Thực trạng rủi ro kinh doanh ngoại hối ở các ngân hàng thương mại Việt Nam
lượt xem 112
download
Hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM gồm: Thứ nhất, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng. Thông qua dịch vụ mua bán hộ, ngân hàng thu một khoản phí phổ biến ở dạng chênh lệch tỷ giá mua bán. Vì là mua bán hộ nên ngân hàng không phải bỏ vốn, không chịu rủi ro tỷ giá và không làm thay đổi kết cấu bảng cân đối tài sản nội bảng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng rủi ro kinh doanh ngoại hối ở các ngân hàng thương mại Việt Nam
- Thực trạng rủi ro kinh doanh ngoại hối ở các NHTM Việt Nam Hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM gồm: Thứ nhất, mua và bán ngoại tệ cho khách hàng. Thông qua dịch vụ mua bán hộ, ngân hàng thu một khoản phí phổ biến ở dạng chênh lệch tỷ giá mua bán. Vì là mua bán hộ nên ngân hàng không phải bỏ vốn, không chịu rủi ro tỷ giá và không làm thay đổi kết cấu bảng cân đối tài sản nội bảng. Thứ hai, mua và bán ngoại tệ với khách hàng nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền đó của ngân hàng để giảm thiểu rủi ro. Đây thực chất là nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Thứ ba, kinh doanh cho chính mình, tức mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Hoạt động kinh doanh này tạo ra trạng tháI ngoại hối, do đó ngân hàng phảI bỏ vốn, chịu rủi ro tỷ giá và làm thay đổi kết cấu bảng cân đối tài sản nội bảng. Như vậy trạng thái ngoại hối mở giữa các Interbank dẫn đến rủi ro ngoại hối. Các ngân hàng có tư tưởng kinh doanh mạo hiểm thường để trạng thái ngoại tệ mở quá lớn so với vốn tự có nên khi rủi ro tỷ giá trên thị trường biến động, các ngân hàng này phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, thậm chí thua lỗ, giảm năng lực tài chính. Chính vì vậy, ngày 10/01/1998, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 18/1998/QĐ-NHNN7 về việc quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng NHTM Việt Nam, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính. Theo đó các ngân hàng phải thực hiện tổng trạng thái ngoại tệ cuối ngày không vượt quá 30% vốn tự có của ngân hàng mình. Kể từ sau năm 1998 cho đến năm cuối năm 2006, các NHTM Việt Nam thường duy trì trạng thái ngoại hối đoản và hậu quả là phải đối mặt với rủi ro tỷ giá khi tỷ giá tăng. Đó là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất, mức tỷ giá giao dịch bình quân interbank mà NHNN công bố thường ổn định trong thời gian dài, hầu như không có biến động lớn, thậm chí có lúc tỷ giá USD và JPY so với VND đứng yên hoặc giảm. Do đó việc duy trì trạng thái ngoại tệ đoản đối với USD và JPY là bình thường.
- Thứ hai, đặc điểm của ngoại hối Việt Nam trong thời gian này là theo hướng 1 chiều, cầu về ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ, do vậy mà doanh số mua vào nhỏ hơn doanh số bán ra và điều này dẫ tới trạng thái ngoại tệ ở các ngân hàng thường là trạng thái đoản. Thứ ba, lãi suất cho vay VND thường cao hơn nhiều so với lãi suất cho vay của USD, EUR và JPY (lãi suất thực của VND dương), vì thế các ngân hàng sẵn sàng bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ để hưởng lãi suất cao, đến hạn hoàn trả ngoại tệ họ sẽ mua ngoại tệ vào và khoản lãi thu được từ cho vay VND luôn lớn hơn khoản thua lỗ do tỷ giá tăng (tức VND mất giá) trong khi chính sách tỷ giá mà NHNN theo đuổi lại ổn định trong thời gian dài và vì thế trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng thường đoản. Từ cuối năm 2006 đến những tháng đầu quý I/2008, kể từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO, trạng thái ngoại tệ của các NHTM Việt Nam lại ở tình huống ngược lại, đó là nó luôn ở mức dư thừa. Điều này được lí giải như sau: Thứ nhất, nguồn cung ngoại tệ cho các NHTM tăng nhanh là do thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua đã phát triển với tốc độ khá nóng. Điều đó khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô vào thị trường Việt Nam. Họ chuyển USD vào Việt Nam và chuyển đổi ra VND để kinh doanh chứng khoán dẫn đến cung ngoại tệ tăng mạnh. Thứ hai, ngoài nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI thực hiện trong năm 2007 cũng như trong quý I năm 2008 tăng cao. trong quý I năm 2008, tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, cả nước đã thu hút thêm đạt 5,436 tỷ USD vốn đầu tư đăng kí, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2007 đã làm tăng nguồn cung USD của các NHTM. Thứ 3, do Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất đã làm cho USD giảm giá mạnh so với các tiền tệ như EUR, JPY... cũng đã làm cho dòng vốn đầu tư chuyển từ USD sang VND. Trong khi đó, để tránh áp lực cho lạm phát, NHNN không mua số ngoại tệ dư thừa này (vì nếu NHNN mua ngoại tệ vào, đẩy VND ra để hỗ trợ thì sẽ làm tăng VND trong lưu thông) đã khiến cho tỷ giá USD/VND liên tục suy giảm. Và chính điều này lại gây ra rủi ro tỷ giá cho các NHTM.
- Tuy nhiên năm 2009, tỷ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN nới rộng biên độ tỷ giá lên ±5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến. Có trường hợp thường xuyên âm phải nhờ sự viện trợ của NHNN hoặc các NH phải đẩy giá chào mua lên bằng giá bán nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của NH mình. Nguyên nhân chính được giải thích từ hiện tượng nhiều doanh nghiệp có nguồn thu bằng USD không chịu bán cho NH, có tâm lý chờ giá tiếp tục tăng lên, thâm chí còn “ra giá” để có thể đạt mức cao hơn trần quy định hiện hành mới bán dẫn đến tình trạng ngân hàng không mua được ngoại tệ để bán. Mặt khác các NH hạn chế việc huy động bằng tiền USD, càng huy động càng có thể lỗ do lãi suất huy động USD liên tục sụt giảm do không cho vay ra được nên nếu các NH huy động càng nhiều USD thì sẽ càng lỗ, bởi họ phải gửi số ngoại tệ này ở nước ngoài với mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với mức huy động. 6 tháng đầu năm 2011, do chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN đã duy trì được sự ổn định của thị trường ngoại tệ. Tỷ giá giao dịch dần “giảm nhiệt”. Trên thị trường chính thức, tỷ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố). Xen kẽ những ngày tăng, tỷ giá đã có nhiều ngày đứng và nhiều ngày giảm. Đây là điều hiếm có trước đây. Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức đã được giảm thiểu, tỷ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7/2011, NHNN đã mua được 5 tỷ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng, bước đầu chuyển dần quan hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua- bán bằng ngoại tệ giữa NH với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán trực tiếp bằng ngoại tệ đã được thu hẹp.
- Cho tới tháng 4/2012, qua nghiên cứu ở cả thị trường chính thức và phi chính thức và biểu thị trên biểu đồ Reuters cho thấy diễn biễn tỷ giá USD/VND ở mức ổn giá định. Thị trường chính thức giao dịch phổ biến 20840-20890. Thị trường tự do giao dịch 20830-20880. Tỷ giá duy trì ổn định và ở mức thấp là điều kiện tốt để NHNN tiếp tục mua vào lượng lớn ngoại tệ của các NHTM, góp phần cải thiện dự trữ ngoại tệ. Đây là tháng mà thông tư 03/2012/TT-NHNN chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02/5/2012 về việc hạn chế đối tượng vay ngoại tệ. Do thường xuyên phải đối mặt với tình trạng ngoại hối mở như vậy nên việc quản trị rủi ro ngoại hối ngày càng có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Thực trạng và giải pháp
112 p | 509 | 115
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Rủi ro và các giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam
96 p | 387 | 90
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng công thương Việt Nam
122 p | 350 | 90
-
Bài tiểu luận: Quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại
31 p | 767 | 87
-
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế: Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Vũng Tàu - Nguyễn Hải Đăng
88 p | 229 | 76
-
Đề tài: Nghiên cứu - phân tích các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
230 p | 369 | 63
-
Đề tài:Nghiên cứu - phân tích các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
203 p | 110 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Nhận dạng và phân tích rủi ro kinh doanh của Công ty TNHH Vật tư tổng hợp Toàn Tâm
87 p | 19 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp đại học: Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro của Công ty TNHH MTV Xi măng VICEM Tam Điệp
67 p | 17 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro hoạt động của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đông Hải Dương
97 p | 15 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hạn chế rủi ro kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương – Chi nhánh Lâm Đồng
73 p | 52 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank)
111 p | 37 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á
108 p | 38 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Hạn chế rủi ro trong kinh doanh dịch vụ thẻ quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
102 p | 10 | 5
-
Đề án ngành Kinh doanh thương mại: Hoàn thiện quản lý rủi ro kinh doanh bán hàng đa cấp tại Công ty TNHH GCOOP Việt Nam
105 p | 10 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro trong kinh doanh thẻ tại ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam
91 p | 16 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngân hàng: Hạn chế rủi ro trong kinh doanh dịch vụ thẻ quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam
11 p | 43 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP Á Châu
132 p | 26 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn