4: BẤT PHƯƠNG TRÌNH BẬC NHẤT HAI ẨN I. MỤC TIÊU 1. Kiến thức - Học sinh hiểu được khái niệm bất phương trình (hệ bất phương trình) bậc nhất hai ẩn. - Biết xác định miền nghiệm của bất phương trình, hệ bất phương trình bậc nhất hai ẩn. - Vận dụng bất phương trình, hệ bất phương trìnhh bậc nhất hai ẩn vào giải bài toán thực tế, điển hình là bài toán quy hoạch tuyến tính đơn giản. 2. Năng lực - Năng lực tự học: Học sinh xác định đúng đắn động cơ thái độ học tập; tự đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; tự nhận ra được sai sót và cách khắc phục sai sót. - Năng lực giải quyết vấn đề: Học sinh biết cách phân tích các bài toán quy hoạch tuyến tính đơn giản, vận dụng linh hoạt các kiến thức bất phương trình, hệ bất phương trìnhh bậc nhất hai ẩn để giải quyết các vấn đề đó. - Năng lực mô hình hóa Toán học: Học sinh biết cách phân tích bài toán quy hoạch tuyến tính đơn giản và chuyển đổi bài toán đó về các bài toán thuần toán quen thuộc, thuận lợi trong việc giải quyết. Học sinh vận dụng kiến thức linh hoạt vào thực tiễn. - Năng lực tự quản lý: Làm chủ cảm xúc của bản thân trong quá trình học tập vào trong cuộc sống; trưởng nhóm biết quản lý nhóm mình, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên nhóm, các thành viên tự ý thức được nhiệm vụ của mình và hoàn thành được nhiệm vụ được giao. - Năng lực giao tiếp: Tiếp thu kiến thức trao đổi học hỏi bạn bè thông qua hoạt động nhóm; có thái độ tôn trọng, lắng nghe, có phản ứng tích cực trong giao tiếp. - Năng lực hợp tác: Xác định nhiệm vụ của nhóm, trách nhiệm của bản thân đưa ra ý kiến đóng góp hoàn thành nhiệm vụ của chủ đề. - Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Học sinh nói và viết chính xác bằng ngôn ngữ Toán học. 3. Phẩm chất - Rèn luyện tính cẩn thận, chính xác. Tư duy các vấn đề toán học một cách lôgic và hệ thống.
- 19 - Chủ động phát hiện, chiếm lĩnh tri thức mới, biết quy lạ về quen, có tinh thần trách nhiệm hợp tác xây dựng cao. - Chăm chỉ tích cực xây dựng bài, chủ động chiếm lĩnh kiến thức theo sự hướng dẫn của GV. - Năng động, trung thựcsáng tạo trong quá trình tiếp cận tri thức mới ,biết quy lạ về quen, có tinh thần hợp tác xây dựng cao. - Hình thành tư duy logic, lập luận chặt chẽ, và linh hoạt trong quá trình suy nghĩ. II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU - Kiến thức về bất phương trình bậc nhất và cách vẽ đường thẳng có dạng ax by c . - Máy chiếu. - Bảng phụ, phấn, thước kẻ. - Phiếu học tập. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC : 1.HOẠT ĐỘNG 1: MỞ ĐẦU a) Mục tiêu: - Tạo hứng thú, khơi dậy sự tò mò, niềm yêu thích của học sinh với bài học. - Phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. b) Nội dung: H1- Giáo viên đặt câu hỏi: Làm thế nào để sản xuất đạt hiệu quả cao nhất? H2- Giáo viên chiếu đoạn video cắt từ video: https://www.youtube.com/watch?v=iVU4UUGmQwk c) Sản phẩm: Câu trả lời mong muốn: Lập kế hoạch sản xuất; sản xuất đạt mục tiêu với chi phí thấp nhất. d) Tổ chứcthực hiện: *) Chuyển giao nhiệm vụ: - Nội dung: H1- Giáo viên đặt câu hỏi: Làm thế nào để sản xuất đạt hiệu quả cao nhất? H2- Giáo viên chiếu đoạn video cắt từ video: https://www.youtube.com/watch?v=iVU4UUGmQwk - Hình thức: Vấn đáp học sinh tại chỗ.
- 20 - Thời gian: 2phút. *) Thực hiện:HS lắng nghe, theo dõi, chuẩn bị trả lời câu hỏi. *) Báo cáo, thảo luận: học sinh trả lời tại chỗ. *) Nhận xét, tổng hợp: - GV đánh giá thái độ làm việc, phương án trả lời của học sinh, ghi nhận và tổng hợp kết quả. - Dẫn dắt vào bài mới. 2.HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC 2.1: BẤT PHƯƠNG TRÌNH BẬC NHẤT HAI ẨN a) Mục tiêu: - Tiếp cận với bài toán quy hoạch tuyến tính đơn giản để hình thành kiến thức mới. -Học sinh hiểu được khái niệm bất phương trình (hệ bất phương trình) bậc nhất hai ẩn. b) Nội dung: *)ND 1: Bài toán 1: Nhân dịp Tết Trung thu, một cửa hàng dự định sản xuất hai loại bánh: bánh nướng và bánh dẻo. Mỗi chiếc bánh nướng cần 120g bột mì và 60 g đường. Mỗi chiếc bánh dẻo cần 160 g bột mì và 40 g đường. Cửa hàng đã nhập và 60 kg bột mì và 24 kg đường . Mỗi chiếc bánh nướng lãi 8000 đồng, mỗi chiếc bánh dẻo lãi 6000 đồng. Câu 1: Cửa hàng định sản xuất mỗi loại 100 chiếc bánh, em hãy xác định: a. Lượng đường cần sử dụng. b. Lượng bột cần sử dụng. c.Tiền lãi thu được từ việc bán hết số bánh trên. Câu 2: Nếu gọi x và y lần lượt là số bánh dẻo và bánh nướng mà cửa hàng dự định sản xuất thì x và y cần thỏa mãn những điều kiện gì? Câu 3: Giả sử số bánh làm ra được tiêu thụ hết, em hãy cho biết cửa hàng cần sản xuất số lượng mỗi loại bánh là bao nhiêu để cửa hàng thu về lợi nhuận cao nhất *) ND2: Định nghĩa bất phương trình bậc nhất hai ẩn. *) ND3: Ví dụ 1: Cặp số nào sau đây là nghiệm của bất phương trình 3x 2 y 5 ? a) 2; 1 ; b) 2;0 ; c) 1; 1 ; d) 1; 1 ; Ví dụ 2: Tìm bất phương trình bậc nhất hai ẩn trong các bất phương trình sau
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập chương Liên kết hóa học - Hóa học 10 - Nâng cao nhằm phát triển năng lực học sinh
24 p | 70 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng một số bài toán thực tế, liên môn tạo hứng thú học Toán cho học sinh lớp 10
60 p | 47 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi trong ôn thi học sinh giỏi phần Vi sinh vật
41 p | 41 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bài tập về cân bằng Hóa Học nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh trung học phổ thông
46 p | 43 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng kho tư liệu video hỗ trợ dạy học chương trình Tin học 10
11 p | 35 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng bộ sưu tập video, clip hỗ trợ dạy, học nguyên lí làm việc của động cơ đốt trong
13 p | 19 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông
75 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng một số giải pháp tích hợp kiến thức địa lý địa phương vào dạy học địa lý lớp 10 THPT - Ban cơ bản
32 p | 36 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng chuyên đề Phương pháp học tập để nâng cao kết quả học tập học sinh
35 p | 43 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy học phần Sinh thái học - chương trình chuyên Trung học phổ thông
81 p | 40 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thư viện online về kiến thức thực tế và gợi ý nhiệm vụ STEM môn Toán và Khoa học tự nhiên theo chương trình giáo dục 2018
26 p | 12 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng trường học hạnh phúc qua công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT Con Cuông
53 p | 19 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng hệ thống trực tuyến quản lý và giải quyết nghỉ phép cho học sinh trường PT DTNT THPT tỉnh Hòa Bình
35 p | 14 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong dạy học Ứng dụng của tích phân nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
24 p | 52 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống thi trực tuyến cấp chứng chỉ Công nghệ thông tin tại Trung tâm Tin học - Ngoại ngữ và Hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình
8 p | 25 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cho nhiều đối tượng học sinh
14 p | 35 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập phần Định luật bảo toàn vật lí lớp 10 THPT nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực nhận thức, rèn luyện tư duy sáng tạo
63 p | 38 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống bài tập xác suất (Toán lớp 11) dành cho học sinh trung bình, khá trường THPT Thành Phố Điện Biên Phủ
16 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn