intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:45

161
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận bao gồm 3 chương với các nội dung: cơ sở lý luận về hệ thống tiền tệ và thị trường ngoại hối; hệ thống các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối; một số nhận xét và kiến nghị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM KHOA TÀI CHÍNH – THƯƠNG MẠI BÀI TIỂU LUẬN   TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài HỆ THỐNG TIỀN TỆ CỦA CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG  ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ  TRƯỜNG NGOẠI HỐI Ngành:             TÀI CHÍNH ­ THƯƠNG MẠI Chuyên ngành: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Giảng viên hướng dẫn:   TS.NGUYỄN THỊ CÚC HỒNG Sinh viên thực hiện: MSSV Lớp 1. Nguyễn Thị Huyền Trang 19DTCB4 2. Hồ Thu Trang 19DTCB4 3. Nguyễn Quỳnh Như 19DTCB4 4. Nguyễn Nhật Uyên 19DTCB4 5. Mai Thị Ánh Tuyết 19DTCB4 TP. Hồ Chí Minh, 2020
  2. DANH SÁCH NHÓM 2 ­ LỚP 19DTCB4 ­ CA 2 THỨ 2,4  ĐÁNH  STT HỌ VÀ TÊN PHÂN CÔNG GIÁ Tìm hiểu đồng franc CFP, lời mở  1 Nguyễn Thị Huyền Trang 10/10 đầu và lời kết, sửa lỗi. Tìm hiểu đồng franc Pháp và làm  2 Hồ Thu Trang 10/10 word. Tìm hiểu đồng franc CFA và làm  3 Nguyễn Quỳnh Như  10/10 powerpoint. Tìm hiểu đồng franc CHF và một số  4 Nguyễn Nhật Uyên 10/10 đồng khác.  Lý thuyết về hệ thống tiền tệ và  5 Mai Thị Ánh Tuyết 10/10 thị trường ngoại hối. 2
  3. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT VIẾT TẮT DIỄN GIẢI NHTW Ngân hàng Trung Ương NHTM Ngân hàng Thương mại ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu USD Đô la Mỹ GBP Bảng Anh FPF Franc Pháp JPY Yên Nhật DEM Mác Đức GDP Tổng sản phẩm quốc gia IFM Quỹ tiền tệ Quốc tế SNB Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ CEDEAO Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi  WAMU Tám nước thuộc Liên minh Tiền tệ Tây Phi 
  4. DANH SÁCH CÁC BIỂU DỒ, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
  5. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ ra đời và tồn tại dưới   nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là   hoạt động sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa.  Nó có vai trò quan trọng thúc  đẩy quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên  phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế được tiền tệ  hóa cao độ.  Cùng với sự  phát triển năng động của nền kinh tế  thị  trường đã làm  nảy sinh nhu cầu thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để  đầu tư  và tạo lập   vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu trong xã hội.  Kinh tế ngày càng phát triển thì  quan hệ cung cầu nguồn tài chính ngày càng tăng.  Dựa theo nghiên cứu của Marx­Lenin về  lịch sử  và bản chất của tiền tệ:  “Tiền là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ  trong thế  giới hàng hóa làm vật  ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể  hiện lao động xã hội và  biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.” Vì vậy, mỗi quốc gia hay   mỗi khu vực đều có một đồng tiền đại diện riêng.   Đồng Franc từ  khi xuất hiện  đến nay đã đóng một vai trò rất quan trọng trong thị trường tiền tệ của khu vực và  cả  thế  giới. Vậy tại sao lại nói đồng Franc có vai trò quan trọng trong thị  trường  ngoại hối? Để hiểu rõ hơn Nhóm 2 đã có bài nghiên cứu về đề tài :” Hệ thống tiền   tệ  của các nước theo hệ  thống đồng Franc và vị  thế  của các đồng Franc trên thị  trường ngoại hối” nhằm mục đích có thể  đi sâu vào nghiên cứu về  lịch sử  hình  thành, quá trình phát triển và vị thế của nó trong thị trường ngoại hối.
  6. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ VÀ  THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI HỆ THỐNG TIỀN TỆ  Tổng quan về hệ thống tiền tệ Tiền tệ  ra đời như  là một tất yếu của hoạt động trao đổi, tuy nhiên tiền tệ  chỉ thực sự phát triển trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa.  Kể từ khi ra   đời đến nay, tiền tệ đã tồn tại nhiều hình thái khác nhau bao gồm: ­ Vật ngang giá chung (hình thái cổ xưa). ­ Tiền kim loại: Vàng và bạc là phổ biến nhất.  Vàng đại diện cho sự giàu  có và của cải và được gọi là kim loại quý.  Do khối lượng vàng hạn chế  nên người ta sử  dụng kim loại khác để  đúc tiền ( đồng, nhôm ) những  đồng tiền kim loại đầu tiên được đúc do các địa chỉ, tầng lớp quý tộc. ­ Tiền giấy do sự phát triển của ngành in. ­ Tiền tín dụng:  Sự phát triển của hệ thống ngân hàng giữa các nước với  nhau, trong hệ thống thanh toán đã xuất hiện tiền tín dụng.  Việc sử dụng  tiền tín dụng rất thuận lợi và an toàn.  Đối với bản thân nền kinh tế  thì  tất cả  đồng tiền của nền kinh tế  được đưa vào lưu thông, tốc độ  luân  chuyển nhiều nên tăng GDP. Ngày nay chúng ta còn có các khái niệm phân biệt giữa tiền của một nước và  tiền thế giới như tiền tệ quốc gia và tiền tệ quốc tế.  Về cơ bản, chúng đều là tiền, 
  7. có chức năng giống nhau là lưu thông, trao đổi, buôn bán.  Tuy nhiên hai loại tiền  này có sự khác nhau về phạm vi:  Tiền quốc gia được từng quốc gia thừa nhận còn  tiền quốc tế  được nhiều quốc gia thừa nhận.  Vậy để  tiền tệ  quốc gia trở  thành  tiền tệ quốc tế dựa trên cơ sở là đồng tiền đó phải có khả năng chuyển đổi.  Chính  vì sự  cần thiết của việc trao đổi giữa các quốc gia với nhau trong một xã hội đã   phát triển vượt bậc, như một sự tất yếu, hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời giải quyết  những khó khăn cho nền kinh tế. Hệ  thống tiền tệ  quốc tế  là một định chế  chung, mà trong đó thực hiện  những hoạt động thanh toán quốc tế, điều tiết các giao dịch vốn và quyết định tỷ  giá hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ.  Nghĩa là hệ thống tiền tệ quốc tế là cơ chế tổ  chức lưu thông tiền tệ giữa các quốc gia, được thực hiện bằng những thỏa ước và  quy định ràng buộc của các quốc gia, có hiệu lực trong phạm vi không gian và thời   gian nhất  định.  Hệ  thống tiền tệ  quốc tế  tập trung vào hai đặc điểm đó  là chọn  loại hình tiền tệ làm đơn vị quốc tế và tổ chức lưu thông tiền tệ.  ­  Chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị tiền tệ quốc tế.  Đơn vị tiền tệ chung là  đơn vị  thanh toán, đo lường và dự  trữ  giá trị của một cộng đồng kinh  tế.    Thông  thường  các  nước  sử  dụng  một đồng tiền mạnh của một quốc gia nào đó  trong  khối làm đồng tiền chung của khối.  Các đồng tiền USD, GBP, FRF, JPY, DEM đã   từng là các đồng tiền quốc tế trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, sau này do sự  phát triển và hội nhập kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành hoàn toàn trên   cơ  sở  tự  nguyện do vậy, mà các nước châu Âu đã không chọn một đồng tiền nào  của quốc gia được làm đồng tiền chung, mà các nước trong liên minh tự định ra một  đồng tiền chung của cả  khối. Chẳng hạn: Ngày 01/01/1999 Đồng tiền chung của  châu Âu là euro đã ra đời với tỷ giá ngay tại ngày ra đời là 1 EUR = 1,16675 USD. ­  Tổ chức lưu thông tiền tệ: Chế độ  tổ  chức lưu thông tiền tệ  trong các hệ  thống tiền tệ quốc tế thông thường bao gồm những nội dung đặc trưng sau: Xác định tỷ  giá  giữa đồng tiền chung với các đồng tiền  thành viên của khối.  Có thể theo tỷ giá cố định hoặc tỷ giá thả nổi. Quy định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền  mặt và lưu thông các giấy tờ có giá khác ghi bằng đồng tiền chung của cả  khối. Quy định về tỷ lệ dự trữ ngoại hối: ấn định tỷ trọng giá trị 
  8. của đồng tiền chung trong tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên,  của ngân hàng thuộc khối. Tiền tệ  quốc tế và hệ  thống tiền tệ quốc tế đều là sản phẩm của các liên  minh kinh tế. Do vậy sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế phụ thuộc vào các  liên minh kinh tế. Tuy nhiên, các liên minh kinh tế thường không đứng vững trong  một thời gian dài do các nguyên nhân khác nhau cho nên  khi các liên minh kinh tế  tan vỡ thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng bị ảnh hưởng theo. Mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành đều xuất phát từ những mục   đích nhất định của các nước tham gia.  Tuy nhiên có thể thấy các hệ thống tiền tệ  đều có một số mục đích chung như sau: ­ Mở mang giao lưu về kinh tế quốc tế, tạo sự liên kết kinh tế giữa một số  nước đã có quan hệ  gắn bó hoặc phụ  thuộc lẫn nhau với ý định cạnh tranh hoặc   chống lại sự xâm nhập kinh tế – tài chính của các khối kinh tế khác. ­ Có thể tạo ra các mối liên kết (liên minh) về chính trị giữa các quốc gia một  cách chặt chẽ  hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước dưới sự  chỉ  huy hoặc thao   túng của một quốc gia mạnh. ­ Củng cố  vai trò và vị  trí kinh tế  – tiền tệ của một số  quốc gia trong khu  vực. Quá trình phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế Hệ thống tiền tệ quốc tế đã hình thành từ tự phát đến tự giác.   Ban đầu là tự  phát thể  hiện một đồng tiền của quốc gia nào đó tự  nó có đầy đủ  các yếu tố  trở  thành tiền tệ quốc tế.  Dần dần hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành một cách   tự giác trên cơ sở các quốc gia thỏa thuận, thống nhất với nhau thông qua đàm phán,   ký kết văn bản hoặc thừa nhận một đồng tiền của một quốc gia nào đó làm đơn vị  tiền tệ quốc tế. Hệ thống bản vị vàng (gold standard)  Từ   trước   dương   lịch   300   năm,   thời   của   các   Pharaoh,   vàng   được   xem   là  phương tiện thanh toán và cất trữ.  Hy Lạp và đế  chế  Roman dùng tiền vàng cho   đến thời kỳ khếch trương thương mại của thế kỷ 19.  Khi s ự gia tăng thương mại  lớn hơn đã đặt ra yêu cầu cần phải có hệ  thống chính thức trong cán cân thương  mại quốc tế.  Các quốc gia lần lượt thiết lập các mệnh giá cho các loại tiền tệ của   quốc gia mình theo giá trị  của vàng và từ  đó gắn với luật chơi đã đặt ra.  Chế  độ 
  9. bản vị  vàng được xem là hệ  thống tiền tệ  quốc tế  được Châu Âu thừa nhận từ  những năm 1870.  Mỹ là nước đi sau và chỉ thừa nhận hệ thống này đến năm 1879. Theo bản vị vàng, tỷ lệ chuyển đổi giữa hai loại tiền bất kì xác lập dựa trên   giá trị của vàng của hai loại tiền đó ( tiền tệ lưu thông là tiền đúc bằng vàng ). Thí  dụ,  hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gram và của 1 đô la Mỹ  ( USD) là 0,888671 gram do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là: Chế độ này ra đời có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế tỷ giá giữa   các đồng tiền là cố định. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển, lượng vàng cung ứng   không đáp ứng đủ cho lượng hàng hóa được làm ra từ đó gây áp lực nên nền kinh tế  vì vậy mà chế độ bản vị  vàng đã sụp đổ  sau hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc   Đại khủng hoảng năm 1930. Hệ thống Bretton Woods: 1945 – 1972 Tháng 7/1944, đại diện 44 nước họp tại Bretton Woods, New Hampshire  để  bàn bạc phác thảo hệ  thống tiền tệ  quốc tế  thời hậu chiến.  Sau nhiều lần tranh   cãi, thương lượng, các đại diện đã cùng dự  thảo và ký kết Thỏa  ước mang tên   Bretton Woods.  Hiệp định Bretton Woods thiết lập hệ  thống tiền tệ quốc tế dựa   trên đồng Đô la Mỹ và thiết lập hai định chế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và   Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD).  Theo đó, IMF chuyên hỗ trợ các  quốc gia thành viên trong cán cân thanh toán và vấn đề  tỷ  giá còn Ngân hàng Tái  thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) mà chúng ta thường gọi là  Ngân hàng Thế giới   (WB) hỗ  trợ  vốn tái thiết sau chiến tranh và tài trợ  phát triển kinh tế  các nước   nghèo. Hiệp định Bretton Woods thực chất là thỏa thuận hướng về  việc giữ  giá  đồng tiền các nước theo giá vàng và chống lạm phát giá cả.  Đồng tiền của Hoa Kỳ  (USD) dựa trên thế mạnh của nền kinh tế phát triển vượt hơn và không bị tàn phá  trong chiến tranh đã được cố định ở mức 35 USD = 1OUNCE* vàng làm chuẩn cho  việc xác định tỷ giá đồng tiền của các nước còn lại tương ứng với đồng đô la Mỹ.   Các nước tham gia đồng ý duy trì giá trị của đồng tiền của mình trong vòng 1% (sau   này mở  rộng đến 2.25%) của mệnh giá bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ  hoặc   vàng khi cần thiết.  Làm giảm giá đã không được sử dụng như một chính sách cạnh  tranh thương mại trong giai đoạn này, nhưng nếu một đồng tiền quá yếu và khi mất 
  10. giá quá 10% thì cần có sự  can thiệp của IMF. Như  vậy, có thể  xem hệ  thống  Bretton Woods là “hệ thống bản vị hối đoái vàng dựa trên Đô la Mỹ”.  Hệ  thống Bretton Woods được duy trì đến năm 1971 thì sụp đổ.   Nguyên  nhân của sự sụp đổ này lạm phát quá mức ở Mỹ, biểu hiện ở sự mất giá rõ rệt của  đồng đô la Mỹ, nhất là trong tương quan với đồng mark Đức và yên Nhật.  Tổng   thống Richard M. Nixon đã tuyên bố  chấm dứt việc chuyển đổi đô la ra vàng vào  ngày 15/8/1971. Hệ thống tiền tệ  quốc tế hiện đại – chế  độ  tỷ  giá hối đoái linh   hoạt (Flexible Exchange Rate) : từ 1973 đến nay     Đầu tháng 2/1973, một cuộc công kích ồ ạt mang tính đầu cơ vào đồng đô la  Mỹ  lại bắt đầu dẫn tới thị  trường ngoại hối phải đóng cửa.   Sau khi các NHTW   châu Âu mua 3,6 tỷ  đô la vào 1/3/1973 để  ngăn chặn đồng tiền của họ  lên giá, thị  trường ngoại hối lại đóng cửa một lần nữa.  Khi thị trường ngoại hối mở lại vào   19/3, đồng yên của Nhật và phần lớn các đồng tiền của các nước châu Âu được thả  nổi so với đồng đô la. Giá thị  trường tăng từ  38 lên 42 USD/ounce vàng.  Việc thả  nổi tỷ giá trao đổi đô la của các nước công nghiệp khi đó được xem như một phản   ứng tạm thời đối với việc di chuyển vốn mang tính đầu cơ và không quản lý được.   Nhưng, những thỏa thuận tạm thời được chấp nhận vào tháng 3/1973 đã trở  thành   lâu dài và đánh dấu sự kết thúc tỷ giá trao đổi cố định của hệ thống Bretton Woods   và sự bắt đầu của một thời kỳ mới sôi động trong quan hệ tiền tệ quốc tế.  Từ đó   tỷ giá hối đoái giữa những đồng tiền mạnh như Đô la, Mác, Bảng và Yên đều dao   động so với các ngoại tệ khác. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Tổng quan về tỷ giá hối đoái Khái niệm Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau.  Đó là giá cả  chuyển đổi một đơn vị tiền tệ  của nước này thành những đơn vị  tiền   tệ  của nước khác.   Ví dụ: Tỷ  giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam  ngày 12/03/2005 là 1 USD = 15804VND. Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái ­ So sánh sức mua giữa các đồng tiền: Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan  giá trị  giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể  so sánh giá cả  tại thị  trường trong  
  11. nước và trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước  với các nước khác. ­ Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu:  Thông qua cơ chế tỷ giá,  chính phủ  sử  dụng tỷ  giá để  tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ,   khuyến khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế  đối ngoại, hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai   đoạn. ­Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế  đối ngoại:   Phân phối lại thu  nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế  đối ngoại và giữa các nước có   liên quan về  kinh tế với nhau.   Khi tỷ  giá cao, tức là giảm sức mua của đồng tiền  trong nước so với đồng tiền nước ngoài.  Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất  khẩu có thêm lợi thế để cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu. ­Tỷ  giá còn là công cụ  sử  dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị  trường tiêu thụ  hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ.   Đó là   biện pháp phá giá đồng tiền.  Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản  trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi).  Việc làm này  đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật.   Phá giá đồng  tiền là việc chính phủ đứng ra tuyên bố giảm giá nội tệ so với ngoại tệ. Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế Tác động đến thương mại quốc tế: Khi tỷ  giá hối đoái tăng theo nghĩa là   đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ  sẽ có tác động bất lợi cho   nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu.  Khi tỷ giá giảm có tác động hạn chế  xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Tác động đến hoạt động đầu tư: Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ hạn chế việc   đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước, vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển   vốn bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá.  Các khoản vốn  đầu tư  này nếu được tái đầu tư  hoặc để  mua hàng hóa trong nước thì sẽ  đem lại   hiệu quả cao hơn và  ngược lại. Chế độ tỷ giá hối đoái  Chế độ tỷ giá cố định Tỷ giá cố định là tỷ giá được cố hoặc chỉ được cho phép dao động trong một   phạm vi rất hẹp.  Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá nhiều thì các chính phủ  có thể  can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này.  Chế độ tỷ 
  12. giá hối đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái được nhà nước công bố sẽ duy trì   không thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó. Đặc điểm của chế  độ  tỷ  giá cố  định về  cơ  bản, những lực cung ­ cầu vẫn   tồn tại trong thị trường ngoại tệ và chi phối số  lượng cung ­ cầu ngoại tệ trên thị  trường nhưng Nhà nước cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định.  Nếu   cung trên thị trường lớn hơn cầu  ở mức tỷ gía cố  định thì nhà nước đảm bảo mua  hết số  dư  cung ngoại tệ. Nếu cung trên thị  trường nhỏ  hơn c  ầu  ở mức tỷ  giá cố  định đó thì Nhà nước sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngoại tệ  bằng đúng lượng   dư cầu. Nhà nước sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu đó với  tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối.  Những dự báo thay đổi tỷ giá  trên thị  trường gần bằng không trừ  trường hợp nhà nước thay đổi mức tỷ  giá cố  định.  Ví dụ, Pháp đã áp dụng tỷ  giá cố  định lên các nước thuộc địa của mình khi  cho cho ra đời đồng Franc tại thuộc địa nhằm kiểm soát chặt chẽ  các nước thuộc  địa. Chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ giá thả nổi là hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào   tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị  trường.  Nhà nước hoàn toàn không có bất cứ  một tuyên bố, một cam kết nào về điều hành và chỉ đạo tỷ giá.  Nhà nước không có   bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ. Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước về cơ bản tỷ giá do thị  trường quyết định nhưng có sự  can thiệp của nhà nước vào những lúc cần thiết  nhằm tránh những cơn sốc về tỷ giá, hạn chế sự biến động.  Tỷ  giá được xác định  và thay đổi hoàn toàn phụ  thuộc tình hình quan hệ  cung cầu trên thị  trường.   Tuy   nhiên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ giá  và chỉ can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng khi tỷ giá có   sự  biến động mạnh vượt mức cho phép. Nếu tình hình kinh tế  có những thay đổi  lớn thì mức tỷ giá hối đoái, biên độ  dao động cho phép được nhà nước xác định và  công bố lại.
  13. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI  Tổng quan về thị trường ngoại hối Khái niệm Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại   tệ thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng tiền này  và đồng thời bán một đồng tiền khác.  Như vậy, các đồng tiền được trao đổi từng  cặp với nhau (ví dụ: USD/DEM).    Ở  các nước phát triển các quan hệ  cung cầu  ngoại hối đều tập trung ở thị trường ngoại hối.  Trung tâm của thị trường ngoại hối   là thị  trường liên ngân hàng, thông qua thị  trường liên hàng mọi giao dịch mua bán   ngoại hối có thể tiến hành trực tiếp với nhau. Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức   khác nhau gồm hai hệ thống bao gồm hệ thống hối đoái Anh ­ Mỹ và hệ thống hối   đoái Châu Âu: ­ Theo hệ  thống Anh­Mỹ, thị  trường hối đoái có tính chất biểu tượng, chỉ  giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số  ngân hàng và nhà môi giới qua các   phương tiện thông tin hiện đại, tức loại thị  trường không qua quầy.   Thị  trường  ngoại hối thực chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức không phải là một văn   phòng nơi mọi người ngồi lại với nhau mà đó là một mạng lưới thông tin liên lạc  ngân hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết với người môi giới ngoại hối. ­Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước Anh), thị trường hối   đoái có địa điểm giao dịch nhất định, hàng ngày những người mua bán ngoại hối tới  đó để  giao dịch và ký hợp đồng, nhưng chủ  yếu qua điện thoại, fax, telex và hệ  thống Reuters. Hiện nay các thị trường ngoại hối lớn trên thế giới gồm có nhiều thị trường lớn với  doanh số cao như : London, NewYork, Tokyo, Singapore, HongKong, Frankfurt…  Đặc điểm của thị trường ngoại hối ­ Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế:  ­ Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24 giờ/ngày trên các  khu vực khác nhau của thế giới. ­  Không có địa điểm cụ thể.  Các giao dịch mua bán được thực hiện thông  qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi tính..
  14. ­ Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai   trò làm ngoại tệ. ­  Ngôn  ngữ   sử  dụng  trên  thị   trường rất  ngắn gọn,   mang nhiều  quy  ước  nghiệp vụ rất khó hiểu với người thường. ­ Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn. ­ Giá cả hàng hoá của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình   thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.  Do đó, thị trường ngoại hối rất nhạy cảm với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm  xã hội., mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất và chịu sự tác   động của các sự kiện chính trị ­ xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh... Hàng hóa của thị trường hối đoái Hàng hóa được mua bán trên thị trường hối đoái gọi là ngoại hối.  Ngoại hối  là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các  quốc gia.  Tùy theo quan niệm của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối sẽ khác nhau.  Các thành phần tham gia  ­ Các ngân hàng thương mại: NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối với hai   mục đích: Thực hiện kinh doanh cho chính mình và cho khách hàng. Các NHTM là hạt nhân và giữ vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái. Các  NHTM lớn có chi nhánh, đại lý ở nước ngoài, họ kinh doanh ngoại hối là chủ yếu,  còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ  thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự  chỉ đạo của các ngân hàng thương mại lớn.  Các ngân hàng này có nhiệm vụ  điều  chỉnh mức dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau.  Các NHTM chủ yếu là mua đi   bán lại các loại ngoại tệ hoặc là các giao dịch có tính chất đầu cơ. ­ Các ngân hàng trung ương: Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ ­   ngân hàng và là người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các NHTW là thành phần   cơ bản trên thị trường hối đoái thông qua hành vi can thiệp trên thị trường.  ­Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ): gồm những   công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối  để phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay, đi công tác hay đi du lịch ở nước ngoài  hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. ­Các nhà môi giới ngoại hối: Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán  ngoại hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí. 
  15. ­ Các doanh nghiêp: Chủ  yếu là các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh  xuất nhập khẩu, vừa là có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương   mại quốc tế, vừa cung ngoại tệ khi có các khoản thu về  việc xuất khẩu hàng hoá   dịch vụ…và được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại  hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối. Vai trò của thị trường ngoại hối Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại   tệ  cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ  và các hoạt động kinh tế  đối ngoại khác.  Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu đáp  ứng ngay lập tức nhu cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào.  Sự  tham dự của các ngân hàng và các nhà đầu cơ cũng góp phần giải quyết sự mất cân  đối cung cầu ngoại tệ  thông qua việc điều chỉnh tỷ  giá cân bằng của thị  trường   hoặc thông qua đầu cơ ngoại tệ. Phòng chống rủi ro tỷ giá Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên  tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể.   Các công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, chi  ngoại tệ trong tương lai chịu  ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ  giá   hối đoái.  Do vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn   chế, phòng ngừa rủi ro thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn… của   thị trường ngoại hối. Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ Các NHTM tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính mình, tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị trường để thu   lời qua việc mua ở thị trường giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường giá cao hơn. Không chỉ có các ngân hàng mà các doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu   lời thông qua hoạt động đầu cơ  ngoại tệ.  Ngoài ra,thị  trường ngoại hối còn giúp   các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức   lãi dự tính cao.
  16. HỆ THỐNG CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ  VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Cộng hòa Pháp – đồng franc Pháp Tổng quan Đồng franc Pháp, còn gọi là franc , biểu tượng là F hoặc Fr, là đơn vị tiền tệ  của Pháp sử dụng từ năm 1936 và bị thay thế bởi đồng Euro vào năm 2002. Mã tiền tệ ISO 4217 của franc Pháp là FRF, con số 250, số mũ 2. Đồng franc Pháp qua các thời kỳ Ra đời: năm 1360 đến 1641 Đồng franc đầu tiên là một đồng tiền vàng được giới thiệu vào năm 1360 để  trả tiền chuộc của Vua John II của Pháp trong Chiến tranh Trăm năm, đồng xu này  bảo đảm sự  tự  do của nhà vua.   Trong khoảng thời gian từ  năm 1360 đến 1641,  những đồng xu có giá trị một tourreis đã được đúc và được gọi là francs (tên đến từ  dòng chữ  "Johannes Dei Gratia Francorum Rex", tức "John, bởi ân sủng của Thiên  Chúa” Vua của Pháp).   Ở   trên mặt đồng tiền là nhà vua cưỡi một con ngựa được  trang trí phong phú, nên người ta đặt cho đồng tiền này tên franc à cheval (có nghĩa  là   "tự   do   trên   ngựa"   trong   tiếng   Pháp).   Sau   cái   chết   của   John   II,   con   trai   của   John, Charles V, tiếp tục loại tiền này với chính sách cải cách, bao gồm tiền đúc ổn   định.   Sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm 1365 đã thiết lập một đồng tiền vàng chính  thức được gọi là denier d'or aux fleurs de lis có hình dáng đứng của nhà vua trên mặt  đối diện của nó, được vẽ  dưới tán cây. Giá trị  của nó bằng một tourreis, giống   như franc à cheval , và đồng tiền này được biết đến rộng rãi như một đồng franc à  pied.     Năm   1641  khi Louis   XIII   của  Pháp thay   thế   nó  bằng bạc écu và louis  d'or vàng.
  17.  Hình 21: Đồng Franc vàng đầu tiên năm 1360  Từ 1795 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất  Theo Công ước Cách mạng Pháp năm 1795 "Franc" thập phân được trở thành  đơn vị tiền tệ quốc gia (1 franc = 10 décimes = 100 centimes).  Đồng xu bạc hiện có   mệnh giá rõ ràng là "5 FRANCS" và bắt buộc phải báo giá bằng đồng franc.   Điều  này đã chấm dứt hoạt động của các đồng tiền không có mệnh giá rõ ràng chẳng hạn  như Louis d'or  , định kỳ  ban hành các sắc lệnh hoàng gia để  thao túng giá trị  của   chúng về  mặt tài khoản, tức là Livre tournois.  Đồng franc trở  thành tiền tệ  chính  thức của Pháp vào năm 1799.  Năm 1803, Franc germinal (được đặt tên theo tháng Germinal trong lịch cách  mạng ) được thành lập, tạo ra một đồng franc vàng chứa 290,034 mg vàng nguyên  chất.  Từ thời điểm này, các đơn vị vàng và bạc lưu thông thay thế cho nhau trên cơ  sở  tỷ  lệ  1: 15,5 giữa các giá trị  của hai kim loại (lưỡng kim). Đồng tiền này bao  gồm các đồng tiền vàng hiện đại đầu tiên có mệnh giá bằng đồng franc, lần đầu   tiên được mô tả là "Lãnh sự Bonaparte" và với quốc gia được mô tả là "République   Française" Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh thế  giới thứ nhất bùng nổ  khiến Pháp rời khỏi tiêu chuẩn vàng  của Liên minh tiền tệ Latinh.  Chiến tranh làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của  đồng franc: chi tiêu chiến tranh, lạm phát và tái thiết sau chiến tranh, được tài trợ  một phần bằng cách in thêm tiền, giảm 70% sức mua của franc trong khoảng thời   gian từ 1915 đến 1920 và giảm thêm 43% trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1926.   Đồng tiền tiếp tục trượt, cho đến năm 1959, sức mua có giá trị  dưới 2,5% giá trị  năm 1934. Chiến tranh thế giới thứ hai Trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp (từ   năm 1940­ năm 1944), đồng   franc là một loại tiền tệ  phụ thuộc vào Reichsmark của Đức với tỷ  giá hối đoái là  20   franc   cho   Reichsmark.   Các   đồng   tiền   đã   được   thay   đổi,   với   các   từ Travail,  famille, patrie (Công việc, Gia đình, Tổ quốc) thay thế cho bộ ba Cộng hòa  Liberté,  égalité,   huynh   đệ (Liberty,   Equality,   Frhood),   với   biểu   tượng   của chế   độ  Vichy được thêm vào.Sau giải phóng, Hoa Kỳ đã cố gắng áp đặt việc sử dụng đồng  “flag ticket” franc  của Hoa Kỳ lên Pháp nhưng đã bị Tướng De Gaulle ngăn chặn.
  18. Sau chiến tranh thế giới thứ hai đến 1999 Sau   Thế   chiến   thứ   II,   Pháp   đã   phá   giá   tiền   tệ   của   mình   trong  hệ   thống  Bretton   Woods trong   nhiều   lần. Bắt   đầu   từ   năm   1945   với   tỷ   giá   480   franc   so   với bảng Anh (119,1 đô la Mỹ ), đến năm 1949, tỷ giá là 980 đến bảng Anh (350 đến  đô la).  Điều này đã giảm hơn nữa vào năm 1957 và 1958, đạt 1382,3 đến bảng Anh  (493,7 đô la, tương đương với 1 franc = 1,8 mg vàng nguyên chất). Sau hai thế kỷ lạm phát với những rắc rối vẫn tiếp thục từ thời hậu chiến,   vào tháng 1 năm 1960, Tướng de Gaulle quyết định đồng franc Pháp đã được định  giá lại, với 100 franc hiện có bằng một franc nouveau.   Chữ  viết tắt "NF" (new   franc) đã được sử dụng trên tiền giấy thiết kế năm 1958 cho đến năm 1963.  Tiền   cũ một và hai franc tiếp tục lưu hành.   Đồng xu một xu không lưu hành rộng rãi.  Lạm phát tiếp tục làm xói mòn giá trị của đồng franc: giữa năm 1950 và 1960, mức  giá tăng 72% (trung bình 5,7% mỗi năm); giữa năm 1960 và 1970, nó đã tăng 51%.  Sau khi Pháp kí kết Hiệp  định Maastricht tạo ra Liên minh Châu Âu vào   07/02/1992 và Ngân hàng Trung  Ương Châu Âu (ECB)  đã cho ra  đời đồng tiền  chung Châu Âu gọi là Euro.  Đồng franc Pháp bị  thay thế bởi đồng Euro với tỷ giá   hối đoái được đặt ở mức ngang giá cố định € 1 = 6,55957 F.  Tất cả các đồng tiền   franc và tiền giấy đã không còn được đấu thầu hợp pháp vào tháng 1 năm 2002, khi  đồng euro chính thức được thông qua. Vị thế trên thị trường ngoại hối Ra đời năm 1360, dù bị  ngắt quãng sử  dụng trong thời gian khá dài (từ  năm   1641 đến 1795), đồng franc vẫn để  lại dấu  ấn mạnh mẽ  hơn nhiều so với đồng  livre trước đó khi gắn liền với lịch sử thực dân của Pháp.  Những đồng franc đầu  tiên được phát hành với mục đích chủ  yếu là giúp vua John II chuộc lại sự  tự  do   của chính mình do nền kinh tế Pháp đã hết sức suy yếu.  Tuy nhiên, đồng franc đã  được duy trì tiếp sau đó với giá trị  tính bằng tiền của nó là một livre tournois cho   đến năm 1577.  Vào thời gian này, dòng chảy của vàng và bạc từ  Tây Ban Nha và   Mỹ đã gây ra lạm phát trên toàn thế giới, các vị vua của Pháp ­  những người không  nhận được nhiều của cải này ­   khiến mọi thứ tồi tệ hơn khi gán giá trị  cho đồng   franc của họ.  Henry III đã định giá một đồng xu franc bạc có giá trị bằng một livre   tournois khiến  đồng franc mất giá nghiêm trọng.  Đồng xu này và các phân số của  nó lưu hành cho đến năm 1641 khi Louis XIII của Pháp thay thế nó bằng bạc écu.
  19. Cũng cùng thời gian này, Pháp bắt đầu xây dựng thuộc địa ở châu Mỹ, biển  Ca­ri­bê và  Ấn Độ.   Việc mở  rộng thuộc địa giúp đồng franc Pháp mở  rộng  ảnh   hưởng đến các khu vực này và giúp mở  rộng sự  giao thương của Pháp, thúc đẩy  sản xuất buôn bán.  Tuy nhiên sau đó các thuộc địa này phần lớn bị mất hoặc bị bán. Đồng franc trở  lại vào năm 1795 và chính thức thành tiền tệ  của Pháp vào   năm 1799 với kĩ thuật tiền tệ thập.  Việc lưu thông tiền tệ kim loại này giảm trong  Séc, những đồng xu vàng và bạc cũ được đưa ra khỏi lưu thông và trao đổi cho in  tiền giấy assignats, ban đầu phát hành như trái phiếu được hỗ  trợ  bởi giá trị  của  hàng hóa bị tịch thu của nhà thờ, nhưng sau đó khai báo là tệ hợp pháp.  Những đồng   tiền vàng và bạc rút ra được dùng để tài trợ cho các cuộc chiến tranh và nhập khẩu   lương thực, vốn đang thiếu hụt.   Như  trong " Bong bóng Mississippi " năm 1715 ­  1720, quá nhiều tiền chuyển nhượng đã được đưa vào lưu hành, vượt quá giá trị của  "tài sản quốc gia", và tiền xu, cũng do quân đội trưng dụng và tích trữ, hiếm khi trả  cho các nhà cung cấp nước ngoài.  Với khoản nợ của chính phủ quốc gia vẫn chưa  được thanh toán, và sự  thiếu hụt bạc và đồng thau để  đúc tiền xu khiến niềm tin  vào đồng tiền mới giảm sút, dẫn đến siêu lạm phát, nhiều bạo loạn lương thực, bất  ổn chính trị  nghiêm trọng.   Sau một cuộc đảo chính dẫn, Lãnh sự  quán dần dần  giành được quyền lập pháp duy nhất với chi phí của các tổ  chức tư  vấn lập pháp   không ổn định và mất uy tín khác. Đến năm 1850, thực dân Pháp tập trung chủ yếu xây dựng thuộc địa ở Châu  Phi cũng như Đông Dương và Nam Thái Bình Dương.  Dưới đế chế thực dân Pháp,  các mối quan hệ ưu tiên giữa những đồng tiền của các lãnh thổ và đồng franc Pháp  cho phép xác định một khu vực tiền tệ  đặc trưng.  Theo nghĩa rộng, một khu vực  tiền tệ được xác định chủ yếu bởi sự cùng tồn tại của một đồng tiền thống trị  và   nhiều đồng tiền vệ tinh, sự thống nhất của toàn khối được bảo đảm nhờ khả năng  chuyển đổi của tất cả các đồng tiền này với nhau trên cơ sở các ngang giá cố định.   Việc tổ  chức nhiều nước thành một khu vực tiền tệ thường nằm trong khuôn khổ  rộng hơn, với đặc điểm là có các mối quan hệ chính trị và kinh tế ưu tiên.  Vì vậy,   vị thế quan trọng của đồng franc đã được khẳng định trên thị trường tiền tệ, tạo ra   sự đảm bảo một tỷ giá hối đoái cố  định cho các đồng tiền trong khu vực cùng các  nước cùng sử  dụng đồng franc và cũng giúp Pháp kiểm soát chặt chẽ  chính trị  và   kinh tế của các nước thuộc địa.
  20. Kể từ thế kỷ 19, Pháp đã quyết định tổ chức phát hành tiền tệ tại các nước  thuộc địa và ưu tiên cho một số ngân hàng tư nhân đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ  về  tỷ  giá  của chính quyền Pháp như  Ngân hàng Angiêri, Ngân hàng Đông Dương,   Ngân hàng Tây Phi, Ngân hàng Ăng­ti,... Những đồng tiền này đã được phát hành để  rút dần các đồng tiền bản địa (tiền mani,  ốc tiền) hoặc các đồng tiền nước ngoài  đang lưu thông trên các lãnh thổ  thuộc địa.  Để  bảo đảm chất lượng của việc lưu   thông tiền tệ, các ngân hàng phát hành của địa phương phải chịu sự kiểm soát của   chính quyền Pháp nhất là khi trao đổi giữa Pháp và các nước thuộc địa ngày càng   tăng.  Theo hiệp  ước ngày 23/12/1865, Pháp, Bỉ,  Ý và Thụy Sĩ   đã thành lập Liên  minh tiền tệ  Latinh qua đó thiết lập tiêu chuẩn trao đổi dựa trên các thông số  kỹ  thuật của đồng franc vàng của Pháp, việc gia nhập Liên minh tiên tệ  Latinh giúp   franc Pháp tạo vị thế mạnh, được sử dụng rộng rãi và chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ  dự  trữ    không chỉ  đối với các nước tham gia mà còn là các nước tham gia không   chính thức cùng các thuộc địa. Sau chiến tranh thế  giới thứ  nhất, với tư  thế  là nước thắng cuộc, Pháp có  thêm cơ  hội mở  rộng hơn nữa các hệ  thống thuộc địa của mình nhưng nạn khủng   hoảng do thiếu vàng tồn tại trong chiến tranh khiến tiền giấy cưỡng bách lưu hành   mất 80% giá trị, lạm phát tăng cao.  Để  thoát khỏi tình trạng bế  tắc này, Pháp đã  dùng biện pháp thay vì đổi tiền giấy trực tiếp ra vàng, người ta chỉ cho đổi lấy thứ  tiền giấy ngoại quốc có thể  đổi ra vàng.  Chính phủ  Pháp cũng cắt giảm thuế, và  vào cuối những năm 1920, nền kinh tế Pháp đã phục hồi trở lại.  Nhờ  sự thay đổi từ kim bản vị thành kim hoán bản vị, các nước châu Âu đã   thoát khỏi khủng hoảng.  Tuy nhiên, chế độ  này cũng chỉ  được thi hành trong thời  gian ngắn đến năm 1931.  Sau khi NHTW Anh đã bãi bỏ  tính chuyển đổi của đồng  bảng Anh và giảm giá đồng bảng Anh khoảng 30%, tất cả các nước theo Anh cũng  từ bỏ khả năng chuyển đổi tiền sang vàng khiến tiền tệ sụt giảm.  Khi giá vàng trên  thế giới giảm sút sau các đợt giảm giá đồng tiền trên toàn bộ thế giới, một số nước   thuộc hệ  thống đồng franc như  Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ vẫn giữ  nguyên không giảm giá  các đồng tiền của mình khiến cho vàng của Pháp quá cao so với thế giới.  Các nhà  xuất khẩu Pháp gặp khó khăn, nhâp khẩu tăng thái quá, tình hình thương mại xấu  đi.  Sự sợ hãi vào tương lai của đồng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2