intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Đánh giá đói nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian vừa qua tác động thế nào đến xóa đói giảm nghèo của Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

153
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những năm qua, Việt Nam đã dành được nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế. Trong Báo cáo phát triển con người năm 2010 của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam được đứng vào tốp 10 quốc gia trên thế giới có những tiến bộ nhất về thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên gấp 5 lần sau 4 thập niên vừa qua.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Đánh giá đói nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian vừa qua tác động thế nào đến xóa đói giảm nghèo của Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Khoa Ngân hàng – Tài Chính -----------***----------- BÀI TẬP NHÓM (NHÓM 7) ĐỀ TÀI : Đánh giá đói nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian vừa qua tác động thế nào đến xóa đói giảm nghèo của Việt Nam LỚP : CAO HỌC 21D TÊN THÀNH VIÊN: 1. Hà Cẩm Ninh 2. Khuất thị Mai Phương 3. Hồ Bảo Ngọc 4. Đặng Thị Nhung 5. Nguyễn Hoàng Nhung 6. Đào Cù Huy Phùng 1
  2. MỤC LỤC 1. Đánh giá đói nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. ............................................. 5 1.1. Quan niểm và nội dung tiếp cận đánh giá đói nghèo .................................................... 5 1.1.1. Quan niệm nghèo khổ ........................................................................................... 5 1.1.2. Tiếp cận đánh giá đói nghèo.................................................................................. 5 1.2. Đánh giá đói nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 ........................................... 7 1.2.1. Đánh giá Thực trạng vượt ngưỡng nước nghèo danh nghĩa ................................... 8 1.2.2. Đánh giá thực hiện mục tiêu vượt nghèo đích thực và hiệu quả ............................. 9 2. Tác động tăng trưởng kinh tế thời gian qua tác động đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua. .................................................................................................... 10 2.1. Thành tựu đáng kể từ tăng trưởng kinh tế .................................................................. 10 2.2. Tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua ........................................................................................................................... 11 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo ....................................................... 11 2.2.2 Tăng trưởng với sự gia tăng bất bình đẳng ........................................................... 15 2.2.3 Tăng trưởng với các yếu tố cấu thành chỉ số phát triển con người ........................ 17 2
  3. DANH MỤC VIẾT TẮT WB: Ngân hàng thế giới. WTO: Tổ chức thương mại thế giới UNDP: Chương trình phát triển Liên hợp quốc HPI: Chỉ số đói nghèo con người VNLSS: Mức sống hộ gia đình Việt Nam NSLĐ: Năng suất lao động GDP: Tổng sản phẩm quốc nội BẢNG SỐ LIỆU: Bảng1: Tiêu chí thu nhập bình quân đầu người theo nhóm nước Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 Bảng 3: So sánh tăng trưởng và giảm nghèo Bảng 4: Tổng hợp hệ số co giãn của tỷ lệ nghèo đói và thu nhập Bảng 5: So sánh chỉ số bất công bằng trong phân phối thu nhập của Việt Nam với chuẩn quốc tế Bảng 6: Danh sách các nước có nhiều cải thiện trong HDI Bảng 7: Mức tăng GDP/người thực Bảng 8: Chỉ số phát triển con người Việt Nam so với một số nước châu Á, 2010 ĐỒ THỊ Đồ thị 1: Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam năm 1998 - 2010 Đồ thị 2: Thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam từ 2000 – 2010 Đồ thị 3: Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2000 – 2010 Đồ thị 4: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2000-2010 Đồ thị 5: Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2010 Đồ thị 6: Hệ số giãn cách thu nhập ở Việt Nam 2002-2008 3
  4. MỞ ĐẦU Những năm qua, Việt Nam đã dành được nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế. Trong Báo cáo phát triển con người năm 2010 của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam được đứng vào tốp 10 quốc gia trên thế giới có những tiến bộ nhất về thu nhập. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên gấp 5 lần sau 4 thập niên vừa qua. Riêng giai đoạn 2001-2010, mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng xấp xỉ 3 lần. Và tháng 2 năm 2010, WB đã công bố Việt Nam thoát khỏi danh sách các nước thu nhập thấp, đây là một kết quả rất đáng trân trọng thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong vòng nhiều năm theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên bản thân sự tiến bộ về tăng trưởng kinh tế chưa đủ lực để tạo nên những bước đột phá (tiến bộ vươt bậc) về mặt xã hội cho con người. Những tiến bộ đáng kể về thu nhập vẫn không đưa Việt Nam vào danh sách các "quốc gia đứng đầu" về những tiến bộ trong phát triển con người. Mặt khác chính bản thân cách thức thức thực hiện mục tiêu tăng trưởng của chúng ta hiện nay cũng đã có phần làm giảm dần hiệu ứng của nỗ lực xóa đói giảm nghèo, chúng ta đang đứng thứ 113/169 nước về trình độ phát triển con người, được xếp loại trung bình thấp, và thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á. Với thực trạng trên, nằm trong chủ đề nghiên cứu về chất lượng trưởng kinh tế Việt Nam, Bài viết muốn đề cập tới thực trạng xóa đói giảm nghèo và xem xét ảnh hưởng của tăng trưởng đến mục tiêu cuối cùng, đó là xóa đói giảm nghèo - phát triển con người, xem như là yếu tố của chất lượng tăng trưởng hiểu theo nghĩa rộng của nó. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của nhóm là “ Đánh giá đói nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam tác động như thế nào đến xóa dói giảm nghèo Việt Nam thời gian vừa qua” 4
  5. NỘI DUNG 1. Đánh giá đói nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. 1.1. Quan niểm và nội dung tiếp cận đánh giá đói nghèo 1.1.1. Quan niệm nghèo khổ * Quan niệm về nghèo khổ vật chất - Thập niên 1970: nghèo khổ là sự “ thiếu hụt” so với mức sống nhất định - 9/1993, ESCAP đã cụ thể hóa sự “ thiếu hụt” đó là: không có khả năng thỏa mãn nhu cầu vật chất cơ bản của con người (được xã hội thừa nhận)  Những điểm nhấn mạnh khi xem xét nghèo khổ vật chất: + Dấu hiệu nghèo: thu nhập hạn chế; thiếu cơ hội tạo thu nhập thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng ở mức tối thiểu + Chuẩn nghèo là ngưỡng chi tiêu tối thiểu cần thiết cho việc tham gia các hoạt động trong đời sống kinh tế + Nếu thu nhập của gia đình dưới chuẩn nghèo gọi là hộ nghèo * Quan niệm về nghèo khổ đa chiều - Năm 1997, UNDP đưa ra khái niệm nghèo khổ tổng hợp: đó là sự thiếu hụt cơ hội và sự lựa chọn bảo đảm các điều kiện để phát triển toàn diện con người: điều kiện vật chất, giáo dục, và tiếp cận y tế, chăm sóc sức khỏe - Năm 2003: Phát triển khái niệm nghèo khổ đa chiều trên khía cạnh “quyền lợi” cơ bản của con người: Quyền tự do, quyền bình đẳng, sự khoan dung 1.1.2. Tiếp cận đánh giá đói nghèo Hàng năm, Ngân hàng thế giới (WB) thường tiến hành phân loại các nước trên thế giới (Các nuớc với quy mô dân số trên 30 000 người) dựa vào mức thu nhập bình quân đầu người. Theo tiêu chí này, thế giới được chia thành 4 nhóm nước: (1) các nước có thu nhập thấp,(2) Các nước có thu nhập trung bình thấp, (3) Các nước có thu nhập trung bình cao và (4) Các nước có thu nhập cao. Các mức thu nhập bình quân đầu người hàng năm (GDP/người) của 4 nhóm nước có sự thay đổi theo từng năm, đòi hỏi mỗi nước phải có sự phấn đấu ngày càng cao hơn để nâng cao mức thu nhập. 2005 2006 2007 2008 2009 Thu nhập thấp ≤765 ≤ 825 ≤875 ≤ 905 ≤935 Trung bình thấp 766-3035 826-3255 876-3465 906-3595 936 - 3705 Trung bình cao 3036-9385 3256-10065 3466-10725 3596-11115 3706-11455 Thu nhập cao 9386 trởlên 10066 trởlên 10725trở lên 11116 trởlên 11456 trở lên Bảng1: Tiêu chí thu nhập bình quân đầu người theo nhóm nước Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới, Ngân hàng thế giới 2005 – 2009 5
  6. Theo bảng trên, một quốc gia đang phát triển muốn vượt ngưỡng nước có mức thu nhập thấp thì phải có GDP bình quân đầu người cao hơn giới hạn thu nhập bị xếp vào nhóm nước có thu nhập thấp. Xung quanh chỉ số GDP/người sử dụng để đánh giá việc vượt ngưỡng nghèo một nước có thu nhấp thấp của các nước đang phát triển, có một số vấn đề đặt ra: GDP/người chỉ phản ánh mặt số lượng bình quân của thu nhập của người dân ở mỗi nước, trong khi chưa thể phản ánh được tính chất phân phối thu nhập giữa các bộ phận dân cư trong xã hội. Hay nói cách khác, nó chưa phản ánh được mức độ phân hoá giàu – nghèo ở một nước. Khi xem xét sâu hơn chỉ số GDP/người của một nước, người ta thường đặt câu hỏi: Liệu có bao nhiêu phần trăm dân số nước đó có mức thu nhập bình quân ngang bằng hoặc cao hơn mức GDP bình quân đầu người của cả nước? Nếu tỷ lệ là cao, thì chỉ số GDP/người mới phản ánh chân thực mức thu nhập và đời sống dân cư của nước đó. Còn nếu tỷ lệ là thấp, rõ ràng chỉ số GDP/người chỉ là một cách thống kê che đậy một trong những vấn đề hết sức bức xúc của bất kỳ xã hội nào, đó là tình trạng bất bình đẳng thu nhập và phân hoá giàu - nghèo trong xã hội. Một khía cạnh khác: chỉ số GDP/người không thể phản ánh được nhiều mặt thuộc về chất lượng của tăng trưởng để khẳng định khả năng thoát khỏi hẳn ngưỡng nước nghèo để trở thành các nước có mức thu nhập cao hơn như Như vậy, chỉ số GDP bình quân đầu người chỉ phản ánh tình trạng vượt ngưỡng nghèo tại thời điểm phân tích, không thể phản ánh một cách đích thực mức thu nhập của người dân ở mỗi nước và còn đặt dấu hỏi cho tương lai về mức thu nhập này sẽ có động thái vận động như thế nào Chúng ta cần tiếp cận việc đánh giá tình trạng vượt qua ngưỡng nghèo của Việt Nam theo 2 góc độ khác nhau tương ứng với quan niệm vượt qua ngưỡng nghèo khác nhau, đó là vượt qua ngưỡng nghèo thời điểm và vượt nghèo đích thực (1) Vượt ngưỡng nước nghèo thời điểm (hay gọi là vượt ngưỡng nghèo danh nghĩa). Một quốc gia được gọi là vượt qua ngường nghèo thời điểm danh nghĩa khi mức GDP bình quân đầu người tại năm đó phải đạt mức tối thiểu của mức của một nước được công nhận là nước có thu nhập trung bình thấp. Vượt qua được ngưỡng này cũng là một thành công mà các nước đang phát triển phải nỗ lực trong nhiều năm không chỉ là về kinh tế mà còn phải cả về lĩnh vực khống chế tốc độ tăng dân số. (2) Vượt ngưỡng nước nghèo đích thực và hiệu quả. Một quốc gia gọi là thoát khỏi nghèo đói đích thực khi họ đạt được mức tối thiểu về GDP bình quân đầu người của nước có mức thu nhập trung bình thấp theo tiêu chí của WB kèm theo những bảo đảm về khả năng duy trì một mức tăng trưởng GDP ngày càng 6
  7. cao cũng như kết quả tăng trưởng phải được phân bổ bình đẳng giữa các nhóm dân cư trong xã hội. Một quốc gia vượt được ngưỡng nghèo đích thực sẽ có khả năng đi qua ngưỡng trung bình thấp một cách nhanh chóng, để chuyển sang nước có thu nhập trung bình cao và hướng tới tiêu chí một quốc gia phát triển có thu nhập cao. Như vậy việc phân tích vượt ngưỡng nghèo đích thực và hiệu quả ngoài đánh giá theo chỉ tiêu GDP/người, còn phải phân tích qua các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng, cụ thể là: hiệu quả đạt được của các chỉ tiêu tăng trưởng, cấu trúc tăng trưởng và năng lực cạnh tranh tăng trưởng và xu hướng lan tỏa của tăng trưởng đến các yếu tố xóa đói giảm nghèo và bất công bằng trong phân phối thu nhập. 1.2. Đánh giá đói nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 Trong quá trình đổi mới kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã xác định những điểm mốc quan trọng, hay gọi là những “cửa ải” cần phải vượt qua cho đến năm 2020, đó là: thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Cho đến nay, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã vượt một "cửa ải" quan trọng công cuộc kiến quốc: thoát ra khủng hoảng kinh tế (năm 1995). 12 năm sau, chúng ta đứng trước "của ải" thứ hai: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Lần đầu tiên, mục tiêu đưa nước ta thoát khỏi nước kém phát triển có thu nhập thấp được ấn định bằng mốc cụ thể: năm 2008. 50 45 40 35 T? l? nghèo (%) 30 Chung 25 Thành th? 20 Nông thôn 15 10 5 0 1998 2002 2004 2006 2008 2009 2010 Đồ thị 1: Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam năm 1998 - 2010 7
  8. 1.2.1. Đánh giá Thực trạng vượt ngưỡng nước nghèo danh nghĩa Tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn đáng kể so với tốc độ gia tăng dân số trong nhiều năm liên tục,làm cho tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của Việt nam luôn được cải thiện. Tuy vậy, năm 2008, tốc độ tăng GDP chỉ đạt 6,5% (thấp hơn so với năm 2007 khoảng 2%), trong khi đó tốc độ tăng dân số giảm không đáng kể nên ảnh hưởng đến xu hướng gia tăng tốc dộ tăng thu nhập bình quân đầu người thời kỳ 2000-2010 1200 1000 1170 800 1028.3 1064 USD 600 835.9 725.1 639.1 552.9 400 491.9 440 412.9 402.1 200 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Đồ thị 2: Thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam từ 2000 – 2010 Nguồn: Bộ KH&ĐT Như vậy, theo số liệu tính toán trên, đến năm 2008, thu nhập bình quân trên đầu người của chúng ta là 1028$, so với mức của nước có thu nhập thấp do WB xác định trong báo cáo phát triển thế giới 2008 là 905 thì lần đầu tiên chúng ta vượt ngưỡng các nước có mức thu nhập thấp. Nếu căn cứ vào con số KH 2009, GDP tình theo USD là 105,7 tỷ USD và quy mô dân số là 87,17 thì thu nhập bình quân đầu người năm 2009 là 1212,5 USD, khi đó Việt Nam sẽ hoàn toàn vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp (theo con số của WB áp dụng cho năm 2009 là 935USD). Đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD là một kỳ tích mà chúng ta đã phấn đấu không mệt mỏi, từ một mức thu nhập dưới 200 USD năm 1990 và năm 2000 cũng mới chỉ là 400 USD. Giả sử cả 2 mục tiêu về tăng trưởng dân số và tăng trưởng GDP thì mức thu nhập bình quân đầu người của Việt nam năm 2008 là 940,5, so với mức của WB xác định trong báo cáo phát triển thế giới năm 2008, các nước đang phát triển vượt ngưỡng thu nhập thấp phải có GDP/người đạt tối thiểu là 906USD thì năm 2008 chúng ta đã vượt được ngưỡng nghèo danh nghĩa. 8
  9. 1.2.2. Đánh giá thực hiện mục tiêu vượt nghèo đích thực và hiệu quả Vượt qua ngưỡng nghèo đích thực và hiệu quả mới là điều chúng ta quan tâm hơn, bởi vì điều đó mới làm cho hiện tượng vượt ngưỡng nghèo danh nghĩa có ý nghĩa hơn và bảo đảm tính bền vững hơn trong sự phát triển liên tục của kinh tế thế giới. Như trong phần trên đã nêu, việc đánh giá vượt ngưỡng nuớc nghèo đích thực, ngoài việc xem xét chỉ tiêu đạt được về GDP/người, chúng ta cần phải xem xét mặt chất của con số này, tức là hiệu quả và nguồn gốc của con số tăng trưởng GDP cũng như hiệu ứng xã hội của GDP/người xét theo khía cạnh mức độ giảm nghèo và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập dân cư như thế nào cùng với quá trình tăng mức GDP/người. Mục đích chính là xem xét khả năng duy trì tình trạng vượt ngường nghèo thời điểm, khả năng đi qua mức thu nhập trung bình thấp để tiến đến các nước có mức thu nhập cao cũng như việc vượt ngưỡng nghèo thời điểm hay danh nghĩa đấy có phạm vi lan tỏa công bằng như thế nào. Chỉ số đói nghèo đa chiều cho Việt Nam dựa trên Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2008. Chỉ số đói nghèo đa chiều đo lường 9 hình thức thiếu thốn khác nhau về y tế, giáo dục và mức sống. Chỉ số đói nghèo đa chiều được xây dựng dựa trên những nỗ lực trước đây nhằm đo lường đói nghèo phi tiền tệ, ví dụ tỷ lệ nghèo trẻ em do Tổng cục thống kê và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng với UNICEF xây dựng và chỉ số đói nghèo đa chiều được sử dụng trong Điều tra đói nghèo thành thị năm 2010. Chỉ số đói nghèo đa chiều mới là chỉ số đói nghèo phi tiền tệ quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Do dựa trên Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam nên chỉ số này có thể tính được hai năm một lần. Chỉ số đói nghèo đa chiều cho thấy tỷ lệ nghèo phi tiền tệ (những hộ thiếu thốn ở 3 khía cạnh trở lên) ở mức 23,3%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ đói nghèo quốc gia là 14,5% trong Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008. Điều quan trọng là 20% dân số có nguy cơ đói nghèo đa chiều (thiếu thốn ở 2 khía cạnh). Tỷ lệ đói nghèo đa chiều ở các tỉnh nghèo nhất của Việt Nam rất cao, 82,3% ở Lai Châu, 75% ở Điện Biên và 73% ở Hà Giang. Theo chỉ số đói nghèo đa chiều, 12 tỉnh có hơn 50% dân số đói nghèo phi tiền tệ. Trong khi ở các tỉnh nghèo, tỷ lệ đói nghèo đa chiều cao hơn nhiều so với tỷ lệ đói nghèo tiền tệ, thì ở các tỉnh giàu tỷ lệ đói nghèo phi tiền tệ tương đương hoặc thậm chí thấp hơn tỷ lệ đói nghèo tiền tệ, nghĩa là tỷ lệ thiếu thốn về y tế, mức sống và giáo dục thấp. Chỉ số đói nghèo con người đo lường những thiếu thốn nghiêm trọng liên quan đến sức khỏe, giáo dục và thu nhập (mức sống) bằng cách đo lường tỷ lệ người bị thiệt thòi ở mức nghiêm trọng nhất. Các tỷ lệ này bao gồm tỷ lệ phần trăm những người có thể không sống được đến 40 tuổi, tỷ lệ người lớn mù chữ, tỷ trọng dân số không tiếp cận được với nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng. Năm 2008, chỉ số đói nghèo con 9
  10. người (HPI) là 10,93%, thấp hơn tỷ lệ nghèo tiền tệ là 14,5%. Trong giai đoạn 1999- 2009, HPI của tất cả các tỉnh đều giảm và chỉ số HPI của quốc gia đã giảm 48,3%. Tuy nhiên, khoảng cách về HPI giữa các tỉnh giàu nhất và nghèo nhất của Việt Nam chỉ giảm nhẹ trong giai đoạn 1999-2008. Rõ ràng vẫn còn tồn tại sự chênh lệch dai dẳng về mức sống giữa các tỉnh giàu nhất và nghèo nhất. Bất bình đẳng lớn và dai dẳng nhất trong HPI là tiếp cận với nước sạch, trong khi trong chỉ số đói nghèo đa chiều, những thiếu thốn về nhà kiên cố, tiếp cận nước sạch và vệ sinh là lớn nhất. Bất bình đẳng về thu nhập cũng tăng lên, đặc biệt là ở các vùng giảm nghèo nhanh, như Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ. Hệ số Gini đo lường bất bình đẳng thu nhập đã tăng từ 0,420 năm 2004 lên 0,433 năm 2008. Tỷ số thu nhập giữa ngũ phân vị giàu nhất và ngũ phân vị nghèo nhất tăng từ 8,1 năm 2002 lên 8,9 năm 2008. 2. Tác động tăng trưởng kinh tế thời gian qua tác động đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua. 2.1. Thành tựu đáng kể từ tăng trưởng kinh tế Trong quá trình đổi mới kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã xác định những điểm mốc quan trọng, hay gọi là những “cửa ải” cần phải vượt qua cho đến năm 2020, đó là: thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được điều đó, giai đoạn 2001-2010 chúng ta đã đặt mục tiêu tăng trưởng nhanh xem như là tiêu điểm số một để vượt qua các cửa ải nói trên. Sau 10 năm thực hiện mục tiêu trên, thành tựu đáng nói nhất là chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP cao (Biểu đồ dưới). 8.44 8.5 9 8.17 7.79 8 7.34 7.08 6.89 6.79 6.7 7 6.23 % 6 5.32 5 4 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Đồ thị 3: Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2000 - 2010 Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê và báo cáo KH 2009, 2010 của Bộ KH &ĐT 10
  11. Nếu không kể 3 năm cuối do ảnh hưởng đáng kể của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhìn chung, chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh (từ 7% trở lên). Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2000-2005 đạt 7,5%/năm, giai 2006-2010 năm đạt khoảng 6,8% và trong khoảng thời gian 10 năm từ 2001-2010 bình quân năm đạt 7,25%. Từ năm 1990 đến 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 7,37% (tính toán theo số liệu của Bộ KH&ĐT).Việt Nam đã nằm trong danh sách các nước châu Á tăng trưởng nhanh nhất. Với kết quả tăng trưởng nhanh trong nhiều năm liền: (i) từ chỗ sản xuất chưa đủ tiêu dùng ở mức độ thấp trong nước, nhập siêu, vay nợ còn lớn đến chỗ sản xuất không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đã lên cao, mà còn có tích lũy nội địa khá cao; (ii) đời sống của người dân cũng theo đó được cải thiện khá nhanh và Liên Hiệp Quốc đã công nhận Việt Nam đã hoàn thành các chỉ tiêu về xóa đói giảm nghèo trong chương trình thiên niên kỷ do tổ chức này đạt ra. Những kết quả đạt được cộng hưởng với việc chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang cải thiện mạnh mẽ vị thế của mình với tư cách là "điểm đến" của vốn và công nghệ đối với các nhà đầu tư, và "điểm bùng nổ" tăng trưởng. Hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã vượt qua hai "cửa ải" quan trọng công cuộc kiến quốc, đó là: (1) thoát ra khủng hoảng kinh tế. 12 năm sau, (2) Đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp (xem bảng dưới), đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. 1200 1000 1170 800 1028.3 1064 USD 600 835.9 725.1 639.1 552.9 400 491.9 402.1 412.9 440 200 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Đồ thị 4: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2000-2010 2.2. Tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo Có thể nói, tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thập niên vừa qua. Trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, tỷ lệ các hộ nghèo ở Việt Nam rất cao, lên đến 70%. 11
  12. Bước vào thời kỳ đổi mới, công tác xoá đói giảm nghèo đã được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, kết quả là tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm khá nhanh chóng. (xem Bảng dưới). 200 200 200 200 200 200 201 Năm 2001 2005 2006 2 3 4 7 8 9 0 Số hộ nghèo 2800. 250 170 144 3898. 3568. 322 280 236 221 (1000 hộ) 1 0 0 0 6 5 9 6 6 9 Tỷ lệ hộ nghèo 17.18 14.3 11 8.3 7 18 14.7 13.4 11,3 10,6 (%) Bảng 2: Tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Nguồn: số liệu Bộ KH&ĐT Bảng trên cho thấy, tương ứng với chuẩn nghèo vật chất áp dụng cho từng giai đoạn thì: giai đoạn 2001-2005, trung bình giảm được 2,5% hộ nghèo/năm. Giai đoạn 2006 - 2010, con số tương ứng đạt 1,85%. Theo báo cáo của UNDP hàng năm, xếp hạng chỉ số nghèo tổng hợp (HPI) của Việt Nam đã có những thay đổi tích cực: năm 1999 Việt Nam xếp thứ 51 trong số 92 nước đang phát triển được xếp hạng về chỉ số HPI; năm 2005 xếp thứ 37/103 nước và năm 2010 xếp thứ 32/105 nước. Kết quả giảm nghèo của Việt Nam đạt được ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Mặc dù những năm cuối của thời kỳ 2006- 2010 tăng trưởng kinh tế có chậm lại nhưng việc giảm tỷ lệ hộ nghèo vẫn thiếp tục được cải thiện (xem Biểu đồ dưới). 50 45 40 35 T l nghèo (%) 30 Chung 25 Thành th 20 Nông thôn 15 10 5 0 1998 2002 2004 2006 2008 2009 2010 Đồ thị 5: Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2010 Nguồn: VHLSS, Tổng cục Thống kê Với kết quả trên, Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh trên thế giới và là một trong những nước đi đầu trong thực hiện mục tiêu giảm 50% số người nghèo vào năm 2015. Ngân hàng Thế giới đã đánh giá "Những 12
  13. thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những thành công nhất trong phát triển kinh tế".Tuy nhiên, xét về tác động của tăng trưởng đến giảm nghèo, có những vấn đề sau đây cần rút ra để có những kết luận về mô hình tăng trưởng Việt Nam: Thứ nhất, tốc độ giảm nghèo có xu hưởng giảm xuống và ngày càng có biểu hiện chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 1. Tăng trưởng: - Tốc độ tăng trưởng (%) 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 8,23 8,46 6,18 5,32 6,7 - Số điểm % tăng trưởng 0,22 0,26 0,45 0,61 - 0,17 0,23 -2,28 -0,86 1,38 gia tăng so với năm trước 2. Giảm nghèo - Tỷ lệ nghèo đói (%) 17,5 14,5 11 8,31 7 18 14,7 13,4 11,3 10,6 - Số điểm % giảm nghèo giảm 3 3,5 2,96 1,31 3,3 1,3 2,1 0,7 xuống so với năm trước Bảng 3: So sánh tăng trưởng và giảm nghèo Nguồn: Tính toán từ số liệu của bộ KH&ĐT Như vậy, bình quân năm thời kỳ 2001-2005, tỷ lệ hộ nghèo giảm được 2,5% trong khi đó tỷ lệ hộ nghèo bình quân năm thời kỳ 2006-2010 chỉ còn đạt được 1,85%. Điều này được giải thích một phần bởi sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng GDP giữa thời kỳ sau so với thời kỳ trước (là 7,5% thời kỳ 2001-2005 và 6,98% thời kỳ 2006-2010). Tuy vậy, nếu thời kỳ 2006-2010 tốc độ tăng trưởng cũng bằng với thời kỳ trước (7,5%) thì tỷ lệ hộ nghèo bình quân năm của thời kỳ này cũng chỉ đạt con số 1,99% (xấp xỉ 2%) mà thôi. Điều này cho thấy tỷ lệ giảm nghèo đang có xu hướng giảm đi. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã xác nhận, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, xu hướng giảm nghèo chậm lại với hệ số co giãn tỷ lệ nghèo chỉ bằng một nửa so với thời kỳ 2000-2004. Điều này cảnh báo giảm nghèo sẽ khó khăn hơn, chủ yếu do bản chất nghèo đói đã thay đổi so với trước (xem Bảng dưới): Vùng Giai đoạn 2002 - 2006 Giai đoạn 2006 - 2009 Vùng KTTĐBB -2.027 -1.207 Vùng KTTĐMT -1.188 -1.373 13
  14. Vùng KTTĐPN -2.015 -3.997 Cả nước -2.323 -1.137 Bảng 4: Tổng hợp hệ số co giãn của tỷ lệ nghèo đói và thu nhập Nguồn: Chính sách phát triển các VKTTĐViệt Nam, NXB TTTT, 2010 Bảng trên cho thấy, hệ số co giãn giữa tăng trưởng và giảm nghèo thời kỳ 2002-2006 là -2,323, tức là khi GDP tăng trưởng 1% thì tỷ lệ giảm hộ nghèo đã giảm đi 2,323% so với tỷ lệ trước, trong khi đó thời kỳ 2006-2009, con số này chỉ là 1,137% (xấp xỉ bằng ½ so với thời kỳ trước). Điều này cho thấy mô hình tăng trưởng thực trạng đã giảm dần hiệu lực tác động đến giảm nghèo, kết quả của tăng trưởng lan tỏa đến giảm nghèo ngày một yếu đi. Thứ hai, tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các khu vực trong mỗi vùng, tỷ lệ nghèo ở các vùng khó khăn có xu hướng tăng lên . Vùng nghèo, vùng khó khăn chưa có đủ điều kiện để tạo ra bước đột phá trong giảm nghèo và họ trở nên ngày càng nghèo hơn trong sự gia tăng mức sống chung của cả nước, nhất là sự gia tăng nhanh chóng về mức sống của các thành phố lớn trong thời gian từ năm1990 đến nay. Có sự chênh lệch lớn giữa các vùng về tỷ lệ hộ nghèo, cụ thể, nếu tính theo chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005, đến cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 20,2% số hộ trong toàn quốc; các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (42,23%), Đông Bắc (31,53%), Bắc Trung Bộ (31,55%) và Tây Nguyên (28,54%); vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9,17%). Trong khi theo kết quả điều tra nghèo năm 2009, một số địa phương như Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh đã xóa hết tỷ lệ nghèo, một số vùng tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn là một con số như: vùng Đông Nam Bộ còn 4,3%, Đồng bằng sông Hồng 9,6%, thì nhiều vùng trong cả nước vẫn còn tồn tại tỷ lệ nghèo khá cao: Tây Nguyên 23%, Đông Bắc 21,4%, Bắc Trung Bộ 25,8%, Tây Bắc 38,1%.Tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2006-2010, đến cuối năm 2010, vẫn còn 58 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó có 27 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 60%, 10 huyện trên 70% và 1 huyện trên 80%. Cả nước có hơn 3 nghìn xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25% (trong đó có 1.378 xã thuộc Chương trình 135). Thứ ba, rủi ro tái nghèo vẫn còn cao. Ba nhóm dân cư sau đây luôn xảy ra hiện tượng tái nghèo: Nhóm thứ nhất bao gồm những hộ nghèo mà thu nhập dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần túy, sống ở vùng ven biển, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những vùng không chỉ hay phải đối mặt với thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, mà đang phải đối mặt với tình trạng giảm đất nông nghiệp do quá trình đô thị hóa. Nhóm thứ hai là nhóm người nghèo, trong đó đa số là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, hải đảo, những nơi khó tiếp cận nguồn lực để sản xuất cũng như tiếp cận các dịch vụ xã hội. Nhóm thứ ba bao gồm dân nghèo thành thị. Đó là những người có 14
  15. trình độ học vấn và chuyên môn thấp, người lao động di cư từ nông thôn hoặc nông dân mất đất do đô thị hóa. Sự chênh lệch về thu nhập giữa các vùng chứng tỏ chính sách tăng trưởng thông qua tạo nhiều việc làm có giá trị gia tăng thấp tuy có tác động giảm nghèo, nhưng khó thu hẹp được khoảng cách thu nhập giữa vùng nghèo với vùng giàu. Vì vậy, cần đặt mục tiêu tăng năng suất lao động (NSLĐ) ngay cả trong nhóm dân số nghèo và vùng nghèo để tăng thu nhập một cách bền vững. 2.2.2 Tăng trưởng với sự gia tăng bất bình đẳng Thứ nhất, cùng với quá trình theo đuổi các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các vùng, miền, giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng ngày càng gia tăng. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trên cả 3 khía cạnh đánh giá bất công bằng trong phân phối thu nhập mà các tổ chức quốc tế đang sử dụng: (i) Khoảng giãn cách thu nhập giữa hai đầu giầu và nghèo ngày càng xa Khoảng dãn cách thu nhập đo bằng Hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất (20%) và nhóm hộ thu nhập thấp nhất (20%) ngày càng gia tăng (Biểu đồ dưới): 8.9 9 8.34 8.08 8.37 8.19 8.3 8.1 8.03 8 6.9 7 6.36 6.52 5.97 6 5 Cả nước 4 Thành thị Nông thôn 3 2 1 0 2002 2004 2006 2008 Đồ thị 6: Hệ số giãn cách thu nhập ở Việt Nam 2002-2008 Nguồn: Kết quả VHLSS 2002,2004,2006,2008 TCTK. Thực tế cho thấy, nếu năm 1990, sự cách biệt về thu nhập của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần, năm 1995 là 7,0 lần, thì năm 2008 lên tới 8,9. Hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm hộ thu nhập thấp nhất ở khu vực thành thị cao hơn ở nông thôn (năm 2002: thành thị là là 8,0 lần, nông thôn 6 lần; năm 2004 là 8,1 và 6,4 lần; năm 2006 là 8,2 lần và 6,5 lần, năm 2008 là 8,3 và 6,9). Theo vùng lãnh thổ, chênh lệch cao nhất năm 2008 là ở Đông Nam Bộ (8,8 lần), thấp nhất là ở Bắc Trung Bộ (6,3 lần). 15
  16. (ii) Tỷ trọng thu nhập của những người nghèo nhất (theo tiêu chí của WB là thu nhập của 40% dân số có thu nhập thấp nhất) có xu hướng ngày càng thấp đi trong tổng thu nhập dân cư Số liệu thống kê từ các cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình của Việt Nam (VHLSS) các năm cho thấy, tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với các nhóm còn lại giảm dần: năm 1995 là 21,1%, năm 1999 là 17,98%, năm 2002 là 17,4%, năm 2004 là 17,4%, năm 2006 là 17,37% và năm 2008 còn là 15,1%. Điều này cho thấy mức bình đẳng tương đối về thu nhập có xu hướng xấu đi, chúng ta đã bị chuyển từ nhóm nước có mức độ công bằng xã hội cao sang nhóm nước có mức độ công bằng xã hội vừa. (iii) Sự bất bình đẳng chung có xu hướng gia tăng rõ ràng Đo lường bất bình đẳng theo hệ số GINI cho thấy xu hướng của hệ số này ở Việt Nam tăng lên, nhất là sau những năm 2000: năm 1995 là 0,357; năm 1999 là 0,370; năm 2002 là 0,378; năm 2004 là 0,38; năm 2006 là 0,388 và năm 2008 là 0,4. Điều này chứng tỏ sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư vẫn chưa có chiều hướng được cải thiện. (iv) Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, điện nước, vệ sinh, đồ dùng lâu bền... còn rất lớn. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn cao gấp đôi ở thành thị, số người nghèo ở nông thôn chiếm trên 90% tổng số hộ nghèo của cả nước. Tóm lại: Bất bình đẳng thu nhập gia tăng cho thấy rằng thành quả của tăng trưởng đã không được phân bổ đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Thực tế này đặt ra câu hỏi: Có bao nhiêu phần trăm dân số Việt Nam có thu nhập ít nhất là ngang bằng với mức thu nhập bình quân đầu người? Nếu tỷ lệ này là cao thì việc vượt ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp mới thực sự có ý nghĩa. Kết hợp với các số liệu về tỷ lệ nghèo ở trên ở các vùng trong cả nước, cho thấy tỷ lệ người sống dưới mức vượt ngưỡng nước nghèo còn khá lớn. Chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa cho mục tiêu vượt ngưỡng nghèo đích thực. Thứ hai, so với tiêu chuẩn quốc tế đặt ra thì mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vẫn còn ở mức chấp nhận được. Giãn cách thu nhập Tiêu chuẩn “40” Hệ số GINI Tiêu chuẩn quốc tế - Bất công bằng cao Trên 10 lần Dưới 12% Trên 0,5 - Bất công bằng vừa Trên 8 lần đến 10 Từ 12% đến 17% Từ 0,4 đến 0,5 - Bất công bằng thấp Dưới 8 lần Trên 17% Nhỏ hơn 0,4 Việt Nam - 2002 8,1 17,4 0,378 - 2004 8,34 17,4 0,38 - 2006 8,37 17,34 0,388 16
  17. - 2008 8,9 15,1 0,4 Bảng 5: So sánh chỉ số bất công bằng trong phân phối thu nhập của Việt Nam với chuẩn quốc tế Nguồn: Tính toán từ Kết quả VHLSS 2002,2004,2006,2008 TCTK. Bảng số liệu trên cho thấy mặc dù sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tăng lên ở Việt Nam, nhưng so với các chuẩn quốc tế, được quy định bởi WB thì sự phân hóa giầu nghèo của chúng ta vẫn còn nằm ở ngưỡng bất công bằng chấp nhận được (ở mức bất công bằng vừa). Có được điều này là là bởi vì trong giai đoạn 2001-2010, chúng ta thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội lần thứ 2 với quan điểm chủ đạo là: (1) kết hợp tăng trưởng nhanh với giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển kinh tế - xã hội; và (2) coi vấn đề kinh tế là trung tâm. Với quan điểm (2) nhằm mục tiêu xây dựng các động lực tăng trưởng và tạo dựng các yếu tố vật chất cần có, chúng ta phải chấp nhận có sự phân hóa nhất định trong phân phối thu nhập; với quan điểm (1) thì sự phân hóa của chúng ta vẫn luôn được duy trì ở mức độ chấp nhận được. 2.2.3 Tăng trưởng với các yếu tố cấu thành chỉ số phát triển con người Trình độ phát triển con người được xem xét qua chỉ số HDI, mục tiêu của tăng trưởng và phát triển kinh tế phải là cải thiện chỉ số này.Liên quan đến các chỉ số bộ phận trong chỉ số phát triển con người, một số đánh giá sau đây đã được các tổ chức quốc tế khẳng định đối với Việt Nam: (i) Về thu nhập: Trong thời gian qua Việt Nam đã có nhiều tiến bộ về tăng trưởng kinh tế và chỉ số thu nhập trong HDI cũng được cải thiện đáng kể. Chúng ta đã đứng thứ 8 trên thế giới trong danh sách các quốc gia đạt nhiều tiến bộ nhất trong cải thiện chỉ số thu nhập (Bảng dưới). Cải thiện về Thứ tự HDI HDI phi thu nhập Thu nhập 1 Oman Oman Trung Quốc 2 Trung Quốc Nepal Botswana 3 Nepal Ả rập Xê út Hàn Quốc 4 Indonesia Lybi Hồng Kông, TQ 5 Ả rập Xê út Angeri Malaysia 6 CHDCND Lào Tunisia Indonesia 7 Tunisia Iran Malta 8 Hàn Quốc Ethiopia Việt Nam 9 Angeri Hàn Quốc Mauritius 10 Morocco Indonesia Ấn Độ 17
  18. Bảng 6: Danh sách các nước có nhiều cải thiện trong HDI Nguồn: Báo cáo PTCN năm 2010 Kết quả là hàng triệu người Việt Nam thoát khỏi nghèo đói về thu nhập và Việt Nam đã thoát khỏi danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên gấp 5 lần sau 4 thập niên vừa qua. Giai đoạn 2001-2010, mức thu nhập bình quân đầu người đã tăng xấp xỉ 3 lần. Tuy nhiên: - GDP bình quân đầu người vẫn ở mức thấp nhất trong khu vực Tính thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD (theo tỷ giá hối đoái bình quân) năm 2010 của Việt Nam đạt khoảng 1170 USD. Tuy vậy, hiện tại còn thấp xa so với các con số tương ứng của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á (Singapore 37.597,3 USD, Brunei 35.623 USD, Malaysia 8.209,4 USD, Thái Lan 4.042,8 USD, Indonesia 2.246,5 USD, Philippines 1.847,4 USD). GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 42,8%, con số tương ứng của khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 7/11 nước; bằng 26% con số tương ứng của châu Á và đứng thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh; bằng 11,7% con số tương ứng của thế giới và đứng thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh. - Mức thu nhập thực của dân cư có xu hướng giảm đi cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế. Kết quả của tăng trưởng GDP đã góp phần làm gia tăng thu nhập bình quân đầu người khá nhanh. Tuy vậy, nếu xét gia tăng thực về mức thu nhập bình quân đầu người, tức là lấy tốc độ tăng thu phận bình quân đầu người trừ đi tỷ lệ lam phát, kết quả cho thấy, mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người có xu hướng tăng chậm dần và những năm cuối có xu hướng giảm đi. Tốc độ tăng Tốc độ tăng GDP/người Tỷ lệ lạm phát Năm GDP/người GDP/người thực (USD) (%) (%) (%) 2005 640 2006 725 13,3 6,6 +6,7 2007 835 15,1 12,6 +2,5 2008 1052 25,9 22,9 +3 2009 1064 1,1 6,88 - 5,78 2010 1170 9,9 11,2 - 1,3 Bảng 7: Mức tăng GDP/người thực Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ KH&ĐT Thêm vào đó, tăng trưởng bình quân tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong thời kỳ 2006- 2010 là 13,3%; trong khi tăng trưởng GDP bình quân tương ứng chỉ là 7,01%. Với tăng 18
  19. trưởng dựa trên số lượng như giai đoạn vừa qua, sức ép lạm phát lên nền kinh tế là khó tránh khỏi. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2011, nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi nên sản xuất sẽ tăng lên; giá nguyên nhiên vật liệu cũng tăng. Trong khi Việt Nam là nước phải nhập khẩu tới trên 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất ra hàng hóa, việc tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới chắc chắn sẽ tác động mạnh mẽ đến việc tăng giá tại Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta càng dốc sức vào tăng trường kinh tế theo mô hình hiện trạng thì mức sống thực của người dân cũng chưa khẳng định được có lên được hay không, và xét theo xu hướng trên thì có nguy cơ càng tăng trưởng, mức sống thực cảu người dân lại có xu hướng giảm đi (ii) Về y tế và chăm sóc sức khỏe: 4 thập kỷ Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ đáng khích lệ, tuổi thọ bình quân tăng đáng kể. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đã tăng từ 49 tuổi vào năm 1970 lên 75 tuổi vào 2010, đứng thứ 59/174 nước xếp loại, cao hơn so với Thái Lan (69,3), Philippines (72,3) và tuổi thọ bình quân ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (72,8). (iii) Về giáo dục: Nếu như Việt Nam được đánh giá cao về tốc độ gia tăng thu nhập và tuổi thọ bình quân thì chỉ số liên quan đến giáo dục lại bị xem như là chậm có sự thay đổi. Số năm đi học trung bình tăng 1,5 năm trong thời gian từ 1990 – 2010, nhưng từ năm 2000, tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục đã chậm lại. Năm 2010, số năm đi học trung bình của Việt Nam mới chỉ đạt con số 5,5, thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực, thấp hơn nhiều so với Thái lan (6,6), Trung Qốc (7,5) và Philipine (8,7), thấp hơn cả Campuchia (5,8), Indonesia (5,7). Trong 5 năm qua, số năm đi học dự kiến chỉ tăng rất ít từ 10,3 năm lên 10,4 năm. Học sinh Việt Nam dự kiến tiếp tục đi học ít hơn 3 năm so với học sinh ở Thái Lan và ít hơn 2 năm so với học sinh ở Malaysia. Theo lời của ông Rodriquez, cố vấn về chính sách kinh tế của UNDP, nếu xét riêng một số lĩnh vực thì “giáo dục Việt Nam không được tốt so với nhiều nước khác, đặc biệt là giáo dục phổ thông”. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế còn ít có quan hệ tác động tới giáo dục, đặc biệt ở những nước có mức HDI thấp và trung bình như Việt Nam. Với kết quả đạt được theo các tiêu chí nói trên, trình độ phát triển con người của Việt Nam năm 2010 được đánh giá qua bảng sau đây: Tổng thu Xếp hạng Điểm số Tuổi Số năm Số năm Điểm nhập quốc GNI bình Xếp Chỉ số phát thọ đi học đi học số HDI dân (GNI) quân đầu hạng triển con bình trung dự ngoài bình quân người trừ HDI người quân bình kiến thu đầu người đi xếp hạng (HDI) (năm) (năm) (năm) nhập (PPP 2008 $) HDI 19
  20. Hàn Quốc 12 0.877 79.8 11.6 16.8 29,518 16 0.918 Xingapo 27 0.846 80.7 8.8 14.4 48,893 –19 0.831 Malaixia 57 0.744 74.7 9.5 12.5 13,927 –3 0.775 Trung Quốc 89 0.663 73.5 7.5 11.4 7,258 –4 0.707 Xri-lan-ca 91 0.658 74.4 8.2 12 4,886 10 0.738 Thái Lan 92 0.654 69.3 6.6 13.5 8,001 –11 0.683 Philippin 97 0.638 72.3 8.7 11.5 4,002 12 0.726 Inđônêxia 108 0.6 71.5 5.7 12.7 3,957 2 0.663 Việt Nam 113 0.572 74.9 5.5 10.4 2,995 7 0.646 Ấn độ 119 0.519 64.4 4.4 10.3 3,337 –6 0.549 Lào 122 0.497 65.9 4.6 9.2 2,321 3 0.548 Campuchia 124 0.494 62.2 5.8 9.8 1,868 12 0.566 Bănglađet 129 0.469 66.9 4.8 8.1 1,587 12 0.543 Bảng 8: Chỉ số phát triển con người Việt Nam so với một số nước châu Á, 2010 Nguồn: Báo cáo PTCN Liên Hợp Quốc, 2010 Như vậy là: - Việt Nam đứng thứ 113/169 nước về trình độ phát triển con người, được xếp loại trung bình thấp, và thấp hơn phần lớn các nước trong khu vực Đông Nam Á. Trong các quốc gia khu vực Đông Nam Á, có 2 quốc gia nằm trong nhóm phát triển con người rất cao là Singapore - thứ 27 (0,846 điểm) và Brunel - thứ 37 (0,805 điểm); 1 quốc gia nằm trong nhóm phát triển con người cao là Malaysia - thứ 57 (0,744 điểm); 7 quốc gia nằm trong nhóm phát triển con người trung bình là Thái Lan - thứ 92 (0,654), Philippines - thứ 97 (0,638 điểm), Indonesia - thứ 108 (0,600 điểm), Việt Nam - thứ 113 (0,572 điểm), Đông timor - thứ 120 (0,502 điểm), Lào - thứ 122 (0,497 điểm), Campuchia - thứ 124 (0,494 điểm); và cuối cùng là Myamar - thứ 132 (0,451 điểm), thuộc nhóm phát triển con người thấp (Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc năm 2010) - Thứ hạng về phát triển con người của Việt Nam không cao bị chi phối bởi yếu tố thu nhập là chính. Do xuất phát điểm thấp nên chúng ta mặc dù đã là 1 trong 10 nước đạt được thành tựu to lớn về tăng trưởng thu nhập nhưng vẫn chỉ có một mức thu nhập bình quân đầu người ở mức rất khiêm tốn, đứng thứ 120/169 trên thế giới, chúng ta vẫn nằm trong tốp những nước nghèo nhất của khu vực Đông Á. Mức thu nhập của Việt Nam cũng còn kém xa so với những quốc gia “con hổ” châu Á truyền thống như Hàn Quốc. Ngay cả Trung Quốc cũng có mức thu nhập cao hơn Việt Nam gấp hơn hai lần. Vì thế điểm số về thu nhập vẫn làm giảm đáng kể giá trị trị số HDI của Việt Nam. Nếu không kể yếu tố thu nhập thì HDI ngoài thu nhập của chúng ta đạt 0,646 (trong khi HDI có tính đến thu nhập thì chỉ đạt 0,572). 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2