Tiểu luận môn học: Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
lượt xem 90
download
Trong thực tiễn thương mại hiện nay, khuyến mại là biện pháp cạnh tranh quen thuộc để thu hút khách hàng. Với nhiều hình thức khuyến mại có thể lựa chọn, doanh nghiệp có thể thu hút số lượng lớn khách hàng trong thời gian ngắn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận môn học: Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
- MỤC LỤC B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:.............................................................................................................2 I. Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.........................................................................................................................2 1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh...................................... 2 1.1. Khái niệm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh................................................. 2 1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh:.................................................2 2. Khái niệm, các hình thức khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và xử lí vi phạm........................................................................................................................................4 2.1. Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh..................................... 4 2.2. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh....................................4 2.3. Xử lí vi phạm đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh......6 II. Phân tích vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. .7 1. Tóm tắt vụ việc Bột nêm massan:..................................................................................... 7 2. Phân tích vụ việc.................................................................................................................8 III. Thực tiễn và kiến nghị về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh...................10 1. Thực tiễn hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay ............................................................................................... 10 C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:..............................................................................................................18 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thực tiễn thương mại hiện nay, khuyến mại là biện pháp cạnh tranh quen thuộc để thu hút khách hàng. Với nhiều hình th ức khuyến m ại có th ể l ựa chọn, doanh nghiệp có thể thu hút số lượng lớn khách hàng trong th ời gian ng ắn. Tuy nhiên, chính vì tác động lớn như vậy nên đôi khi khuy ến mại có th ể đem l ại những tác động đột ngột không có lợi cho thị trường, pháp luật vẫn giữ một số cơ chế kiểm soát hoạt động này đó là quy định về khuy ến m ại nh ằm c ạnh tranh không lành mạnh. Sau đây, nhóm em đã lựa ch ọn đề tài s ố 10 “ Phân tích một vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành m ạnh”, để từ đó tìm hiểu rõ nét hơn về hành vi cạnh tranh không lành m ạnh nói chung và hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng. 1
- B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. 1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 1.1. Khái niệm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “ Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.” Theo cách tiếp cận này, Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 đã li ệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó bao gồm 10 hành vi. Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy đ ịnh của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 v ề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là m ọi hành vi trái v ới các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên th ị trường liên quan. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại. 1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục đích lợi nhuận. - Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghi ệp theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhu ận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp . Trên phạm vi rộng, các quy đ ịnh v ề 2
- cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi c ủa các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành ngh ề t ự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư,…). - Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghi ệp khác. Đ ể thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các đối th ủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút khách hàng về phía mình. Do đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có th ể bị xem xét v ề tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật v ề c ạnh tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế. Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính ch ất đ ối l ập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để áp dụng cho nh ững trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ th ể nh ưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Thứ ba, hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và c ần ph ải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt h ại cho các đ ối t ượng khác. Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh ch ỉ gây thiệt hại cho các t ổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng , xâm h ại đ ến tr ật t ự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai l ệch hay giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan x ử lí s ẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 3
- 2. Khái niệm, các hình thức khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và xử lí vi phạm. 2.1. Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 1 Điều 88 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “ Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.” Hiện tại chưa có quy định cụ thể về khái niệm hành vi khuyến mại nh ằm cạnh tranh không lành mạnh, Luật cạnh tranh năm 2004 cũng ch ỉ liệt kê nh ững hành vi được coi là khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46. Tuy nhiên từ khái niệm khuyến mại nêu trên có th ể hiểu hành vi khuy ến m ại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông th ường về đ ạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. 2.2. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Điều 46 Luật cạnh tranh năm 2004 đã quy định những hành vi sau đây được coi là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: a, Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng: hành vi này xảy ra khi doanh nghiệp thực hiện khuyến mại bằng hình thức tổ chức giải thưởng nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng giải thưởng đã công bố trước đó. Ví dụ, như doanh nghiệp khuyến mại mua hàng hóa có giá trị đ ơn hàng trên 10 triệu đồng thì khách hàng sẽ được tặng một điện thoại trị giá 1 tri ệu đ ồng nhưng sau đó đã không thực hiện việc tặng đi ện thoại cho khách hàng khi đáp ứng được điều kiện doanh nghiệp đưa ra. b. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng: Trong trường hợp này, hoạt động khuyến mại được doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ, doanh nghiệp tặng hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với 4
- chất lượng cao hơn so với hàng hóa đang được bán trên thị trường. Hai hành vi này được thực hiện với thủ đoạn đưa những thông tin gian dối về giải thưởng, không trung thực về hàng hoá, dịch vụ hoặc gây nhầm lẫn để lừa dối người tiêu dùng. Bản chất lừa dối của hành vi khuyến là việc các doanh nghiệp đã không trung thực về các lợi ích mà khách hàng sẽ được hưởng hoặc dùng các lợi ích đó để tạo ra sự nhận thức sai lệch về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. Những hành vi như tổ chức và công bố công khai về giải thưởng song không có giải thưởng hoặc giải thưởng không đúng với những gì đã công bố; hành vi tổ chức khuyến mại bằng cách đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất lượng cao cấp hơn nhiều so với hàng hóa được dùng để mua bán hòng làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về chất lượng hàng hóa đều bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. c, Phân biệt đối xử với khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Căn cứ vào quy định này, có những yếu tố sau đây cấu thành nên hành vi vi phạm: - Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại trong một khu vực bao gồm nhiều địa bàn khác nhau (doanh nghiệp có thể chia khu vực khuyến mại thành các địa bàn theo khu vực địa lý, theo tiêu chuẩn thành thị, nông thôn hoặc theo nhóm khách hàng…; - Khách hàng ở các địa bàn trên phải đáp ứng các điều kiện như nhau để được tham gia vào chương trình khuyến mai (ví dụ khách hàng cần có số lượng hàng hóa tiêu thụ giống nhau…); - Doanh nghiệp đã áp dụng cơ cấu lợi ích khác nhau theo địa bàn. Do đó, dù đáp ứng các điều kiện như nhau nhưng các khách hàng ở các địa bàn khác nhau được hưởng lợi ích khuyến mại không giống nhau. Ví dụ cùng điều kiện như nhau nhưng khách hàng ở các tỉnh thành khác nhau lại hưởng những chế độ khuyến mại với những giá trị giải thưởng khác nhau. Hành vi này bị coi là cạnh tranh không lành mạnh bởi đã phân biệt đối xử với khách hàng 5
- d, Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Để cấu thành hành vi vi phạm, cần xác định các yếu tố sau đây: - Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử; - Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Ví dụ: doanh nghiệp A và B cùng sản xuất bột giặt, doanh nghiệp A đưa ra chương trình khuyến mại là tặng bột giặt của doanh nghiệp mình cho khách hàng dùng thử nhưng khách hàng phải đổi bột giặt do doanh nghiệp khác s ản xu ất mà họ đang sử dụng. Hành vi này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác e. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm. Đây là quy định mang tính chất mở và dự liệu của pháp luật cạnh tranh. 2.3. Xử lí vi phạm đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định Điều 36 Nghị định số 120, doanh nghiệp thực hiện một trong các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh sẽ bị phạt tiền. Ngoài ra doanh nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Cụ thể: “1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng; b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng; c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại; 6
- d) Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. 2. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này thuộc một trong các tr ường h ợp sau đây: a) Hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại là các mặt hàng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định này1; b) Quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên. 3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại khoản 1 và 2 Điều này, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mành còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và bi ện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 30 của Nghị định này” Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp kh ắc phục h ậu qu ả bao gồm: - Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện khuy ến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; - Buộc cải chính công khai. II. Phân tích vụ việc thực tiễn về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 1. Tóm tắt vụ việc Bột nêm massan: - Chủ thế của hoạt động khuyến mai: Công ty Massan - Địa điểm xảy ra vụ việc: TP. Hồ Chí Minh. - Thời gian xảy ra vụ việc: năm 2007 1 Điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định 120/2005/NĐ-CP: “Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo v ệ th ực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ”; 7
- - Nội dung vụ việc: công ty Massan đưa ra chương trình khuyến mại bột canh,nhưng để có được gói bột canh của công ty theo chương trình khuyến mại này thì người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. - Chủ thể khiếu nại: Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh - Cơ quan giải quyết: Thanh tra Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh đã l ập biên bản và yêu cầu đình chỉ chương trình khuyến mại2. 2. Phân tích vụ việc Ở vụ việc này chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy hành vi của công ty Massan có dấu hiệu của hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi khuyến mại khuyến mại tặng hàng dùng thử bằng phương thức đổi hàng hóa đều là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Như đã phân tích ở trên, để cấu thành hành vi khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh thì hành vi khuy ến mãi c ủa công ty Massan phải thỏa mãn các yếu tố: - Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử; - Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Đối chiếu với chương trình khuyến mại của công ty Massan, hành vi khuyến mại của công ty Massan là “tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử d ụng do doanh nghiệp khác sản xuất”, cụ thể: - Hình thức khuyến mại của công ty Masan là tặng hàng hóa ( bột canh) cho khách hàng dùng thử - Điều kiện để được tặng sản phẩm khuyến mại là người tiêu dùng ph ải đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. 2 http://danso.giadinh.net.vn/11073p0c1000/canh-tranh-khong-lanh-manh-o-viet-nam-nhieu-dai-gia-xau-choi.htm 8
- Như vậy, hành vi của công ty Massan hoàn toàn thỏa mãn các để cấu thành của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh 2004. Với điều kiện này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, bằng hành vi này Công ty Massan đã trực tiếp lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng hàng hóa cho họ dùng thử với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác một cách không chính đáng trong thói quen tiêu dùng đã có của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp đó để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của doanh nghiệp mình. Xử lí vi phạm đối với hành vi của công ty Masan: Do bột canh là thực phẩm nên đối chiếu với quy định tại Điều 36 của ngh ị định số 120/2005/ NĐ- CP và điểm a khoản 2 Điều 10 của Nghị định này thì hành vi khuy ến mãi c ủa công ty Massan thì hành vi khuyến mãi của công ty Massan thu ộc trường h ợp theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 36 Nghị định 120/2005/NĐ-CP. Vì vậy Công ty Massan sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Ngoài ra, công ty Masan còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử ph ạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Nghị định này. Bao gồm: - Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện khuy ến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; - Buộc cải chính công khai. Tiểu kết: Như vậy, trong vụ việc này hành vi khuyến mãi của công ty Massan là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh 2004. Với hành vi này, ngoài b ị ph ạt ti ền công ty Massan còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình th ức ph ạt b ổ sung và 9
- biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật. III. Thực tiễn và kiến nghị về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 1. Thực tiễn hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay Các doanh nghiệp ngày càng nhận thức đầy đủ h ơn về tác d ụng c ủa khuy ến mại trong việc kích thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá th ương hiệu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu t ối đa, r ất nhi ều doanh nghiệp đã và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị trường Nielsen tại 4 thành ph ố l ớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ thì những người thường mua sắm và ra quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì k ết qu ả cho thấy: 87% người Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuy ến mại. Các doanh nghiệp thường lợi dụng tâm lý hám lợi của người tiêu dùng để đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn nhằm thu lợi nhuận tối đa cho mình. B ởi đa ph ần tâm lý người tiêu dùng sẽ chọn mua các sản phẩm được khuyến mại nhiều hơn. Người tiêu dùng có thể thường xuyên bắt gặp trên các băng rôn tại các cửa hàng, sowhrom, siêu thị hoặc các phương tiện thông tin đại chúng nh ững thông tin khuyến mại cực kỳ hấp dẫn như: giảm giá từ 40% -50% kèm quà t ặng có giá tr ị; cuối tuần giá sốc; tri ân khách hàng – mua hàng bốc thăm may m ắn,vv... Tuy v ậy, không ít doanh nghiệp sử dụng hàng nhái, hàng giả , hàng kém ch ất l ượng đ ể khuyến mại cho khách hàng. Theo quy định của pháp luật thì tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, d ịch v ụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 (bốn mười lăm) ngày. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay 30%, nhưng bảng đó được yết quanh năm, với mức giá là một con s ố tuy ệt đ ối không thay 10
- đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá giảm và hành vi này đ ược coi là lừa dối khách hàng. Theo quy định thì mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch v ụ đ ược khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng t ồn kho hoặc hết thời trang, do vậy thực hiện "đại h ạ giá" ở mức 60-80%. Hay nh ư vi ệc khuyến mại của các nhà mạng trước đây, quy định không vượt quá 50%, nhưng vẫn có những chương trình khuyến mại lên tới 100%, 170%, 200%... Lý do h ọ đưa ra để lách luật đó là đây chỉ là ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dịch vụ lâu năm… Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc th ẻ cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt... Do dó, có nh ững ch ương trình khuyến mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao nhưng không có ng ười trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều hàng để hy v ọng trúng gi ải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng cho khách hàng… 2. Kiến nghị hoàn thiện và thực thi pháp lu ật nhằm hạn chế cạnh tranh không lành mạnh nói chung và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riếng. 2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Trong thời gian qua, để triển khai Luật Cạnh tranh cũng như các quy đ ịnh xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Chính ph ủ đã ban hành nhi ều văn b ản quan trọng như: Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24-08-2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15-09-2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh; Ngh ị đ ịnh số 120/2005/NĐ-CP ngày 30-09-2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định 05/2006/NĐ-CP ngày 09-01-2006 về việc thành lập và quy định ch ức 11
- năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; Ngh ị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 quy định chức năng, nhi ệm v ụ, quy ền h ạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, vẫn còn nhiều vấn đề về mặt pháp lý cần phải được hoàn thiện như sau: Thứ nhất: pháp luật cần có định nghĩa cụ thể về hoạt động khuyến mại bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Theo luật cạnh tranh năm 2004, hành vi khuyến mại sẽ được xác định là cạnh tranh không lành mạnh khi nó: “trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và l ợi ích h ợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Vấn đề quy định của Luật cạnh tranh như trên sẽ có những vướng mắc trong khi thi hành trên thực tế. Đối với trường hợp hành vi khuyến mại gây thiệt hại, hoặc có th ể gây thi ệt hại đến lợi ích Nhà nước thì thực tiễn áp dụng tố tụng cạnh tranh s ẽ xảy ra các vấn đề như: - Không có bên khiếu nại vì không có tổ chức, cá nhân nào có quyền bị xâm hại trực tiếp. Vụ việc đó được đưa ra giải quyết hay không l ại ph ụ thuộc vào c ơ quan quản lý cạnh tranh có phát hiện ra vụ việc và có quy ết định đưa vụ vi ệc ra giải quyết không. Điều này phụ thuộc vào trình độ năng lực và sự công tâm của đội ngũ cán bộ quản lý cạnh tranh. - Mặt khác, nếu đưa vụ việc ra giải quyết, cơ quan có trách nhiệm giải quyết là Cục quản lý cạnh tranh - một cơ quan Nhà nước - thay mặt Nhà nước thực hiện quyền lực công, kiếm soát cạnh tranh. Bên bị xâm phạm lợi ích chính là Nhà nước. Như vậy, sẽ có thể không đảm bảo tính khách quan khi xử lý vi ệc cạnh tranh này. Thứ hai, cần quy định cụ thể các hành vi được coi là hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, cụ thể: - Cần quy định cụ thể như thế nào được hiểu là “như nhau” theo quy định tại khoản 3 điều 46 Luật cạnh tranh 2004: “Phân biệt đối xử đối với các khách 12
- hành như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại…”. Đây chỉ là quy định mang tính định tính chứ không phải là quy định mang tính đinh l ượng. Do đó s ẽ gây nên những cách hiểu và áp dụng không đồng nhất trong quá trình xác đ ịnh hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh này trong thực tiễn. - Cần bổ sung thêm “tặng dịch vụ” trong quy định tại khoản 4 điều 46 Luật cạnh tranh 2004. Theo quy định tại khoản 4 này thì đối tượng c ủa hành vi này ch ỉ là hàng hóa. Tuy nhiên trong thực tiễn hiện nay nhiều doanh nghi ệp ngoài vi ệc khuyến mại hàng hóa còn tiến hành cả hoạt động khuyến m ại t ặng dùng th ử đ ối với dịch vụ nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ: Mobifone có triển khai chương trình đổi sim theo hình thức khuyến mại từ ngày 1/6/2009 đến ngày 10/6/2009. Tại Hải Dương, Mobifone thực hiện bán hàng lưu động trên địa bàn xã, thôn với chương trình “Đổi sim mạng khác lấy sim Mobifone có 230.000 đ ồng trong tài khoản”. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại Luật Cạnh tranh tuy có quy định các hành vi cạnh tranh không lành m ạnh nhưng chỉ mới điều chỉnh các hành vi này bằng mệnh lệnh hành chính. Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không được quy định cụ thể mà Luật lại dẫn chiếu đến pháp luật dân s ự (Đi ều 117 Lu ật Cạnh tranh). Như vậy, vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi th ường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005. Để cho các quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi c ạnh tranh không lành mạnh triển khai được trong thực tế rất nhiều vấn đ ề pháp lý được đặt ra cần có sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có th ẩm quy ền (nh ất là từ phía Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân t ối cao và B ộ Th ương mại). Trong các vấn đề ấy, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: - Xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi th ường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra? Theo thông lệ chung của các nước, đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ thể tiến hành khởi kiện chủ yếu 13
- là các đối thủ cạnh tranh. Vậy nên chăng, pháp luật nước ta quy định rõ về vấn đề này. - Những loại chế tài dân sự nào có thể áp dụng cho ch ủ th ể có hành vi c ạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, chủ thể có quy ền yêu c ầu c ơ quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án) áp dụng một trong các hình th ức sau: a) công nhận quyền dân sự; b) buộc chấm dứt hành vi vi phạm; c) buộc xin l ỗi, cải chính công khai; d) buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) bu ộc b ồi th ường thi ệt hại. Bởi vậy, cần xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. - Về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt h ại . Vấn đề xác định mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra luôn là vấn đề phức tạp. Để đơn giản hóa, pháp luật một số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đương nhiên thuộc về chủ thể bị cạnh tranh không lành mạnh. Đây cũng là kinh nghiệm tốt mà Việt Nam nên tham kh ảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này. Thứ tư, hoàn thiện pháp luật hình sự để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh Kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số quốc gia công nghiệp phát tri ển cho thấy một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây nguy h ại không ch ỉ cho đối thủ cạnh tranh mà còn gây thiệt hại tới người tiêu dùng và trật t ự qu ản lý kinh tế trong xã hội. Chính vì thế, việc xử lý hình sự đ ối v ới một s ố hành vi c ạnh tranh không lành mạnh là cần thiết. Hiện tại Bộ luật hình sự năm 1999 , sửa đổi bổ sung năm 2009 của Việt Nam đã bước đầu có quy định việc xử lý hình sự đối với một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh như tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, Đi ều 157, Đi ều 158), tội lừa dối khách hàng (Điều 162), tội quảng cáo gian dối (Điều 168). 14
- Tuy nhiên, còn nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà pháp luật nhiều quốc gia quy định là tội phạm mà Bộ luật hình sự của Việt Nam ch ưa quy đ ịnh trong đó có hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, hoạt động tình báo công nghi ệp v.v. Như vậy, trong thời gian tới, khi nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi chiếm đoạt bí mật kinh doanh (nhất là hoạt động tình báo công nghiệp) cần phải được nghiên cứu để tội phạm hóa và xử lý bằng biện pháp hình sự. Thêm vào đó, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân áp d ụng cho các doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng nên được nghiên cứu để thể chế hóa vào trong pháp luật hình sự Việt Nam. Thứ năm, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định: “ Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc tòan bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền”. Việc giải quyết đơn kiện tại Toà Hành chính đối với Quy ết định gi ải quy ết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó có hành vi c ạnh tranh không lành mạnh được thực hiện theo pháp luật về th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính. Vấn đề đặt ra là Toà Hành chính sẽ xem xét lại toàn b ộ vụ vi ệc t ừ đầu, xem xét lại cả nội dung và thủ tục cạnh tranh đã được áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh hay chỉ xem xét về mặt hình th ức? Giá tr ị pháp lý của Quyết định giải quyết khiếu nại của Toà án như thế nào? Quy ết định có giá trị chung thẩm như kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới hay ph ải tuân thủ đầy đủ thủ tục từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đ ốc th ẩm? Đi ều này c ần có văn bản hướng dẫn cụ thể của Toà án nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ ch ế ph ối hợp giữa Cơ quan quản lý cạnh tranh với Toà án trong việc xem xét, giải quy ết đơn khởi kiện. 15
- Thứ sáu, về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có một thực tế là ở Việt Nam, Tòa án ch ưa có nhiều kinh nghi ệm trong vi ệc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chính vì thế, việc phối kết hợp gi ữa Tòa án với Cơ quan quản lý cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình x ử lý các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra là rất cần thiết. Liệu các kết luận về sự tồn tại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ phía Cơ quan quản lý cạnh tranh có được coi là căn cứ để bên có quyền lợi bị xâm hại tiến hành khởi kiện tại Tòa án về hành vi cạnh tranh không lành mạnh không? Liệu trước Tòa án, khi xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh mà đã có quyết định chính thức của Cơ quan quản lý cạnh tranh có hiệu lực pháp luật thì vấn đề tồn tại hay không tồn tại hành vi trái pháp luật (hành vi c ạnh tranh không lành mạnh) có cần phải đưa ra tranh tụng giữa các bên nữa hay không? Đến nay, Luật Cạnh tranh cũng như các quy định của pháp luật t ố t ụng ở nước ta chưa quy định vấn đề này mặc dù đây là vấn đề có tính th ực ti ễn cao.Chính vì vậy, các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Cơ quan quản lý cạnh tranh về việc tồn tại hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng nên đ ược Tòa án công nhận và trong trường hợp đó, việc tranh tụng trước tòa án về vi ệc tồn tại hay không tồn tại hành vi cạnh tranh không lành mạnh s ẽ không nên đ ược đặt ra. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý xử lý vấn đề này, nh ằm đ ơn gi ản hóa th ủ t ục và phạm vi tranh tụng trong các vụ kiện về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trước Tòa án, trong thời gian tới, văn bản quy phạm pháp luật quy định v ấn đ ề này cần phải được ban hành. 2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật Thứ nhất, cần hoàn thiện thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh Để thực thi việc chống cạnh tranh không lành mạnh có hiệu quả thì cần có thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh hợp lý. Cần: 16
- -Bổ sung biện pháp ngăn chặn hành chính: cần bổ sung thêm bi ện pháp ngăn chặn hành chính là: Tạm đình chỉ hoạt động khuyến mại có dấu hi ệu c ạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động tạm đình chỉ này chỉ được đưa ra trong trường h ợp cơ quan có thẩm quyền xem xét thấy rằng, có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại. Đây là biện pháp thực hiện nhằm ngăn cản các bên liên quan có thể thấy được. - Bổ sung quy trình điều tra rút gọn: thủ tục rút gọn được phép sử dụng với những trường hợp vi phạm quả tang, có chứng cứ rõ ràng, tình tiết vụ việc đơn giản. Thủ này giúp cho cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý vụ việc dễ dàng h ơn, nhanh chóng hơn, đảm bảo yêu cầu của pháp luật, đ ồng th ời ti ết ki ệm th ời gian, chi phí cho các bên liên quan. - Quy định hiệu lực thi hành ngay đối với quyết định xử lý hoạt động khuy ến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Việc quy định này sẽ có tác dụng ngăn chặn ngay lập tức các hành vi vi phạm, đảm bảo lợi ích của các bên và cũng tránh trường hợp có quyết định xử phạt rồi những hành vi vi ph ạm vẫn ngang nhiên xảy ra. Thứ hai,cần có các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại. - Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doạnh nghiệp và người tiêu dùng. Cần phải tuyên truy ền sâu rộng pháp luật cạnh tranh để các doanh nghiệp nắm bắt được. Các doanh nghiệp nhận thức được pháp luật cạnh tranh sâu sắc sẽ là công cụ hữu hiệu để họ bảo vệ quyền và lợi ích của chính họ. Bên cạnh đó cũng rất cần tuyên truy ền pháp lu ật c ạnh tranh đến với người tiêu dùng. Người tiêu dùng hiểu biết về pháp luật cạnh tranh để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ. - Nâng cao vai trò chủ động của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, xây dựng quy tắc ứng xử trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh. C ộng đồng kinh doanh, hiệp hội ngành nghề có vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động kinh doanh. Các hiệp đội xây dựng tốt các quy t ắc ứng x ử, các 17
- chuẩn mực của ngành sẽ tạo điều kiện cho một môi trường kinh doanh lành mạnh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khuy ến m ại s ẽ b ị doanh nghiệp trong hiệp hội lên án và đây cũng là sức ép không nhỏ để các doanh nghiệp không thực hiện các hành vi gian dối trong hoạt động này. - Nâng cao năng lực thực thi pháp luật cạnh tranh. Cần nâng cao đ ội ngũ cán bộ làm công tác này và tăng cường kinh phí phục vụ cho công tác quản lý c ạnh tranh, hơn nữa cần tăng cường số lượng cán bộ làm công tác quản lý cạnh tranh. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ: Qua phân tích vụ việc của công ty Masan về hành vi khuy ến mại nh ằm c ạnh tranh không lành mạnh, chúng ta đã phần nào hiểu rõ hơn về bản chất cũng như thực tiễn của hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành m ạnh nói riêng và hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung. Khuyến mại là hoạt đ ộng xúc tiến thương mại ngày càng được các doanh nghiệp đẩy mạnh để thu hút khách hàng, cũng chính vì vậy mà rất nhiều doanh nghiệp vì nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà đã có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên các quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này còn nhi ều hạn chế như phân tích ở trên. Chính vì vậy mà pháp luật cạnh tranh cần có quy định cụ thể hơn về vấn đề khuyến mại nhằm cạnh trạnh không lành mạnh nói riêng và cạnh tranh không lành mạnh nói chung. 18
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011. 2. Trường đại học kinh tế - luật, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình luật cạnh tranh, 2010. 3. Luật cạnh tranh năm 2004 4. Nghị định của Chính phủ số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh 5. Pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại và thực tiễn thi hành : Khoá luận tốt nghiệp / Võ Th ị Hà Linh; Người hướng dẫn: TS. Lê Đình Vinh , 2009 6. Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại ở Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp / Đặng Đình Ngọc; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Vân Anh . - Hà Nội, 2011 7. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại ở Việt Nam : Luận văn thạc sĩ luật học / Lê Đăng Khoa; Người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị Dung . - Hà Nội, 2011 8. Web: http://danso.giadinh.net.vn/11073p0c1000/canh-tranh-khong-lanh- manh-o-viet-nam-nhieu-dai-gia-xau-choi.htm 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận môn học Quản trị dự án đầu tư: Lập dự án xây dựng quán Cà phê sinh viên Cội Nguồn
22 p | 4295 | 904
-
Tiểu luận môn học Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin: Phân tích và thiết kê hệ thống quản lý thời khóa biểu khoa CNTT
22 p | 733 | 76
-
Tiểu luận môn học - Phân tích môi trường 1: Xác định bụi trong không khí
36 p | 457 | 59
-
Tiểu luận môn Quản trị học: Phân tích quản trị tại KFC
69 p | 264 | 39
-
Báo cáo môn học: Phân tích mối liên hệ giữa thị trường vốn với các thị trường: bất động sản, chứng khoán, vàng, ngoại tệ
22 p | 222 | 39
-
Tiểu luận Triết học số 19 - Tín dụng: Cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam
17 p | 284 | 35
-
Tiểu luận môn Phân tích thiết kế hệ thống: Hệ thống quản lý ký túc xá đại học
73 p | 130 | 35
-
Tiểu luận Triết học số 31 - Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác
21 p | 369 | 27
-
Tiểu luận môn học Quản trị chiến lược: Vấn đề và quyết định quản trị trong chiến lược kinh doanh của Công Ty TNHH Nước Giải Khát Coca-Cola Việt Nam
33 p | 257 | 25
-
Tiểu luận môn Marketing mạng xã hội: Xây dựng chiến lược truyền thông mạng xã hội cho công ty TNHH TKA Việt Nam
19 p | 163 | 22
-
Đồ án môn học Phân tích thực phẩm: Hạt mè
73 p | 174 | 21
-
Tiểu luận môn Thanh toán trong kinh doanh quốc tế: Phân tích và so sánh phương thức thanh toán chuyển tiền bằng điện, nhờ thu kèm chứng từ trả ngay và tín dụng chứng từ khi nhập khẩu hàng hóa
21 p | 151 | 16
-
Tiểu luận môn Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin: Hệ thống quản lý sổ tiết kiệm
12 p | 91 | 15
-
Tiểu luận môn Phân tích kinh doanh: Hệ thống thông tin quản lý nhà hàng
19 p | 35 | 14
-
Tiểu luận Triết học số 49 - Phép biện chứng về mâu thuẫn và việc phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
13 p | 133 | 10
-
Tiểu luận Triết học số 32 - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó
19 p | 114 | 7
-
Tiểu luận Triết học số 25 - Vận dụng lý luận phương thức sản xuất phân tích nhà máy phích nước – bóng đèn Rạng Đông
13 p | 91 | 6
-
Tiểu luận môn học: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay
24 p | 82 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn