intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Hóa sinh đại cương: Lịch sử phát triển và ứng dụng của xà phòng và chất tẩy rửa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

28
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Hóa sinh đại cương "Lịch sử phát triển và ứng dụng của xà phòng và chất tẩy rửa" có nội dung tìm hiểu về lịch sử phát triển; Phân loại, cơ chế tác động của xà phòng và chất tẩy rửa; Tìm hiểu một số ứng dụng của xà phòng và chất tẩy rửa. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết tài liệu tại đây nhé!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Hóa sinh đại cương: Lịch sử phát triển và ứng dụng của xà phòng và chất tẩy rửa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI Viện kỹ thuật hóa học ⁘⁘⁘ TIỂU LUẬN HÓA SINH ĐỀ TÀI: Lịch sử phát triển và ứng dụng của xà phòng và  chất tẩy rửa Giảng viên hướng dẫn: T.S Giang Phương Ly Sinh viên thực hiện Đặng Thị Lan Lớp HH02 MSSV 20174826 Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2020
  2. Xà phòng và chất tẩy rửa MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................1
  3. Xà phòng và chất tẩy rửa MỞ ĐẦU Từ  xa xưa, con người đã biết sử  dụng các chất có khả  năng tẩy rửa từ  thiên  nhiên như  tro, trấu, bồ  kết, quả  bồ  hòn, chanh, muối,… để  vệ  sinh đồ  vật.   Các  bằng chứng khảo cổ học còn cho thấy xà phòng còn được sử  dụng từ  những năm  2800 trước công nguyên. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của con người, các   sản phẩm tẩy rửa đã dần được phát hiện và phát triển.  Xã hội ngày nay đang ngày  càng phát triển,song song với đó là nhu cầu tăng cao về  vật chất và tinh thần. Xà  phòng và chất tẩy rửa là thứ  không thể  thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Nó xuất   hiện hầu như trong mọi công việc, trong đời sống sinh hoạt hay trong quy mô công   nghiệp. Xà phòng và chất tẩy rửa là các chất khi hòa tan trong nước có khả  năng   loại bỏ  bụi bẩn khỏi các bề  mặt như  da người, hàng dệt may và các chất rắn   khác.Từ thời xa xưa con người đã biết cách sử dụng và sản xuất xà phòng... Xã hội  ngày nay đang càng phát triển, do nhu cầu đáp  ứng ngày càng tăng. Trước đây, xà  phòng được dùng để  tẩy rửa, giặt giũ, nhưng với một số  nhược điểm như  không  thể  giặt trong nước có chứa hàm lượng Ca và Mg cao, có thể  gây hư  hại cho sản   phẩm mà chất tẩy rửa tổng hợp ngày càng được phát triển. Yêu cầu về chất lượng,  nguyên liệu chế  tác xà phòng và những yêu cầu không thể  đáp  ứng được cho đến  năm 1916, khi các chất tẩy rửa tổng hợp đầu tiên được phát trển ở Đức để đáp ứng  cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất – liên quan đến sự thiếu hụt chất béo để làm   xà phòng, dùng để tẩy rửa và làm sạch các vật dụng, chúng được “tổng hợp” hoặc  kết hợp từ các nguyên liệu hóa chất khác. Xà phòng, chất tẩy rửa có mặt hầu như  trong tất cả các công việc trong cuộc sống như tắm gội, rửa tay, nước tẩy rửa chén   bát, bột giặt,.... có thể  loại bỏ  vi khuẩn, vết bẩn một cách nhanh chóng. Cho đến  ngày nay, xà phòng và chất tẩy rửa, các sản phẩm xà phòng và chất tẩy rửa ngày  càng được cải biến và đưa vào các mục đích sử dụng khác nhau. Ngày nay, với sự  phát triển của công nghệ, các nhà khoa học đã điều chế ra nhiều loại hóa chất tẩy   rửa phục vụ đời sống con người có tác dụng nhanh chóng và mạnh mẽ  hơn, ngoài   ra hiện nay các sản phẩm chất tẩy rửa còn được bổ  sung enzym có hoạt tính tẩy  cao mà không gây hại cho da tay và môi trường. 3
  4. Xà phòng và chất tẩy rửa Trong xã hội hiện đại ngày nay, xà phòng còn được cải biến có tác dụng chăm  sóc da, loại bỏ vi khuẩn, các chất tẩy rửa có thể  tẩy trắng, màn lại nhiều sự  hữu  ích. Xu thế hiện tại là, để bảo vệ môi sinh, người ta thiên về sản xuất và sử dụng   các CHẤT TẨY RỬA với các phụ gia dễ bị phân huỷ sinh học, ít độc.  Xà phòng và   chất tẩy rửa có thể được đánh giá là không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Với các lý do đó em xin trình bày đề tài “nguồn gốc và ứng dụng của xà phòng  và chất tẩy rửa” I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN Có nhiều truyền thuyết khác nhau xung quanh nguồn gốc của xà phòng. Theo   truyền thuyết La Mã, xà phòng (Soap) được đặt theo tên của núi Sapo, một địa danh  cổ  xưa nơi người ta thực hiện nghi lễ hiến tế động vật. Sau nghi lễ  hiến tế động   vật, mưa làm rửa trôi mỡ  và tro củi dưới bàn thờ  xuống bờ  sông. Những phụ  nữ  giặt giũ quần áo trên sông nhận thấy nếu họ giặt quần áo tại một số nơi nhất định   trên sông sau mỗi cơn mưa to, thì quần áo sạch hơn rất nhiều. Điều này có thể  lý   giải là tro củi chứa kiềm sau khi kết hợp với chất béo của mỡ động vật gặp nước  mưa gây ra phản  ứng xà phòng hóa, tạo ra xà phòng. Đó chính là nguồn gốc xuất  hiện của xà phòng. Một chất liệu giống như xà phòng có trong các trụ  đất sét được tìm thấy trong  quá trình khai quật thành cổ  đại Babylon là bằng chứng cho thấy việc sản xuất xà   phòng được biết đến từ 2800 năm trước công nguyên. Chữ khắc trên các trụ đất sét  mô tả rằng chất béo được nấu cùng tro củi là một phương pháp làm xà phòng. Vào thế  kỷ  thứ  hai, sau công nguyên, các thầy thuốc Hy Lạp đề  nghị  dùng xà   phòng cho hai mục đích là chữa bệnh và làm vệ sinh.Mãi cho đến thế kỷ thứ 7, thợ  làm xà phòng bắt đầu xuất hiện tại Tây Ban Nha và Ý, tại đó người ta làm xà phòng   từ mỡ dê và tro than gỗ sồi. Cùng thời kỳ đó, người Pháp sử dụng dầu Olive để làm  xà phòng. Cuối cùng nước hoa được biết đến, và bắt đầu xuất hiện các loại xà  phòng chuyên dùng cho tắm, gội, cạo râu, giặt giũ. Đến đầu thế  kỷ  19, sản xuất xà phòng là một trong những ngành công nghiệp   phát triển nhanh nhất  ở Mỹ. Nông dân Mỹ  làm xà phòng tự  chế, sử dụng một quy   4
  5. Xà phòng và chất tẩy rửa trình có từ thời thuộc địa. Họ tích trữ tro củi tận dụng sau khi đun nấu trong nhiều   tháng. Khi nào đủ chất béo còn dư thừa sau mỗi lần mổ lợn, họ sẽ làm xà phòng. Khoa học sản xuất xà phòng hiện đại ra đời khoảng 20 năm sau với phát hiện  của Michel Eugene Chevreul (một nhà hóa học người Pháp khác) về  bản chất hóa   học và mối quan hệ của chất béo, glycerine và axit béo. Các nghiên cứu của ông đã  thiết lập nền tảng cho cả hóa học chất béo và xà phòng. Hóa học của sản xuất xà phòng về  cơ  bản vẫn giữ  nguyên cho đến năm 1916,  để đáp ứng cho sự thiếu hụt chất béo liên quan đến Thế chiến I trong sản xuất xà   phòng, chất tẩy rửa đầu tiên đã được tổng hợp tại Đức. Chất tẩy rửa tổng hợp là  sản phẩm giặt và làm sạch mà không cần xà phòng, chúng được tạo ra từ các loại  hóa chất hoặc kết hợp hóa học từ nhiều loại nguyên liệu thô.Sản xuất chất tẩy rửa   gia dụng ở Bắc Mỹ cũng bắt đầu vào những năm 1930, nhưng không phổ  biến cho  đến sau Thế  chiến II. Do chiến tranh các nguồn cung cấp chất béo và dầu bị  gián  đoạn cũng như  nhu cầu của quân đội về  một chất tẩy rửa có thể  sử  dụng trong   nước biển giàu khoáng chất và trong nước lạnh đã tiếp tục kích thích nghiên cứu về  chất tẩy rửa. Các chất tẩy rửa đầu tiên được sử dụng chủ yếu để rửa tay và giặt các loại vải   tốt. Bước đột phá trong việc phát triển các chất tẩy rửa cho mục đích giặt đa năng  xuất hiện vào năm 1946, khi chất tẩy rửa được chế tạo có chứa chất kết hợp chất   hoạt động bề  mặt và các chất phụ  gia khác được giới thiệu  ở  Hoa Kỳ. Chất hoạt  động bề  mặt là thành phần làm sạch cơ  bản của sản phẩm tẩy rửa, trong khi đó  chất phụ  gia giúp chất hoạt động bề  mặt hoạt động hiệu quả  hơn.  Các hợp chất  photphat được sử dụng làm chất phụ gia trong các chất tẩy rửa đã cải thiện đáng kể  hiệu suất, làm chúng thích hợp hơn để làm sạch các đồ giặt bẩn. Đến   năm   1953,   doanh   số   bán   chất   tẩy   rửa   ở   Hoa   Kỳ   đã   vượt   qua   cả   xà  phòng. Bây giờ  các chất tẩy rửa có tất cả  trừ  các sản phẩm dựa trên xà phòng để  giặt, rửa chén và làm sạch hộ gia đình. Chất tẩy rửa (một mình hoặc kết hợp với xà  phòng) cũng được tìm thấy trong nhiều thanh và chất lỏng được sử  dụng để  làm   sạch cá nhân. 5
  6. Xà phòng và chất tẩy rửa Kể từ  những thành tựu ban đầu về  hóa chất tẩy rửa và hóa chất phụ trợ, hoạt  động sản xuất tiếp tục tập trung vào phát triển các sản phẩm làm sạch hiệu quả và   dễ sử dụng, cũng như an toàn cho người tiêu dùng và môi trường. Hình 1: Những người phụ nữ đang nấu xà phòng I. PHÂN LOẠI, CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG 1. Phân loại 1.1. Theo mục đích sử dụng: Hóa chất tẩy rửa sinh hoạt Hóa chất tẩy rửa công nghiệp 1.2. Theo nguồn gốc: Chất giặt rửa thiên nhiên: bồ kết, bồ hòn,... Chất giặt rửa nhân tạo (xà phòng) : là este của natri hoặc kaki với các axit   béo Chất giặt rửa tổng hợp: được tổng hợp từ  các giai đoạn của quá trình   dầu khí 2. Cơ chế tác động Nước là chất lỏng thường được sử dụng để  làm sạch, nó có một tính chất gọi  là sức căng bề mặt. Mỗi phân tử nước đều được bao quanh và thu hút bởi các phân   tử nước khác. Tuy nhiên, ở bề mặt, những phân tử đó được bao quanh bởi các phân  6
  7. Xà phòng và chất tẩy rửa tử nước khác chỉ ở phía mặt trên. Một lực căng được tạo ra khi các phân tử nước ở  bề  mặt được kéo vào phía trong nước.  Sự  căng này làm cho nước nổi lên trên các   bề  mặt (thủy tinh, vải), làm chậm  ướt bề  mặt và ức chế  quá trình làm sạch. Chất  nhờn, dầu mỡ  là những chất bẩn không phân cực. Chúng không tan trong nước, vì  vậy chỉ riêng nước sẽ không thể loại bỏ hết các chất bẩn này.  Nếu cho thêm xà phòng hoặc chất tẩy rửa vào đó.Chất tẩy rửa sẽ là những chất  khi cho vào trong nước có khả năng loại bỏ chất bẩn. Chúng làm sạch các chất bẩn   theo ba cách sau: làm giảm sức căng bề mặt của nước, làm cho nước tràn đều thay  vì tạo thành những giọt trên bề mặt, khiến các phần tử mỡ tan được trong nước và   giữ  cho hạt bụi bẩn đã được tách ra lơ  lửng trong nước. Chúng làm sạch các vết  bẩn dầu mỡ thông qua các phân tử được gọi là phân tử chất tẩy rửa. Phân tử  chất tẩy rửa (hình 2) là một phân tử  lớn chứa một mạch hydrocacbon   dài không phân cực gắn với một nhóm chức phân cực tại một đầu của phân tử.   Chúng hoạt động bằng cách làm cho đuôi ưa dầu thâm nhập vào vết dầu bẩn, đầu  ưa nước hướng ra ngoài các phân tử nước. Kết quả là vết dầu bị chia thành những  hạt rất nhỏ  được giữ chặt bởi các phân tử  của chất tẩy rửa. Trong nước các phân   tử  này co cụm vào với nhau để  tạo thành các micelle. Các micelle sẽ  giữ  cho các   giọt dầu mỡ hoặc chất bẩn lơ lửng trong nước. Hình 2: phân tử chất tẩy rửa Micelle Là một nhóm hình cầu của các phân tử chất tẩy rửa  ở trong nước. Các phân tử  dầu mỡ, chất bẩn được bao bọc trong các phân tử chất tẩy rửa. Do lực hút giữa các   đầu  ưa nước của phân tử  chất tẩy rửa với các phân tử  nước kéo chất tẩy rửa ra  cùng các vết bẩn dầu mỡ. Một micelle được hình thành khi vết dầu mỡ  hoặc chất  7
  8. Xà phòng và chất tẩy rửa bẩn được kéo ra khỏi bề  mặt. Các micelle sẽ  giữ  cho các giọt chất bẩn lơ  lửng   trong nước và không bám vào bề mặt vật và bị nước rửa trôi đi. Hình 3: Micelle Hình 4: Cơ chế tác động II.XÀ PHÒNG VÀ CHẤT TẨY RỬA TỔNG HỢP Chất tẩy rửa là những chất khi cho vào trong nước có khả năng loại bỏ các chất  bẩn. Tùy thuộc vào các phân tử tẩy rửa khác nhau mà chúng ta phân biệt hai loại là  xà phòng và chất tẩy rửa tồng hợp. Xà phòng là một loại chất tẩy rửa tuy nhiên có   rất nhiều loại chất tẩy rửa không phải là xà phòng. 1. Xà phòng 8
  9. Xà phòng và chất tẩy rửa Hình 5: Các bánh xà phòng Là   một   loại   chất   tẩy   rửa.   Nó   là   muối   của   Natri   hoặc   Kali   với   một   axit   cacboxilic mạch dài, như  axit octadecanoic, acid pamitic, acid oleic. Là sản phẩm  của phản  ứng xà phòng hóa. Xà phòng là muối natri hoặc kali tan trong nước của   axit béo. Xà phòng được làm từ  chất béo và dầu, hoặc axit béo của chúng, bằng   cách xử lý chúng bằng hóa chất với một chất kiềm mạnh. 1.1. Công thức: Hình 6: Một số phân tử xà phòng 1.2. Thành phần: Nguyên liệu và phụ gia Nguyên liệu chính để  sản xuất xà phòng là chất béo và kiềm. Các chất béo và   dầu được sử dụng trong sản xuất xà phòng đến từ  các nguồn động vật hoặc thực   vật. Mỗi chất béo hoặc dầu được tạo thành từ  một hỗn hợp đặc biệt của một số  chất béo khác nhau.Trong một phân tử  chất béo, ba phân tử  axit béo được gắn vào   một phân tử  glycerine. Có nhiều loại chất béo, mỗi loại bao gồm sự  kết hợp đặc  biệt của các axit béo. Kiềm Natri hydroxit (NaOH) được sử  dụng làm kiềm xà phòng hóa cho hầu hết các  loại xà phòng hiện được sản xuất. Xà phòng cũng có thể  được sản xuất vớikiềm  kali hydroxit(KOH). Xà phòng kali hòa tan trong nước nhiều hơn xà phòng natri,  ở  dạng cô đặc, được gọi là xà phòng mềm. Xà phòng kali được sản xuất  ở các nồng  độ khác nhau để sử dụng kết hợp với xà phòng natri trong các sản phẩm cạo râu và   trong ngành dệt may. Một số  vật liệu kiềm hầu như  có mặt trong xà phòng giặt, có chức năng làm  tăng chất tẩy rửa. Quan trọng nhất là natri silicat , natri cacbonat, natri perborate, và  các loại photphat khác nhau. 9
  10. Xà phòng và chất tẩy rửa Chất béo và dầu Nguyên liệu béo để sản xuất xà phòng bao gồm dầu động vật và thực vật, chất   béo hoặc axit béo, cũng có thể sử dụng sản phẩm phụ của ngành công nghiệp giấy   và cellulose, như nhựa thông và dầu cao. Bốn nhóm nguyên liệu thô này có thể được  phân biệt theo tính chất của các sản phẩm xà phòng mà chúng mang lại: Mỡ  động vật, mỡ  rác, dầu thực vật và dầu biển có độ  nóng chảy cao, và  dầu  cọ. Những chất béo này tạo ra xà phòng tạo ít bọt trong nước lạnh, nhiều hơn trong  nước  ấm; nhẹ  trên da; và làm sạch tốt. Đây là nhóm chất béo hàng đầu được sử  dụng trong ngành công nghiệp xà phòng quốc tế, chiếm vị trí quan trọng nhất. Chất béo rắn tạo ra xà phòng rửa nhanh bao gồm dầu dừa, dầu hạt cọ. Những   chất béo này không bị ảnh hưởng nhiều bởi chất điện giải, như muối;  do đó, chúng  thích hợp để sản xuất xà phòng biển, ngâm trong nước biển.  Đây là nhóm chất béo  xà phòng quan trọng thứ hai, với dầu dừa được sử dụng nhiều nhất. Dầucho ra xà phòng có độ mềm, chẳng hạn như dầu ô liu, dầu đậu nành và dầu   lạc, dầu hạt lanh. Những loại dầu này dễ dàng trải qua những thay đổi trong không  khí hoặc ánh sáng hoặc trong quá trình bảo quản, xà phòng làm từ chúng có thể bị ôi   và đổi màu. Nhựa thông và dầu cao (sản phẩm phụ  của sản xuất bột gỗ  hóa học) là một  nhóm. Nhựa thông được sử  dụng trong xà phòng giặt, xà phòng ít tốn kém và xà  phòng đặc biệt trong các ngành công nghiệp khác nhau. Dầu cao chủ yếu được sử  dụng trong xà phòng lỏng. Axit béo là thành phần của chất béo và dầu được sử  dụng trong sản xuất xà  phòng. Chúng là các axit yếu bao gồm hai phần: một chuỗi hydrocarbon mạch thẳng   dài có thể no hoặc không no gắn vào nhóm axit cacboxylic (COO­). . 10
  11. Xà phòng và chất tẩy rửa (a) (b) Hình 7: (a): một phân tử chất béo   (b): một số axit béo Các chất khác cũng được thêm vào chẳng hạn như  chất tạo mùi thơm, chất  dưỡng da,.... thường được thêm vào để có được các đặc tính cụ thể cho các loại xà   phòng 1.3. Sản xuất Vẫn được sử dụng rộng rãi bởi các nhà sản xuất vừa và nhỏ là quá trình đun sôi   cổ  điển. Mục tiêu của nó là sản xuất bánh xà phòng trong điều kiện tinh khiết,  không chứa glycerin. Các bánh xà phòng là nguyên liệu ban đầu để tạo ra các thanh,  vảy, hạt và bột. Quá trình đun sôi được tiến hành theo một loạt các bước, quá trình   nấu được thực hiện trong nhữngnồi nấu to.   Đầu tiên, chất béo được nấu chảy trong các nồi nấu và dung dịch kiềm được  thêm vào dần dần. Toàn bộ  hỗn hợp sau đó được đun sôi với hơi nước mở từ các   ống được đặt trong nồi. Phản ứng xà phòng hóa diễn ra, hỗn hợp dần dần dày lên   hoặc nhũ hóa khi kiềm phản ứng với chất béo để tạo ra xà phòng và glycerin. Để tách glycerin khỏi xà phòng, hỗn hợp được xử lý bằng nước muối. Chúng sẽ  tách thành 2 lớp; lớp trên là một khối xà phòng không tinh khiết và lớp dưới bao   gồm dung dịch muối với glycerin hòa tan trong đó. Cơ sở của việc loại bỏ glycerin  dựa trên độ  hòa tan của glycerin và tính không tan của xà phòng trong dung dịch  muối. Dung dịch muối chứa kiềm, , được chiết xuất từ đáy nồi sau đó được xử  lý   để thu hồi glycerin. Khối xà phòng lớp trên sau khi xử lý bằng nước muối có chứa bất kỳ chất béo   còn dư chưa phản ứngcùng với bụi bẩn và chất màu có trong dầu gốc sẽ được tiếp  tục xử  lý bằng dung dịch kiềm mạnh. Dung dịch kiềm mạnh được thêm vào hỗn  hợp, sau đó được đun sôi để  loại bỏ  chất béo tự  do cuối cùng. Sau đó sản phẩm  được sử lý với nước muối lần nữa để thu lấy xà phòng. Sau khi hoàn thành quá trình sản xuất, các sản phẩm xà phòng được xử  lý tùy   theo mục đích sử dụng. Như xà phòng giặt, khối xà phòng được làm mát sau đó cắt   11
  12. Xà phòng và chất tẩy rửa theo kích thước và đóng dấu. Nếu là xà phòng vệ  sinh, sản phẩm sẽ  được xử  lý   bằng nước hoa, thêm màu sắc, hoặc các chất siêu mịn. Hay như  xà phòng thuốc   thường là xà phòng vệ  sinh có chất phụ  gia đặc biệt là clo hóa phenol, dẫn xuất   xylenol và các hợp chất tương tự được thêm vào để tạo ra tác dụng khử mùi và khử  trùng. Hoặc kem cạo râu dựa trên sự kết hợp xà phòng kali và natri. Hình 8 : phương trình phản ứng xà phòng hóa 1.4. Tính độc hại với môi trường, hạn chế của xà phòng Xà phòng tạo thành cặn và kết tủa trong nước cứng. Trong cuộc sống sinh hoạt  có thể  để  lại một vòng cặn xung quanh bồn tắm, cặn trắng trên dụng cụ  thủy  tinh và các kết tủa dính trong nước rửa của bồn giặt. Nếu sử dụng để  gội đầu tóc  có thể xỉn màu, không bóng sau khi gội đầu, các đốm vàng xuất hiện sau khi giặt ủi  nếu sử  dụng nhiều xà phòng trong gia đình. Tất cả  những hiện tượng này chỉ  ra  một khiếm khuyết nghiêm trọng của xà phòng.Mặc dù xà phòng là một chất làm   sạch tốt, nhưng hiệu quả  của nó bị  giảm khi sử  dụng trong nước cứng. Độ  cứng  trong nước là do sự hiện diện của các muối khoáng như  canxi (Ca) và magiê (Mg)  và đôi khi là sắt (Fe) và mangan (Mn).  Các muối khoáng phản ứng với xà phòng tạo  thành kết tủa không hòa tan. Xà phòng cũng phản  ứng với gốc axit của các  hợp  chất axit để tạo thành cặn, thành màng khó rửa sạch.Hay ngay cả khi quần áo được   giặt trong nước mềm, một số  khoáng chất có trong đất bám trên quần áo cũng có   thể tạo kết tủa khi giặt. Hơn nữa, các phân tử  xà phòng cũng không thể  thích nghi  với nhiều loại sợi, nhiệt độ giặt và điều kiện nước ngày nay. Tuy nhiên, xà phòng được tạo từ  các acid béo có mạch C thẳng, chúng dễ  bị  phân hủy bởi các vi sinh vật, vì vậy chúng an toàn với môi trường. 2. Chất tẩy rửa tổng hợp: 12
  13. Xà phòng và chất tẩy rửa Hình 9: một số chất tẩy rửa tổng hợp Các chất tẩy rửa tổng hợp là các chất được sản xuất từ các sản phẩm phụ của  quá trình tinh chế  dầu mỏ. Chúng có tính chất giặt rửa tương tự  như  xà phòng  nhưng chúng không phải là xà phòng do chúng có phân tử chất tẩy rửa khác với xà   phòng. 2.1. Phân loại: Chất tẩy rửa anion Trong số các chất tẩy rửa tổng các loại hoạt tính anion là quan trọng nhất.  Phân  tử của chất tẩy tổng hợp có hoạt tính anion là một chuỗi carbon dài mà một nhóm  sulfo (―SO 3 ) được gắn vào, tạo thành phần tích điện âm (anion).  Chuỗi carbon  này phải có cấu trúc sao cho một nhóm sulfo có thể được gắn dễ dàng. Chất tẩy rửa anion điển hình là  các alkyl benzensulfonate. Hình 10: một số phân tử chất tẩy rửa tổng hợp Chất tẩy rửa không ion Các chất tẩy rửa không ion quan trọng nhất thu được bằng các hợp chất ngưng  tụ có nhóm phân tử kỵ nước, thường là nhóm hydroxyl (OH), hoặc oxit ethylen,  oxit  propylen. Các hợp chất thông thường nhất là alkylphenol hoặc rượu chuỗi dài có   nhóm hydroxyl ở cuối phân tử.  Các   chất   tẩy   rửa   không   ion   khác   được   ngưng   tụ   từ axit   béo và   amin   hữu  cơ. Chúng rất quan trọng như chất  ổn định bọt trong các chế phẩm tẩy rửa và dầu   gội lỏng. 13
  14. Xà phòng và chất tẩy rửa Hình 11: nonyl phenol – một loại chất tẩy rửa không ion. Chất tẩy cation Các chất tẩy cation tương tự  như  các chất anion, với thành phần  ưa  nước,   nhưng, thay vì nhóm sulfonate anion, các chất hoạt động bề  mặt cation có amoni  bậc 4 trung tâm amoni tích điện dương. Hình 12: diethyl ester dimethyl amonium clorua 2.2. Nguyên liệu Các chất hoạt động bề  mặt là thành phần làm sạch cơ bản của một sản phẩm  tẩy rửa.Ngoài ra để tăng hiệu quả tẩy rửa, làm sạch chất tẩy rửa còn thêm các phụ  gia khác như chất là trắng, chất trợ màu, chất thơm,... Chất tẩy rửa là một sản phẩm làm sạch hiệu quả  vì nó chứa một hoặc nhiều   chất hoạt động bề mặt. Do tính chất hóa học, các chất hoạt động bề mặt được sử  dụng trong chất tẩy rửa có thể  được thiết kế  để  hoạt động tốt trong nhiều điều  kiện khác nhau. Các chất hoạt động bề mặt như vậy ít bị ảnh hưởng hơn xà phòng  khi gặp các khoáng chất trong nước cứng và hầu hết sẽ không tạo thành màng, cặn. Các chất hoạt động bề  mặt chất tẩy rửa được phát triển để  đáp ứng sự  thiếu  hụt chất béo và dầu động vật và thực vật trong Thế  chiến I và Thế  chiến II. Vào   thời điểm đó, dầu mỏ  được tìm thấy là một nguồn dồi dào để  sản xuất các chất   hoạt động bề. Ngày nay, chất hoạt động bề mặt trong chất tẩy rửa được làm từ các   sản phẩm phụ của quá trình hóa dầu hoặc các hóa chất có nguồn gốc từ chất béo và   dầu. Một số  chất hoạt  động bề  mặt được sử  dụng: tri phosphat (tripolyphosphat   TPP), EDTA (etylen Diamin Tetra­acetat), NTA (Nitrilo Tri­acetic) … EDTA (ethylenediaminetetraacetic acid) hoặc muối natri của nó có đặc tính kết  hợp với các ion kim loại nhất định để tạo thành một phức hợp phân tử ion kim loại  14
  15. Xà phòng và chất tẩy rửa như magie, canxi.. để nó không còn thể hiện tính chất ion.  Do đó, trong nước cứng,  các ion canxi và magiê bị bất hoạt, và nước được làm mềm hiệu quả.  EDTA có thể  tạo thành các phức tương tự với các ion kim loại khác. Ngoài ra trong các sản phẩm tẩy rửa còn có các thành phần phụ khác như: Chất mài mòn Các khoáng chất không hòa tan trong nước như bột talc (magie silicate), silica, đá   cẩm thạch, đá bọt, phấn, , thạch anh và cát thường được nghiền thành bột và thêm   vào công thức chất tẩy rửa tổng hợp . Chất mài mòn có tính chất hữu cơ, như mùn  cưa, cũng được sử dụng. Chất tẩy trắng quang học Là một phần không thể thiếu của tất cả các loại bột giặt, chất làm sáng quang  học là thuốc nhuộm được hấp thụ  bởi sợi dệt từ  dung dịch nhưng sau đó không  được loại bỏ  trong quá trình giũ. khiến sợi quang phản xạ  một tỷ lệ lớn hơn của   ánh sáng khả kiến và làm cho nó trông sáng hơn.  2.3. Quy trình sản xuất Các hợp chất hữu cơ (rượu béo hoặc alkylbenzene) được chuyển thành chất tẩy  rửa hoạt động bề  mặt anion bằng quá trình sunfo hóa. Sự  khác biệt giữa chúng là  chất tẩy được sản xuất từ   rượu béo có nhóm phân tử  sulfate (―OSO3Na) và chất  tẩy được sản xuất từ  một loại alkylbenzene có nhóm sulfonate (―SO3Na) gắn trực  tiếp vào vòng benzen. Lưu huỳnh trioxide dạng khí hiện được sử dụng rộng rãi để  gắn nhóm sulfonate hoặc sulfate.  Hình 13:phản ứng sunfo hóa Số lượng lớn nhất của chất tẩy rửa tổng hợp được tiêu thụ trong gia đình dưới  dạng bột sấy phun. Chúng được sản xuất từ  dung dịch nước bùn , được chuẩn bị  liên tục hoặc theo lô và có chứa tất cả  các thành phần phụ  gia. Một số  vật liệu  kiềm được cho vào có tác dụng làm tăng hoạt động tẩy rửa. Quan trọng nhất là natri  silicat, natri cacbonat và các loại photphat khác nhau. Bùn được nguyên tử hóa trong   15
  16. Xà phòng và chất tẩy rửa nhiệt để loại bỏ nước. Do đó, bột thu được bao gồm các hạt rỗng, được gọi là hạt,  hòa tan nhanh trong nước. Natri perborate  đôi khi được thêm vào các hạt phun khô  để  tăng khả  năng làm sạch bằng quá trình oxy hóa. Enzym cũng có thể  được thêm  vào  để  tăng hoạt tính tẩy rửa, giảm bớt ô nhiễm môi trường. Nhiều loại bột giặt  hiện đại kết hợp chất tẩy rửa tổng hợp, anion và không ion, với xà phòng để mang  lại hiệu tối đa.  Chất tẩy bột được sản xuất bằng cách sấy phun, kết tụ, trộn khô hoặc kết hợp   các phương pháp này lại với nhau. Trong quy trình sấy phun, các thành phần khô và lỏng trước tiên được kết hợp   thành bùn, hoặc huyền phù dày, trong một bể  lớn. Bùn được làm nóng và sau đó   được bơm lên đỉnh tháp nơi nó được phun qua vòi phun dưới áp suất cao để tạo ra   những giọt nhỏ. Các giọt rơi qua một luồng không khí nóng, tạo thành các hạt rỗng  khi chúng khô. Các hạt khô được thu thập từ  dưới cùng của tháp phun, nơi chúng  được sàng lọc để đạt được kích thước tương đối đồng đều. Sau khi các hạt đã được làm lạnh, các thành phần nhạy cảm với nhiệt không   tương thích với nhiệt độ  sấy phun (như  thuốc tẩy, enzyme và hương thơm) được  thêm vào và tạo thành sản phẩm. 2.4. Ưu điểm so với xà phòng, hạn chế với môi trường Các chất tẩy rửa tổng hợp thường không bị ảnh hưởng hoặc rất ít bị ảnh hưởng   bởi muối hoặc axit kim loại; mặc dù chúng có thể phản ứng hóa học với chúng, các   hợp   chất   thu   được   có   thể   hòa   tan   hoặc   vẫn   phân   tán   ở   dạng   keo   trong   dung   dịch. Các đặc tính hữu ích khác của chất tổng hợp , như độ hòa tan trong nước lạnh  và tính linh hoạt trong công thức, cũng góp phần vào việc thay thế nhanh chóng các   sản phẩm xà phòng. Tuy   nhiên   một  tác   dụng   không   mong   muốn  của   các   sulfonate   alkylbenzene,   trái  ngược với các chất tẩy rửa tổng hợp có chứa chất béo và cồn, là một lượng lớn bọt  mà chúng tạo ra rất khó để loại bỏ. Bọt này vẫn còn tồn tại trên bề mặt nước thải  khi nó đi từ các khu dân cư qua cống thoát nước và hệ thống nước thải , sau đó đến  sông, và cuối cùng ra biển, bọt sẽ  làm chậm quá trình phân hủy sinh học  của vật  16
  17. Xà phòng và chất tẩy rửa liệu hữu cơ  trong nước thải, nó gây ra vấn đề  trong hệ  thống tái tạo lại nước  thải. Chất hoạt động bề mặt Như chúng ta đã thấy, những thứ này đóng một phần quan trọng trong việc giúp   nước tấn công và loại bỏ  bụi bẩn. Nhưng một khi chúng chảy xuống cống, các  chất hoạt động bề mặt vẫn tiếp tục hoạt động: chúng có thể tấn công các loại dầu   tự   nhiên   trong   màng   nhầy   của   cá,   ngăn   chặn   mang   của   chúng   hoạt   động   bình  thường và tăng nguy cơ bị tấn công bởi các hóa chất khác trong nước.  Một số thành  phần chất hoạt động bề  mặt (như  một chất gọi là nonylphenol ethoxylate hoặc  NPE) tạo ra thứ  gọi là chất gây rối loạn nội tiết, có thể   ảnh hưởng đến sự  cân   bằng nội tiết tố  của động vật (bao gồm cả  con người), gây ra nhiều vấn đề  sức   khỏe và đôi khi thay đổi đặc điểm giới tính của chúng.  Mặc dù chất hoạt động bề  mặt có thể gây độc cho cá và các sinh vật thủy sinh khác một số còn có thể tồn tại   trong môi trường trong nhiều năm mà không bị phân hủy tuy nhiên hầu hết các chất  hoạt động bề  mặt phân hủy tương đối nhanh trong các nhà máy xử  lý nước thải  trước khi chúng có thể gây hại cho thế giới tự nhiên. Photphat  Ngoài các chất hoạt động bề  mặt, trong các thành phần chất tẩy rửa có thể  chứa một lượng các photphat làm phụ gia tăng cường hoạt tính tẩy rửa, tẩy trắng,... Khi phốt phát trong chất tẩy rửa xâm nhập vào nước ngọt, chúng có thể hoạt  động như phân bón, thúc đẩy sự phát triển của thực vật và động vật nhỏ bé. Vấn  đề lớn nhất mà chúng có thể gây ra là sự phát triển rất lớn của tảo, được gọi là sự  nở hoa của tảo giết chết sự sống của cá, các sinh vật khác bằng cách giảm oxy  trong nước.  Với các  ưu điểm như  không tạo kết tủa khi giặt trong nước cứng, tạo bọt tốt   hơn, tính chất tẩy rửa ưu việt hơn xà phòng. Môi trường nước cứng chứa nhiều ion  Ca2+ và Mg2+ làm kết tủa xà bông, giảm bọt. Do đó trong  hóa chất tẩy rửa chẳng  hạn   như   bột   giặt   có   chứa   các   thành   phần   có   tác   dụng   làm   mềm   nước   như  tripolyphosphat (TPP), EDTA (etylen Diamin Tetra­acetat), NTA (Nitrilo Tri­acetic)  … Nhưng do các chất tạo phức có chứa photpho sẽ  cung cấp dinh dưỡng cho các   17
  18. Xà phòng và chất tẩy rửa thực vật sống trong nước nhất là tảo, làm cho chúng phát triển nhanh nên tiêu thụ  nhiều O2 hòa tan trong nước vào ban đêm có thể làm cá chết hàng loạt. Ở  những nơi sử  dụng nước thải để  tưới tiêu, bọt cũng là một vấn đề. Nghiên  cứu chuyên sâu vào những năm 1960 đã dẫn đến những thay đổi trong các phân tử  alkylbenzene sulfonate. Tetrapropylen, có cấu trúc phân nhánh, được thay thế  bằng   nhóm alkyl bao gồm chuỗi carbon thẳng dễ bị vi khuẩn phân hủy hơn. Các sản phẩm tẩy rửa gia dụng như bột giặt, nước chà sàn, chất tẩy rửa toilet, … đều có chứa hóa chất độc hại như kiềm, axit sunfuric, chlorine, amoniac,… Các  chất này bay hơi  ở nồng độ  đậm đặc, nếu tiếp xúc trong thời gian dài sẽ  làm tăng  nguy cơ ung thư và ảnh hưởng xấu tới khả năng sinh sản.  3. sự khác nhau giữa xà phòng và chất tẩy rửa Xà phòng Chất tẩy rửa Gồm   một   nhóm   –COONa   (hoặc   – Có một nhóm –SO3Na (hoặc –SO3K)  COOK) gắn với một axit béo có chuỗi  gắn với một chuỗi ankyl dài ankyl dài Mất   hiệu   quả   trong   nước   cứng   và  Có   thể   sử   dụng   được   trong   nước  nước mặn cứng và nước mặn Có   khả   năng   phân   hủy   bởi   vi   sinh  Chứa mạch cacbon phân nhánh không  vật bị phân hủy Tạo kết tủa trong môi trường nước  Không tạo kết tủa trong nước cứng cứng Có   nguồn   gốc   từ   thiên   nhiên   như  Là dẫn xuất tổng hợp dầu, mỡ động vật Thân thiện với môi trường Các  hợp chất  này có   thể  tạo  thành  bọt dày gây chết vi sinh vật Ví dụ: natri pamitat, natri stearat Ví   dụ:   axit   deoxychoric,   natri   laury  sunfat. 4. Một số nét về enzym sử dụng trong các chất tẩy rửa 18
  19. Xà phòng và chất tẩy rửa Mặc dù chất tẩy rửa tổng hợp có những  ưu điểm hơn nhiều so với xà phòng  như  khả  năng giặt trong nước cứng, khả năng tẩy trắng, giặt sạch tốt hơn nhưng   hạn chế lớn là khả  năng gây ô nhiễm môi trường do các chất thành phần có trong   chất tẩy rửa. Các chất giặt rửa chứa enzym là ví dụ  điển hình của những xu hướng công   nghệ mới. Là sự kết hợp giữa các ngành hóa học và sinh học, mà kết quả là những  sản phẩm được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Hiện nay bột giặt chứa enzym   đang được sử dụng phổ biến. Nhờ enzym nên bột giặt có tính năng giặt rửa cao hơn  ở  nhiệt độ  thấp hơn và có thể  bị  phân hủy sinh học, do đó giúp tiết kiệm năng   lượng và góp phần đáng kể giảm ô nhiễm môi trường Enzym là chất xúc tác sinh học. Bản thân nó không tham gia phản  ứng nhưng   giúp tăng tốc độ của phản ứng bằng cách làm giảm mức năng lượng hoạt hóa cần   thiết. Enzym là một phân tử  rất lớn với hàng trăm axit amin, nhưng chỉ  có một số  thành phần nhỏ  trong nó có chức năng xúc tác cho các phản  ứng sinh hóa. Những   vùng như vậy được gọi là vùng hoạt động. Khi được sử dụng trong chất giặt rửa,   cấu trúc này tự  biến đổi hình dạng cho phù hợp với các vết bẩn. Chúng gắn vừa   khít với các vết bẩn như  chìa khóa và  ổ  khóa. đây là đặc tính rất đặc biệt của  enzym. Hoạt tính của enzym phụ thuộc vào những điều kiện như độ  pH, nhiệt độ,   nồng độ ion và nồng độ chất bẩn trong dung dịch. Mỗi loại enzym có các điều kiện  hoạt động tối ưu khác nhau. Tầm quan trọng của enzym trong chất tẩy rửa. Enym có những tác dụng như sau khi được sử dụng trong chất giặt tẩy: ­ Giúp tăng hiệu quả của việc giặt tẩy. ­ Giảm thời gian giặt nhờ khả năng phân hủy vết bẩn nhanh chóng. ­ Giảm năng lượng tiêu thụ do có thể giặt ở nhiệt độ thấp. ­ Giảm lượng nước tiêu thụ do hiệu quả giặt rửa cao. 19
  20. Xà phòng và chất tẩy rửa ­ Giảm  ảnh hưởng đối với môi trường vì enzym là chất có thể  phân hủy sinh  học. ­ Làm mới vải vóc nhờ tác dụng của xellulaza. ­ Tăng độ trắng và chống chất bẩn bám trở lại. Hiện nay, các loại enzym phổ biến được sử dụng trong các sản phẩm chất tẩy   rửa là:proteaza, lipaza, xenlulaza, amylaza, III. ỨNG DỤNG XÀ PHÒNG, CHẤT TẨY RỬA Xà   phòng   và   chất   tẩy   rửa   rất   cần   thiết   cho   sức   khỏe   cá   nhân   và   cộng   đồng . Thông qua khả năng loại bỏ đất khỏi bề mặt, chúng góp phần giữ vệ sinh cá   nhân, giảm sự hiện diện của vi trùng gây bệnh truyền nhiễm; kéo dài thời gian sử  dụng của quần áo, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày. Xà phòng và chất tẩy rửa được tìm thấy trong nhà có thể được nhóm thành bốn  loại chung: làm sạch cá nhân, giặt  ủi, rửa chén bát và làm sạch hộ  gia đình. Trong  mỗi loại là các loại sản phẩm khác nhau được pha chế với các thành phần để thực   hiện chức năng làm sạch cũng như cung cấp các đặc tính cụ thể cho sản phẩm đó.  Sản phẩm tẩy rửa cá nhân bao gồm xà phòng, gel, xà phòng lỏng và chất tẩy rửa  tay. Những sản phẩm này có tác dụng làm sạch từ xà phòng, các chất hoạt động bề  mặt khác hoặc kết hợp cả  hai.Xà phòng hoặc gel được pha chế  để  làm sạch tay,   mặt và cơ  thể. Tùy thuộc vào các thành phần khác, chúng cũng có thể  giữ   ẩm cho   da và, tiêu diệt hoặc ức chế vi khuẩn có thể gây ra mùi hoặc bệnh. Chất tẩy rửa có sẵn dưới dạng chất lỏng, bột, gel, que, thuốc xịt,....  Chúng  được xây dựng để đáp ứng nhiều loại đất và loại bỏ vết bẩn, tẩy trắng, làm mềm   vải, và nhu cầu khử trùng trong các điều kiện nước, nhiệt độ và sử dụng khác nhau. Các loại hóa chất tẩy rửa dùng trong công nghiệp đều có khả năng tẩy rửa cực   mạnh để xử lý bề mặt kim loại, tẩy dầu mỡ và phục vụ một số hoạt động rửa máy   móc, dụng cụ. Trong lĩnh vực xịt rửa xe cộ, nước rửa xe được sử  dụng kết hợp   với máy xịt rửa xe để làm sạch xe máy, ô tô hiệu quả. Trong lĩnh vực vệ sinh công  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1