Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối
lượt xem 14
download
Tiểu luận bao gồm 3 chương với các nội dung: cơ sở lý luận về hệ thống tiền tệ và thị trường ngoại hối; hệ thống các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối; một số nhận xét và kiến nghị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM KHOA TÀI CHÍNH – THƯƠNG MẠI BÀI TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài HỆ THỐNG TIỀN TỆ CỦA CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Ngành: TÀI CHÍNH THƯƠNG MẠI Chuyên ngành: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Giảng viên hướng dẫn: TS.NGUYỄN THỊ CÚC HỒNG Sinh viên thực hiện: MSSV Lớp 1. Nguyễn Thị Huyền Trang 19DTCB4 2. Hồ Thu Trang 19DTCB4 3. Nguyễn Quỳnh Như 19DTCB4 4. Nguyễn Nhật Uyên 19DTCB4 5. Mai Thị Ánh Tuyết 19DTCB4 TP. Hồ Chí Minh, 2020
- DANH SÁCH NHÓM 2 LỚP 19DTCB4 CA 2 THỨ 2,4 ĐÁNH STT HỌ VÀ TÊN PHÂN CÔNG GIÁ Tìm hiểu đồng franc CFP, lời mở 1 Nguyễn Thị Huyền Trang 10/10 đầu và lời kết, sửa lỗi. Tìm hiểu đồng franc Pháp và làm 2 Hồ Thu Trang 10/10 word. Tìm hiểu đồng franc CFA và làm 3 Nguyễn Quỳnh Như 10/10 powerpoint. Tìm hiểu đồng franc CHF và một số 4 Nguyễn Nhật Uyên 10/10 đồng khác. Lý thuyết về hệ thống tiền tệ và 5 Mai Thị Ánh Tuyết 10/10 thị trường ngoại hối. 2
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT VIẾT TẮT DIỄN GIẢI NHTW Ngân hàng Trung Ương NHTM Ngân hàng Thương mại ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu USD Đô la Mỹ GBP Bảng Anh FPF Franc Pháp JPY Yên Nhật DEM Mác Đức GDP Tổng sản phẩm quốc gia IFM Quỹ tiền tệ Quốc tế SNB Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ CEDEAO Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi WAMU Tám nước thuộc Liên minh Tiền tệ Tây Phi
- DANH SÁCH CÁC BIỂU DỒ, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ ra đời và tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế được tiền tệ hóa cao độ. Cùng với sự phát triển năng động của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu trong xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ cung cầu nguồn tài chính ngày càng tăng. Dựa theo nghiên cứu của MarxLenin về lịch sử và bản chất của tiền tệ: “Tiền là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.” Vì vậy, mỗi quốc gia hay mỗi khu vực đều có một đồng tiền đại diện riêng. Đồng Franc từ khi xuất hiện đến nay đã đóng một vai trò rất quan trọng trong thị trường tiền tệ của khu vực và cả thế giới. Vậy tại sao lại nói đồng Franc có vai trò quan trọng trong thị trường ngoại hối? Để hiểu rõ hơn Nhóm 2 đã có bài nghiên cứu về đề tài :” Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối” nhằm mục đích có thể đi sâu vào nghiên cứu về lịch sử hình thành, quá trình phát triển và vị thế của nó trong thị trường ngoại hối.
- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ VÀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI HỆ THỐNG TIỀN TỆ Tổng quan về hệ thống tiền tệ Tiền tệ ra đời như là một tất yếu của hoạt động trao đổi, tuy nhiên tiền tệ chỉ thực sự phát triển trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Kể từ khi ra đời đến nay, tiền tệ đã tồn tại nhiều hình thái khác nhau bao gồm: Vật ngang giá chung (hình thái cổ xưa). Tiền kim loại: Vàng và bạc là phổ biến nhất. Vàng đại diện cho sự giàu có và của cải và được gọi là kim loại quý. Do khối lượng vàng hạn chế nên người ta sử dụng kim loại khác để đúc tiền ( đồng, nhôm ) những đồng tiền kim loại đầu tiên được đúc do các địa chỉ, tầng lớp quý tộc. Tiền giấy do sự phát triển của ngành in. Tiền tín dụng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng giữa các nước với nhau, trong hệ thống thanh toán đã xuất hiện tiền tín dụng. Việc sử dụng tiền tín dụng rất thuận lợi và an toàn. Đối với bản thân nền kinh tế thì tất cả đồng tiền của nền kinh tế được đưa vào lưu thông, tốc độ luân chuyển nhiều nên tăng GDP. Ngày nay chúng ta còn có các khái niệm phân biệt giữa tiền của một nước và tiền thế giới như tiền tệ quốc gia và tiền tệ quốc tế. Về cơ bản, chúng đều là tiền,
- có chức năng giống nhau là lưu thông, trao đổi, buôn bán. Tuy nhiên hai loại tiền này có sự khác nhau về phạm vi: Tiền quốc gia được từng quốc gia thừa nhận còn tiền quốc tế được nhiều quốc gia thừa nhận. Vậy để tiền tệ quốc gia trở thành tiền tệ quốc tế dựa trên cơ sở là đồng tiền đó phải có khả năng chuyển đổi. Chính vì sự cần thiết của việc trao đổi giữa các quốc gia với nhau trong một xã hội đã phát triển vượt bậc, như một sự tất yếu, hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời giải quyết những khó khăn cho nền kinh tế. Hệ thống tiền tệ quốc tế là một định chế chung, mà trong đó thực hiện những hoạt động thanh toán quốc tế, điều tiết các giao dịch vốn và quyết định tỷ giá hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ. Nghĩa là hệ thống tiền tệ quốc tế là cơ chế tổ chức lưu thông tiền tệ giữa các quốc gia, được thực hiện bằng những thỏa ước và quy định ràng buộc của các quốc gia, có hiệu lực trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Hệ thống tiền tệ quốc tế tập trung vào hai đặc điểm đó là chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị quốc tế và tổ chức lưu thông tiền tệ. Chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị tiền tệ quốc tế. Đơn vị tiền tệ chung là đơn vị thanh toán, đo lường và dự trữ giá trị của một cộng đồng kinh tế. Thông thường các nước sử dụng một đồng tiền mạnh của một quốc gia nào đó trong khối làm đồng tiền chung của khối. Các đồng tiền USD, GBP, FRF, JPY, DEM đã từng là các đồng tiền quốc tế trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, sau này do sự phát triển và hội nhập kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện do vậy, mà các nước châu Âu đã không chọn một đồng tiền nào của quốc gia được làm đồng tiền chung, mà các nước trong liên minh tự định ra một đồng tiền chung của cả khối. Chẳng hạn: Ngày 01/01/1999 Đồng tiền chung của châu Âu là euro đã ra đời với tỷ giá ngay tại ngày ra đời là 1 EUR = 1,16675 USD. Tổ chức lưu thông tiền tệ: Chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ trong các hệ thống tiền tệ quốc tế thông thường bao gồm những nội dung đặc trưng sau: Xác định tỷ giá giữa đồng tiền chung với các đồng tiền thành viên của khối. Có thể theo tỷ giá cố định hoặc tỷ giá thả nổi. Quy định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và lưu thông các giấy tờ có giá khác ghi bằng đồng tiền chung của cả khối. Quy định về tỷ lệ dự trữ ngoại hối: ấn định tỷ trọng giá trị
- của đồng tiền chung trong tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên, của ngân hàng thuộc khối. Tiền tệ quốc tế và hệ thống tiền tệ quốc tế đều là sản phẩm của các liên minh kinh tế. Do vậy sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế phụ thuộc vào các liên minh kinh tế. Tuy nhiên, các liên minh kinh tế thường không đứng vững trong một thời gian dài do các nguyên nhân khác nhau cho nên khi các liên minh kinh tế tan vỡ thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng bị ảnh hưởng theo. Mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành đều xuất phát từ những mục đích nhất định của các nước tham gia. Tuy nhiên có thể thấy các hệ thống tiền tệ đều có một số mục đích chung như sau: Mở mang giao lưu về kinh tế quốc tế, tạo sự liên kết kinh tế giữa một số nước đã có quan hệ gắn bó hoặc phụ thuộc lẫn nhau với ý định cạnh tranh hoặc chống lại sự xâm nhập kinh tế – tài chính của các khối kinh tế khác. Có thể tạo ra các mối liên kết (liên minh) về chính trị giữa các quốc gia một cách chặt chẽ hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước dưới sự chỉ huy hoặc thao túng của một quốc gia mạnh. Củng cố vai trò và vị trí kinh tế – tiền tệ của một số quốc gia trong khu vực. Quá trình phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế Hệ thống tiền tệ quốc tế đã hình thành từ tự phát đến tự giác. Ban đầu là tự phát thể hiện một đồng tiền của quốc gia nào đó tự nó có đầy đủ các yếu tố trở thành tiền tệ quốc tế. Dần dần hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành một cách tự giác trên cơ sở các quốc gia thỏa thuận, thống nhất với nhau thông qua đàm phán, ký kết văn bản hoặc thừa nhận một đồng tiền của một quốc gia nào đó làm đơn vị tiền tệ quốc tế. Hệ thống bản vị vàng (gold standard) Từ trước dương lịch 300 năm, thời của các Pharaoh, vàng được xem là phương tiện thanh toán và cất trữ. Hy Lạp và đế chế Roman dùng tiền vàng cho đến thời kỳ khếch trương thương mại của thế kỷ 19. Khi s ự gia tăng thương mại lớn hơn đã đặt ra yêu cầu cần phải có hệ thống chính thức trong cán cân thương mại quốc tế. Các quốc gia lần lượt thiết lập các mệnh giá cho các loại tiền tệ của quốc gia mình theo giá trị của vàng và từ đó gắn với luật chơi đã đặt ra. Chế độ
- bản vị vàng được xem là hệ thống tiền tệ quốc tế được Châu Âu thừa nhận từ những năm 1870. Mỹ là nước đi sau và chỉ thừa nhận hệ thống này đến năm 1879. Theo bản vị vàng, tỷ lệ chuyển đổi giữa hai loại tiền bất kì xác lập dựa trên giá trị của vàng của hai loại tiền đó ( tiền tệ lưu thông là tiền đúc bằng vàng ). Thí dụ, hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gram và của 1 đô la Mỹ ( USD) là 0,888671 gram do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là: Chế độ này ra đời có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế tỷ giá giữa các đồng tiền là cố định. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển, lượng vàng cung ứng không đáp ứng đủ cho lượng hàng hóa được làm ra từ đó gây áp lực nên nền kinh tế vì vậy mà chế độ bản vị vàng đã sụp đổ sau hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc Đại khủng hoảng năm 1930. Hệ thống Bretton Woods: 1945 – 1972 Tháng 7/1944, đại diện 44 nước họp tại Bretton Woods, New Hampshire để bàn bạc phác thảo hệ thống tiền tệ quốc tế thời hậu chiến. Sau nhiều lần tranh cãi, thương lượng, các đại diện đã cùng dự thảo và ký kết Thỏa ước mang tên Bretton Woods. Hiệp định Bretton Woods thiết lập hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên đồng Đô la Mỹ và thiết lập hai định chế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD). Theo đó, IMF chuyên hỗ trợ các quốc gia thành viên trong cán cân thanh toán và vấn đề tỷ giá còn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) mà chúng ta thường gọi là Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ vốn tái thiết sau chiến tranh và tài trợ phát triển kinh tế các nước nghèo. Hiệp định Bretton Woods thực chất là thỏa thuận hướng về việc giữ giá đồng tiền các nước theo giá vàng và chống lạm phát giá cả. Đồng tiền của Hoa Kỳ (USD) dựa trên thế mạnh của nền kinh tế phát triển vượt hơn và không bị tàn phá trong chiến tranh đã được cố định ở mức 35 USD = 1OUNCE* vàng làm chuẩn cho việc xác định tỷ giá đồng tiền của các nước còn lại tương ứng với đồng đô la Mỹ. Các nước tham gia đồng ý duy trì giá trị của đồng tiền của mình trong vòng 1% (sau này mở rộng đến 2.25%) của mệnh giá bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ hoặc vàng khi cần thiết. Làm giảm giá đã không được sử dụng như một chính sách cạnh tranh thương mại trong giai đoạn này, nhưng nếu một đồng tiền quá yếu và khi mất
- giá quá 10% thì cần có sự can thiệp của IMF. Như vậy, có thể xem hệ thống Bretton Woods là “hệ thống bản vị hối đoái vàng dựa trên Đô la Mỹ”. Hệ thống Bretton Woods được duy trì đến năm 1971 thì sụp đổ. Nguyên nhân của sự sụp đổ này lạm phát quá mức ở Mỹ, biểu hiện ở sự mất giá rõ rệt của đồng đô la Mỹ, nhất là trong tương quan với đồng mark Đức và yên Nhật. Tổng thống Richard M. Nixon đã tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi đô la ra vàng vào ngày 15/8/1971. Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện đại – chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt (Flexible Exchange Rate) : từ 1973 đến nay Đầu tháng 2/1973, một cuộc công kích ồ ạt mang tính đầu cơ vào đồng đô la Mỹ lại bắt đầu dẫn tới thị trường ngoại hối phải đóng cửa. Sau khi các NHTW châu Âu mua 3,6 tỷ đô la vào 1/3/1973 để ngăn chặn đồng tiền của họ lên giá, thị trường ngoại hối lại đóng cửa một lần nữa. Khi thị trường ngoại hối mở lại vào 19/3, đồng yên của Nhật và phần lớn các đồng tiền của các nước châu Âu được thả nổi so với đồng đô la. Giá thị trường tăng từ 38 lên 42 USD/ounce vàng. Việc thả nổi tỷ giá trao đổi đô la của các nước công nghiệp khi đó được xem như một phản ứng tạm thời đối với việc di chuyển vốn mang tính đầu cơ và không quản lý được. Nhưng, những thỏa thuận tạm thời được chấp nhận vào tháng 3/1973 đã trở thành lâu dài và đánh dấu sự kết thúc tỷ giá trao đổi cố định của hệ thống Bretton Woods và sự bắt đầu của một thời kỳ mới sôi động trong quan hệ tiền tệ quốc tế. Từ đó tỷ giá hối đoái giữa những đồng tiền mạnh như Đô la, Mác, Bảng và Yên đều dao động so với các ngoại tệ khác. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Tổng quan về tỷ giá hối đoái Khái niệm Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau. Đó là giá cả chuyển đổi một đơn vị tiền tệ của nước này thành những đơn vị tiền tệ của nước khác. Ví dụ: Tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 12/03/2005 là 1 USD = 15804VND. Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái So sánh sức mua giữa các đồng tiền: Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong
- nước và trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các nước khác. Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu: Thông qua cơ chế tỷ giá, chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn. Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Phân phối lại thu nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế đối ngoại và giữa các nước có liên quan về kinh tế với nhau. Khi tỷ giá cao, tức là giảm sức mua của đồng tiền trong nước so với đồng tiền nước ngoài. Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất khẩu có thêm lợi thế để cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu. Tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ. Đó là biện pháp phá giá đồng tiền. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm này đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật. Phá giá đồng tiền là việc chính phủ đứng ra tuyên bố giảm giá nội tệ so với ngoại tệ. Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế Tác động đến thương mại quốc tế: Khi tỷ giá hối đoái tăng theo nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ sẽ có tác động bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. Khi tỷ giá giảm có tác động hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Tác động đến hoạt động đầu tư: Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước, vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển vốn bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn đầu tư này nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hóa trong nước thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn và ngược lại. Chế độ tỷ giá hối đoái Chế độ tỷ giá cố định Tỷ giá cố định là tỷ giá được cố hoặc chỉ được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá nhiều thì các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này. Chế độ tỷ
- giá hối đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái được nhà nước công bố sẽ duy trì không thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó. Đặc điểm của chế độ tỷ giá cố định về cơ bản, những lực cung cầu vẫn tồn tại trong thị trường ngoại tệ và chi phối số lượng cung cầu ngoại tệ trên thị trường nhưng Nhà nước cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định. Nếu cung trên thị trường lớn hơn cầu ở mức tỷ gía cố định thì nhà nước đảm bảo mua hết số dư cung ngoại tệ. Nếu cung trên thị trường nhỏ hơn c ầu ở mức tỷ giá cố định đó thì Nhà nước sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngoại tệ bằng đúng lượng dư cầu. Nhà nước sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu đó với tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối. Những dự báo thay đổi tỷ giá trên thị trường gần bằng không trừ trường hợp nhà nước thay đổi mức tỷ giá cố định. Ví dụ, Pháp đã áp dụng tỷ giá cố định lên các nước thuộc địa của mình khi cho cho ra đời đồng Franc tại thuộc địa nhằm kiểm soát chặt chẽ các nước thuộc địa. Chế độ tỷ giá thả nổi Tỷ giá thả nổi là hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không có bất cứ một tuyên bố, một cam kết nào về điều hành và chỉ đạo tỷ giá. Nhà nước không có bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ. Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước về cơ bản tỷ giá do thị trường quyết định nhưng có sự can thiệp của nhà nước vào những lúc cần thiết nhằm tránh những cơn sốc về tỷ giá, hạn chế sự biến động. Tỷ giá được xác định và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc tình hình quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ giá và chỉ can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng khi tỷ giá có sự biến động mạnh vượt mức cho phép. Nếu tình hình kinh tế có những thay đổi lớn thì mức tỷ giá hối đoái, biên độ dao động cho phép được nhà nước xác định và công bố lại.
- THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Tổng quan về thị trường ngoại hối Khái niệm Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng tiền này và đồng thời bán một đồng tiền khác. Như vậy, các đồng tiền được trao đổi từng cặp với nhau (ví dụ: USD/DEM). Ở các nước phát triển các quan hệ cung cầu ngoại hối đều tập trung ở thị trường ngoại hối. Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng, thông qua thị trường liên hàng mọi giao dịch mua bán ngoại hối có thể tiến hành trực tiếp với nhau. Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức khác nhau gồm hai hệ thống bao gồm hệ thống hối đoái Anh Mỹ và hệ thống hối đoái Châu Âu: Theo hệ thống AnhMỹ, thị trường hối đoái có tính chất biểu tượng, chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và nhà môi giới qua các phương tiện thông tin hiện đại, tức loại thị trường không qua quầy. Thị trường ngoại hối thực chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức không phải là một văn phòng nơi mọi người ngồi lại với nhau mà đó là một mạng lưới thông tin liên lạc ngân hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết với người môi giới ngoại hối. Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước Anh), thị trường hối đoái có địa điểm giao dịch nhất định, hàng ngày những người mua bán ngoại hối tới đó để giao dịch và ký hợp đồng, nhưng chủ yếu qua điện thoại, fax, telex và hệ thống Reuters. Hiện nay các thị trường ngoại hối lớn trên thế giới gồm có nhiều thị trường lớn với doanh số cao như : London, NewYork, Tokyo, Singapore, HongKong, Frankfurt… Đặc điểm của thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế: Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24 giờ/ngày trên các khu vực khác nhau của thế giới. Không có địa điểm cụ thể. Các giao dịch mua bán được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi tính..
- Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai trò làm ngoại tệ. Ngôn ngữ sử dụng trên thị trường rất ngắn gọn, mang nhiều quy ước nghiệp vụ rất khó hiểu với người thường. Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn. Giá cả hàng hoá của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó, thị trường ngoại hối rất nhạy cảm với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm xã hội., mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất và chịu sự tác động của các sự kiện chính trị xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh... Hàng hóa của thị trường hối đoái Hàng hóa được mua bán trên thị trường hối đoái gọi là ngoại hối. Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối sẽ khác nhau. Các thành phần tham gia Các ngân hàng thương mại: NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối với hai mục đích: Thực hiện kinh doanh cho chính mình và cho khách hàng. Các NHTM là hạt nhân và giữ vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái. Các NHTM lớn có chi nhánh, đại lý ở nước ngoài, họ kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này có nhiệm vụ điều chỉnh mức dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau. Các NHTM chủ yếu là mua đi bán lại các loại ngoại tệ hoặc là các giao dịch có tính chất đầu cơ. Các ngân hàng trung ương: Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ ngân hàng và là người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các NHTW là thành phần cơ bản trên thị trường hối đoái thông qua hành vi can thiệp trên thị trường. Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ): gồm những công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay, đi công tác hay đi du lịch ở nước ngoài hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. Các nhà môi giới ngoại hối: Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán ngoại hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí.
- Các doanh nghiêp: Chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu, vừa là có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương mại quốc tế, vừa cung ngoại tệ khi có các khoản thu về việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ…và được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối. Vai trò của thị trường ngoại hối Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu đáp ứng ngay lập tức nhu cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào. Sự tham dự của các ngân hàng và các nhà đầu cơ cũng góp phần giải quyết sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ thông qua việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị trường hoặc thông qua đầu cơ ngoại tệ. Phòng chống rủi ro tỷ giá Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ trong tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá hối đoái. Do vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn… của thị trường ngoại hối. Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ Các NHTM tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính mình, tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị trường để thu lời qua việc mua ở thị trường giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường giá cao hơn. Không chỉ có các ngân hàng mà các doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu lời thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Ngoài ra,thị trường ngoại hối còn giúp các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự tính cao.
- HỆ THỐNG CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Cộng hòa Pháp – đồng franc Pháp Tổng quan Đồng franc Pháp, còn gọi là franc , biểu tượng là F hoặc Fr, là đơn vị tiền tệ của Pháp sử dụng từ năm 1936 và bị thay thế bởi đồng Euro vào năm 2002. Mã tiền tệ ISO 4217 của franc Pháp là FRF, con số 250, số mũ 2. Đồng franc Pháp qua các thời kỳ Ra đời: năm 1360 đến 1641 Đồng franc đầu tiên là một đồng tiền vàng được giới thiệu vào năm 1360 để trả tiền chuộc của Vua John II của Pháp trong Chiến tranh Trăm năm, đồng xu này bảo đảm sự tự do của nhà vua. Trong khoảng thời gian từ năm 1360 đến 1641, những đồng xu có giá trị một tourreis đã được đúc và được gọi là francs (tên đến từ dòng chữ "Johannes Dei Gratia Francorum Rex", tức "John, bởi ân sủng của Thiên Chúa” Vua của Pháp). Ở trên mặt đồng tiền là nhà vua cưỡi một con ngựa được trang trí phong phú, nên người ta đặt cho đồng tiền này tên franc à cheval (có nghĩa là "tự do trên ngựa" trong tiếng Pháp). Sau cái chết của John II, con trai của John, Charles V, tiếp tục loại tiền này với chính sách cải cách, bao gồm tiền đúc ổn định. Sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm 1365 đã thiết lập một đồng tiền vàng chính thức được gọi là denier d'or aux fleurs de lis có hình dáng đứng của nhà vua trên mặt đối diện của nó, được vẽ dưới tán cây. Giá trị của nó bằng một tourreis, giống như franc à cheval , và đồng tiền này được biết đến rộng rãi như một đồng franc à pied. Năm 1641 khi Louis XIII của Pháp thay thế nó bằng bạc écu và louis d'or vàng.
- Hình 21: Đồng Franc vàng đầu tiên năm 1360 Từ 1795 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất Theo Công ước Cách mạng Pháp năm 1795 "Franc" thập phân được trở thành đơn vị tiền tệ quốc gia (1 franc = 10 décimes = 100 centimes). Đồng xu bạc hiện có mệnh giá rõ ràng là "5 FRANCS" và bắt buộc phải báo giá bằng đồng franc. Điều này đã chấm dứt hoạt động của các đồng tiền không có mệnh giá rõ ràng chẳng hạn như Louis d'or , định kỳ ban hành các sắc lệnh hoàng gia để thao túng giá trị của chúng về mặt tài khoản, tức là Livre tournois. Đồng franc trở thành tiền tệ chính thức của Pháp vào năm 1799. Năm 1803, Franc germinal (được đặt tên theo tháng Germinal trong lịch cách mạng ) được thành lập, tạo ra một đồng franc vàng chứa 290,034 mg vàng nguyên chất. Từ thời điểm này, các đơn vị vàng và bạc lưu thông thay thế cho nhau trên cơ sở tỷ lệ 1: 15,5 giữa các giá trị của hai kim loại (lưỡng kim). Đồng tiền này bao gồm các đồng tiền vàng hiện đại đầu tiên có mệnh giá bằng đồng franc, lần đầu tiên được mô tả là "Lãnh sự Bonaparte" và với quốc gia được mô tả là "République Française" Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến Pháp rời khỏi tiêu chuẩn vàng của Liên minh tiền tệ Latinh. Chiến tranh làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của đồng franc: chi tiêu chiến tranh, lạm phát và tái thiết sau chiến tranh, được tài trợ một phần bằng cách in thêm tiền, giảm 70% sức mua của franc trong khoảng thời gian từ 1915 đến 1920 và giảm thêm 43% trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1926. Đồng tiền tiếp tục trượt, cho đến năm 1959, sức mua có giá trị dưới 2,5% giá trị năm 1934. Chiến tranh thế giới thứ hai Trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp (từ năm 1940 năm 1944), đồng franc là một loại tiền tệ phụ thuộc vào Reichsmark của Đức với tỷ giá hối đoái là 20 franc cho Reichsmark. Các đồng tiền đã được thay đổi, với các từ Travail, famille, patrie (Công việc, Gia đình, Tổ quốc) thay thế cho bộ ba Cộng hòa Liberté, égalité, huynh đệ (Liberty, Equality, Frhood), với biểu tượng của chế độ Vichy được thêm vào.Sau giải phóng, Hoa Kỳ đã cố gắng áp đặt việc sử dụng đồng “flag ticket” franc của Hoa Kỳ lên Pháp nhưng đã bị Tướng De Gaulle ngăn chặn.
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai đến 1999 Sau Thế chiến thứ II, Pháp đã phá giá tiền tệ của mình trong hệ thống Bretton Woods trong nhiều lần. Bắt đầu từ năm 1945 với tỷ giá 480 franc so với bảng Anh (119,1 đô la Mỹ ), đến năm 1949, tỷ giá là 980 đến bảng Anh (350 đến đô la). Điều này đã giảm hơn nữa vào năm 1957 và 1958, đạt 1382,3 đến bảng Anh (493,7 đô la, tương đương với 1 franc = 1,8 mg vàng nguyên chất). Sau hai thế kỷ lạm phát với những rắc rối vẫn tiếp thục từ thời hậu chiến, vào tháng 1 năm 1960, Tướng de Gaulle quyết định đồng franc Pháp đã được định giá lại, với 100 franc hiện có bằng một franc nouveau. Chữ viết tắt "NF" (new franc) đã được sử dụng trên tiền giấy thiết kế năm 1958 cho đến năm 1963. Tiền cũ một và hai franc tiếp tục lưu hành. Đồng xu một xu không lưu hành rộng rãi. Lạm phát tiếp tục làm xói mòn giá trị của đồng franc: giữa năm 1950 và 1960, mức giá tăng 72% (trung bình 5,7% mỗi năm); giữa năm 1960 và 1970, nó đã tăng 51%. Sau khi Pháp kí kết Hiệp định Maastricht tạo ra Liên minh Châu Âu vào 07/02/1992 và Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) đã cho ra đời đồng tiền chung Châu Âu gọi là Euro. Đồng franc Pháp bị thay thế bởi đồng Euro với tỷ giá hối đoái được đặt ở mức ngang giá cố định € 1 = 6,55957 F. Tất cả các đồng tiền franc và tiền giấy đã không còn được đấu thầu hợp pháp vào tháng 1 năm 2002, khi đồng euro chính thức được thông qua. Vị thế trên thị trường ngoại hối Ra đời năm 1360, dù bị ngắt quãng sử dụng trong thời gian khá dài (từ năm 1641 đến 1795), đồng franc vẫn để lại dấu ấn mạnh mẽ hơn nhiều so với đồng livre trước đó khi gắn liền với lịch sử thực dân của Pháp. Những đồng franc đầu tiên được phát hành với mục đích chủ yếu là giúp vua John II chuộc lại sự tự do của chính mình do nền kinh tế Pháp đã hết sức suy yếu. Tuy nhiên, đồng franc đã được duy trì tiếp sau đó với giá trị tính bằng tiền của nó là một livre tournois cho đến năm 1577. Vào thời gian này, dòng chảy của vàng và bạc từ Tây Ban Nha và Mỹ đã gây ra lạm phát trên toàn thế giới, các vị vua của Pháp những người không nhận được nhiều của cải này khiến mọi thứ tồi tệ hơn khi gán giá trị cho đồng franc của họ. Henry III đã định giá một đồng xu franc bạc có giá trị bằng một livre tournois khiến đồng franc mất giá nghiêm trọng. Đồng xu này và các phân số của nó lưu hành cho đến năm 1641 khi Louis XIII của Pháp thay thế nó bằng bạc écu.
- Cũng cùng thời gian này, Pháp bắt đầu xây dựng thuộc địa ở châu Mỹ, biển Caribê và Ấn Độ. Việc mở rộng thuộc địa giúp đồng franc Pháp mở rộng ảnh hưởng đến các khu vực này và giúp mở rộng sự giao thương của Pháp, thúc đẩy sản xuất buôn bán. Tuy nhiên sau đó các thuộc địa này phần lớn bị mất hoặc bị bán. Đồng franc trở lại vào năm 1795 và chính thức thành tiền tệ của Pháp vào năm 1799 với kĩ thuật tiền tệ thập. Việc lưu thông tiền tệ kim loại này giảm trong Séc, những đồng xu vàng và bạc cũ được đưa ra khỏi lưu thông và trao đổi cho in tiền giấy assignats, ban đầu phát hành như trái phiếu được hỗ trợ bởi giá trị của hàng hóa bị tịch thu của nhà thờ, nhưng sau đó khai báo là tệ hợp pháp. Những đồng tiền vàng và bạc rút ra được dùng để tài trợ cho các cuộc chiến tranh và nhập khẩu lương thực, vốn đang thiếu hụt. Như trong " Bong bóng Mississippi " năm 1715 1720, quá nhiều tiền chuyển nhượng đã được đưa vào lưu hành, vượt quá giá trị của "tài sản quốc gia", và tiền xu, cũng do quân đội trưng dụng và tích trữ, hiếm khi trả cho các nhà cung cấp nước ngoài. Với khoản nợ của chính phủ quốc gia vẫn chưa được thanh toán, và sự thiếu hụt bạc và đồng thau để đúc tiền xu khiến niềm tin vào đồng tiền mới giảm sút, dẫn đến siêu lạm phát, nhiều bạo loạn lương thực, bất ổn chính trị nghiêm trọng. Sau một cuộc đảo chính dẫn, Lãnh sự quán dần dần giành được quyền lập pháp duy nhất với chi phí của các tổ chức tư vấn lập pháp không ổn định và mất uy tín khác. Đến năm 1850, thực dân Pháp tập trung chủ yếu xây dựng thuộc địa ở Châu Phi cũng như Đông Dương và Nam Thái Bình Dương. Dưới đế chế thực dân Pháp, các mối quan hệ ưu tiên giữa những đồng tiền của các lãnh thổ và đồng franc Pháp cho phép xác định một khu vực tiền tệ đặc trưng. Theo nghĩa rộng, một khu vực tiền tệ được xác định chủ yếu bởi sự cùng tồn tại của một đồng tiền thống trị và nhiều đồng tiền vệ tinh, sự thống nhất của toàn khối được bảo đảm nhờ khả năng chuyển đổi của tất cả các đồng tiền này với nhau trên cơ sở các ngang giá cố định. Việc tổ chức nhiều nước thành một khu vực tiền tệ thường nằm trong khuôn khổ rộng hơn, với đặc điểm là có các mối quan hệ chính trị và kinh tế ưu tiên. Vì vậy, vị thế quan trọng của đồng franc đã được khẳng định trên thị trường tiền tệ, tạo ra sự đảm bảo một tỷ giá hối đoái cố định cho các đồng tiền trong khu vực cùng các nước cùng sử dụng đồng franc và cũng giúp Pháp kiểm soát chặt chẽ chính trị và kinh tế của các nước thuộc địa.
- Kể từ thế kỷ 19, Pháp đã quyết định tổ chức phát hành tiền tệ tại các nước thuộc địa và ưu tiên cho một số ngân hàng tư nhân đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ về tỷ giá của chính quyền Pháp như Ngân hàng Angiêri, Ngân hàng Đông Dương, Ngân hàng Tây Phi, Ngân hàng Ăngti,... Những đồng tiền này đã được phát hành để rút dần các đồng tiền bản địa (tiền mani, ốc tiền) hoặc các đồng tiền nước ngoài đang lưu thông trên các lãnh thổ thuộc địa. Để bảo đảm chất lượng của việc lưu thông tiền tệ, các ngân hàng phát hành của địa phương phải chịu sự kiểm soát của chính quyền Pháp nhất là khi trao đổi giữa Pháp và các nước thuộc địa ngày càng tăng. Theo hiệp ước ngày 23/12/1865, Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ đã thành lập Liên minh tiền tệ Latinh qua đó thiết lập tiêu chuẩn trao đổi dựa trên các thông số kỹ thuật của đồng franc vàng của Pháp, việc gia nhập Liên minh tiên tệ Latinh giúp franc Pháp tạo vị thế mạnh, được sử dụng rộng rãi và chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ dự trữ không chỉ đối với các nước tham gia mà còn là các nước tham gia không chính thức cùng các thuộc địa. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với tư thế là nước thắng cuộc, Pháp có thêm cơ hội mở rộng hơn nữa các hệ thống thuộc địa của mình nhưng nạn khủng hoảng do thiếu vàng tồn tại trong chiến tranh khiến tiền giấy cưỡng bách lưu hành mất 80% giá trị, lạm phát tăng cao. Để thoát khỏi tình trạng bế tắc này, Pháp đã dùng biện pháp thay vì đổi tiền giấy trực tiếp ra vàng, người ta chỉ cho đổi lấy thứ tiền giấy ngoại quốc có thể đổi ra vàng. Chính phủ Pháp cũng cắt giảm thuế, và vào cuối những năm 1920, nền kinh tế Pháp đã phục hồi trở lại. Nhờ sự thay đổi từ kim bản vị thành kim hoán bản vị, các nước châu Âu đã thoát khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, chế độ này cũng chỉ được thi hành trong thời gian ngắn đến năm 1931. Sau khi NHTW Anh đã bãi bỏ tính chuyển đổi của đồng bảng Anh và giảm giá đồng bảng Anh khoảng 30%, tất cả các nước theo Anh cũng từ bỏ khả năng chuyển đổi tiền sang vàng khiến tiền tệ sụt giảm. Khi giá vàng trên thế giới giảm sút sau các đợt giảm giá đồng tiền trên toàn bộ thế giới, một số nước thuộc hệ thống đồng franc như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ vẫn giữ nguyên không giảm giá các đồng tiền của mình khiến cho vàng của Pháp quá cao so với thế giới. Các nhà xuất khẩu Pháp gặp khó khăn, nhâp khẩu tăng thái quá, tình hình thương mại xấu đi. Sự sợ hãi vào tương lai của đồng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Nhập môn tài chính tiền tệ
17 p | 2861 | 1067
-
Bài tiểu luận môn lý thuyết tài chính tiền tệ: Cổ phiếu
20 p | 1212 | 257
-
Thuyết trình: Nhập môn tài chính tiền tệ
32 p | 603 | 211
-
Bài tiểu luận môn Lý thuyết tài chính tiền tệ: Cấu trúc thị trường tài chính
19 p | 802 | 207
-
Tiểu luận môn tài chính tiền
30 p | 246 | 103
-
Tiểu luận thuyết trình môn Tài chính tiền tệ: Lý thuyết thị trường hiệu quả và tài chính hành vi
20 p | 303 | 56
-
Tiểu luận Môn Quản Trị Ngân Hàng: Hoạt động mua bán nợ tại ngân hàng thương mại và thực trạng tại Việt Nam
14 p | 194 | 54
-
Tiểu luận môn Quản trị học: Phân tích quản trị tại KFC
69 p | 264 | 39
-
Tiểu luận: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
18 p | 205 | 27
-
Thuyết trình môn tài chính doanh nghiệp: Lý thuyết MM mối quan hệ giữa chính sách nợ & giá trị doanh nghiệp
45 p | 188 | 25
-
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các nước nhận đầu tư
45 p | 156 | 25
-
Tiểu luận môn Tài chính hành vi: Ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi để giải thích các trường hợp trong thực tiễn
16 p | 292 | 25
-
Tiểu luận môn Tài chính phát triển: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ nợ công và tăng trưởng kinh tế (Liên hệ ở Việt Nam)
25 p | 124 | 19
-
Tiểu luận môn Lý thuyết Tài chính tiền tệ: Những vấn đề cơ bản về công ty tư nhân, hợp danh, liên doanh. Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
32 p | 70 | 16
-
Bài tập nhóm Môn Tài Chính Chứng Khoán: Bằng phương pháp phân tích cơ bản anh chị nhận định xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán VN trong năm 2012, … 2015
23 p | 128 | 14
-
Báo cáo môn tài chính hành vi: Tính hiệu quả của thị trường giao dịch nhỏ ở trường hợp thị trường chứng khoán Việt Nam
24 p | 96 | 14
-
Tiểu luận môn học: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay
24 p | 82 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn