intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình kinh tế thị trường XHCN ở Trung quốc

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

297
lượt xem
79
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quá trình xây dựng mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã trải qua một phần tư thế kỷ. Trên con đường ấy, Trung Quốc đã phải “dò đá qua sông”, vừa cải cách, vừa tìm tòi các biện pháp thích hợp, vừa không ngừng rút kinh nghiệm. Thành công bước đầu của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là biểu trưng cho thành công của những khối óc đột phá về lý luận và quả cảm trong thực tiễn. Đặng Tiểu Bình đã từng nói:...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình kinh tế thị trường XHCN ở Trung quốc

  1. TIỂU LUẬN: Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình kinh tế thị trường XHCN ở Trung quốc
  2. Lời nói đầu Quá trình xây dựng mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã trải qua một phần tư thế kỷ. Trên con đường ấy, Trung Quốc đã phải “dò đá qua sông”, vừa cải cách, vừa tìm tòi các biện pháp thích hợp, vừa không ngừng rút kinh nghiệm. Thành công bước đầu của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là biểu trưng cho thành công của những khối óc đột phá về lý luận và quả cảm trong thực tiễn. Đặng Tiểu Bình đã từng nói: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng sức sản xuất, phát triển sức sản xuất, xoá bỏ bóc lột, xoá bỏ phân hoá hai cực, cuối cùng đạt tới cùng giàu có”. Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc chính là một nỗ lực nhằm đưa xã hội Trung Quốc phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội “mang đặc sắc Trung Quốc”, thể hiện rõ nhất tinh thần của câu nói mà Đặng Tiểu Bình đã nêu ra. Việt Nam là nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, lịch sử với Trung Quốc. Đặc biệt, trong thời hiện đại, Việt Nam cũng đã đi con đường phát triển kinh tế – xã hội mà cả “người anh cả” Liên Xô (cũ) và Trung Quốc đã đi qua. Vì thế, có thể nhận thấy mô thức đi lên của Việt Nam, những “vấp váp” của Việt Nam đều ít nhiều mang dáng dấp những gì mà cả Liên Xô (cũ) và Trung Quốc đã trải qua. Đó là cung cách quản lý kế hoạch tập trung cao độ, đó là phong trào xây dựng hợp tác xã tràn lan (ở Trung Quốc là xây dựng công xã nhân dân), đó là phong trào lập các xí nghiệp quốc doanh…, tất cả đều là sản phẩm của tính chủ quan duy ý chí. Tuy nhiên, đứng trước “một cuộc khủng hoảng thực sự của chủ nghĩa xã hội”, Trung Quốc và Việt Nam – dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở từng nước – đều đã kịp thời và mạnh dạn tiến hành một cuộc cải cách toàn diện về kinh tế – xã hội, để cùng tiến bước trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trên bước đường cải cách nói chung và cải cách kinh tế nói riêng, Việt Nam có thể đúc kết và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ mô hình kinh tế của Trung Quốc, rút ngắn thời gian chúng ta phải mày mò bước đi. Vẫn biết mỗi nước có đặc điểm tự nhiên, xã hội khác nhau, xuất phát điểm kinh tế cũng không giống nhau, nên mô hình kinh tế cũng không thể dập khuôn, máy móc. Nhưng dù sao, thực tiễn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vẫn là một điểm
  3. nhìn tham chiếu bổ ích cho Việt Nam, vẫn để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm thiết thực, có giá trị.
  4. I. Lí LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Khái niệm kinh tế thị trường Kinh tế hàng hoá là một hình thái tổ chức kinh tế mà ở đó, các sản phẩm được sản xuất ra nhằm mục đích để trao đổi hay để bán. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều được mua bán thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện thông qua quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Mục đích của các thành viên khi tham gia vào thị trường là tìm kiếm lợi ích cho mình theo sự điều tiết của giá cả trên thị trường. Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá có trước kinh tế thị trường. Chỉ khi nào kinh tế hàng hoá tăng trưởng nhanh, thị trường được mở rộng, phong phú, đồng bộ, các quan hệ thị trường tương đối hoàn thiện mới có kinh tế thị trường. Như vậy, kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá. 2. Những điều kiện hỡnh thành kinh tế thị trường - Sự xuất hiện của thị trường sức lao động: Đây là điều kiện đầu tiên quyết định sự hình thành của kinh tế thị trường, bởi vì nó là công cụ để thoả mãn nhu cầu về lợi nhuận cho các nhà kinh doanh, nhờ giá trị sử dụng đặc biệt của nó. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã làm cho đồng tiền không chỉ đơn thuần là phương tiện mua bán thông thường mà còn là vốn, là tư bản, là điều kiện đầu tiên để giúp cho các nhà kinh doanh đạt được mục đích là lợi nhuận. Từ đó dẫn tới sự ra đời các thị trường như thị trường vốn, thị trường tiền tệ… - Phải tích luỹ được một số tiền nhất định Thực ra cho đến nay, mọi người đều thừa nhận kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại và nó được sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song trong lịch sử, chủ nghĩa tư bản là xã hội đầu tiên biết sử dụng kinh tế thị trường. Vì thế, cũng có thể rút ra từ lịch sử hình thành chủ nghĩa tư bản những vấn đề chung cho sự hình thành của một nền kinh tế thị trường. Những biện pháp tích luỹ tiền mà giai cấp
  5. tư sản áp dụng trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ nói lên rằng: để chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường, tất yếu phải có một thời kỳ tích luỹ tiền tệ. - Cần có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế đều có thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu tiền tệ. Vì vậy, tốc độ lưu chuyển các nguồn vốn tiền tệ rất lớn và hệ thống của nó rất phức tạp. Sự phát triển của hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng chính là điều kiện để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển vốn tiền tệ cho các doanh nghiệp cũng nh ư các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó duy trì được sự cân đối giữa cung và cầu về vốn tiền tệ ở cả tầm vĩ mô cũng như vi mô. - Phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển Một trong những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường là hệ thống kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước, nhằm đảm bảo cho sự lưu thông thông suốt của hàng hoá và tạo được môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. - Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước Ngày nay, thuyết kinh tế thị trường hoàn toàn tự do không còn thích hợp nữa. Trong điều kiện mới, nhà nước phải can thiệp bằng nhiều biện pháp, ở những mức độ khác nhau để điều tiết thị trường, phát triển và bảo vệ nền kinh tế quốc gia, chống khủng hoảng, giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. 3. Đặc trưng của kinh tế thị trường Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế thị trường, với nhiều đặc điểm khác nhau, nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường: - Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, các cá nhân và cả nhà nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế, các kinh doanh kinh doanh, họ phải tự chịu trách nhiệm về tính khả thi của các quyết sách, quyết định được ban hành, cũng như phải gánh chịu rủi ro nếu có.
  6. Chỉ có nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất mới có được đặc trưng này. Nó hoàn toàn không thể có trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. - Dung lượng, chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế thị trường rất phong phú, đa dạng, do vậy mọi nhu cầu tiêu dùng của con người dễ dàng được thoả mãn. Đặc trưng này cũng không thể có được trong một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Chỉ có trong nền kinh tế thị trường, với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, của phân công và chuyên môn hoá lao động, mới có được đặc trưng này. - Giá cả được xác định ngay trên thị trường. Theo lý luận giá trị của Mác, giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Mà giá hàng hoá lại là sự kết tinh của hao phí lao động xã hội cần thiết. Song trên thực tế, giá cả không chỉ được quyết định bởi giá trị hàng hoá, còn chịu ảnh hưởng khá lớn của quan hệ cung cầu. Sự biến động của quan hệ cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả và ngược lại. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, vừa là chiếc “phong vũ biểu” phản ánh tình trạng của thị trường, lại vừa là công cụ thông qua cung cầu để điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế. - Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Mọi động lực của cạnh tranh suy đến cùng đều xuất phát từ lợi ích kinh tế. Trong cuộc cạnh tranh đó, tất yếu có người được người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là tình trạng cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật và bằng những biện pháp kinh tế – kỹ thuật, qua đó nâng cao năng suất lao động, số lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh doanh. Cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh được tiến hành bằng những hình thức, biện pháp phi kinh tế, vi phạm pháp luật, thu lời bất chính. Quan hệ cạnh tranh kiểu này gây thiệt hại cho người tiêu dùng, đồng thời cũng gây thiệt hại cho xã hội nói chung, nên cần nghiêm trị bằng pháp luật.
  7. - Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Bởi kinh tế thị trường lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh, mà đã trao đổi thì phải “mở cửa”, hướng ra bên ngoài). Trên thực tế, không thể tồn tại một nền kinh tế thị trường theo kiểu “đóng kín”, không có giao lưu kinh tế với bên ngoài. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới đều chứng minh điều đó. II. Mễ HèNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC 1. Quỏ trỡnh hỡnh thành và xõy dựng thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc 1.1. Quá trình hình thành mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc (giai đoạn 1978-1992) Vào thời kỳ đầu mới xây dựng đất nước, Trung Quốc đã xác lập thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung thống nhất cả nước nhằm thích ứng với đòi hỏi về thống nhất tài chính và kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng như việc tập trung sức lực xây dựng công nghiệp hoá bước đầu. Trong điều kiện lúc bấy giờ, thể chế đó đã từng phát huy vai trò quan trọng. Nhưng cùng với quy mô kinh tế không ngừng mở rộng, quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, thì những tệ nạn “quản quá chặt” của thể chế này dần dần bộc lộ ra. Cộng thêm sau đó Trung Quốc lại coi những biện pháp đúng đắn về phát huy vai trò thị trường và phát triển kinh tế hàng hoá là “chủ nghĩa tư bản” và chống lại nó, làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dần mất đi sức sống. Sự thay đổi nhận thức, từ “nền kinh tế cân đối có kế hoạch” sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, là một quá trình tìm tòi, đấu tranh lâu dài, trước hết là trên lĩnh vực lý luận. Người Trung Quốc gọi đó là quá trình “dò đá qua sông”. Sau hơn 10 năm kể từ khi chuyển sang cải cách (từ năm 1978), Trung Quốc mới dần dần chủ trương thiết lập “nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa”; đến Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (10/1992) mới chính thức chủ trương “mục tiêu cải cách thể chế kinh tế là xác lập nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Quá trình này có thể chia làm ba bước: Bước 1: Từ “hạn chế luận” tiến tới “bổ sung luận” (1978-1982)
  8. Trước đây, lý luận kinh tế học xã hội chủ nghĩa chủ trương cần phải hạn chế điều tiết của thị trường, tiến tới thủ tiêu nó bằng kế hoạch hoá. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI năm 1978 là bước ngoặt lớn, có ý nghĩa sâu xa trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, đánh dấu Trung Quốc đã bước sang thời kỳ mới cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đã khôi phục và phát triển đường lối tư tưởng mácxít do Mao Trạch Đông đề xướng, quả quyết đề ra quyết sách chiến lược về chuyển trọng điểm công tác của Đảng và Nhà nước sang xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, nêu ra thay đổi từ nhiều mặt, mối quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi tất cả các phương thức quản lý, phương thức hoạt động và phương thức tư tưởng không còn phù hợp. Từ đó, cuộc cải cách thể chế kinh tế theo hướng thị trường của Trung Quốc đã được mở ra. Cuộc cải cách bắt đầu từ nông thôn, thực hiện chế độ khoán hộ gia đình, cho phép nông dân được hưởng quyền tự chủ sản xuất lớn hơn, đã huy động mạnh mẽ tinh thần tích cực của đông đảo quần chúng nông dân. Năm 1982, Đại hội XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh phải kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể của Trung Quốc, đi con đường của mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc; căn cứ vào thực tiễn cải cách qua mấy năm, đã nêu ra nguyên tắc cải cách thể chế kinh tế là “kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là bổ sung”. Bước 2: Từ “bổ sung luận” tiến tới “kết hợp luận” (1983-1987) Từ giữa những năm 80, công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc đi vào chiều sâu và phát triển nhanh chóng, đặc biệt ở các vùng ven biển, trong khi đó cải cách ở thành thị lại có xu hướng chậm hơn, khó đáp ứng được đòi hỏi của tăng trưởng. Lý thuyết “kinh tế thị trường là bổ sung” ngày càng tỏ ra không phù hợp. Mặt khác, thực tiễn lại cho thấy có nới rộng thị trường thì mới có thể làm sống lại xí nghiệp, từ đó phát triển nhanh nền kinh tế. Năm 1984, đáp ứng đòi hỏi phát triển của tình hình cải cách thể chế kinh tế từ nông thôn tới thành thị, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII đã ra “quyết định về cải cách thể chế kinh tế”, nêu rõ kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua trong phát triển kinh tế – xã hội, kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là nền kinh tế hàng hoá có kế
  9. hoạch trên cơ sở chế độ công hữu, điều đó về lý luận đã đột phá quan niệm truyền thống coi kinh tế kế hoạch và kinh tế hàng hoá là đối lập với nhau. Năm 1987, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày lý luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội một cách có hệ thống, khái quát hoàn chỉnh đường lối cơ bản của Đảng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chỉ ra thể chế kinh tế hàng hoá có kế hoạch xã hội chủ nghĩa phải là thể chế thống nhất nội tại giữa kế hoạch và thị trường, vai trò của kế hoạch và thị trường đều phủ khắp toàn xã hội, nêu rõ mô hình quản lý kinh tế “nhà nước điều tiết thị trường, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp”, làm cho cuộc cải cách theo hướng thị trường lại tiến thêm một bước quan trọng. Sau hội nghị Trung ương 4 khoá XIII, Đảng Cộng sản Trung Quốc lại nêu rõ phải xây dựng thể chế kinh tế và cơ chế vận hành mà kinh tế kế hoạch kết hợp với sự điều tiết thị trường, thích ứng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Những tìm tòi trong hơn 10 năm đó đã đặt nền móng cho việc cuối cùng xác định mục tiêu cải cách về xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bước 3: Từ “kết hợp luận” tiến tới “cơ sở luận” (1988-1992) Các nhà khoa học và lãnh đạo Trung Quốc đều cho rằng bước 2 là bước tiến vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lớn, song chưa thật triệt để. Nó chưa giải quyết được vấn đề lớn là kế hoạch và thị trường, cái gì là cơ sở trong vận hành kinh tế. Do những mắc mớ trong lý luận nên chính sách của Nhà nước cuối những năm 80 có nhiều lúng túng, trong khu vực Nhà nước, diện các xí nghiệp thua lỗ tăng lên. Trong khi đó, ở các vùng nông thôn ven biển, những khu chủ nghĩa mới hình thành mà quốc hữu không chiếm ưu thế thì sự phát triển ngày một tăng lên. Những hiện tượng này tạo ra cách nghĩ: nếu không phá bỏ cách nghĩ kinh tế kế hoạch kiểu cũ, xác lập đúng mức cần thiết vai trò của thị trường thì công cuộc cải cách ở Trung Quốc sẽ gặp trở ngại lớn, thậm chí thất bại. Trong bối cảnh ấy, Đặng Tiểu Bình đi thị sát miền Nam Trung Quốc vào đầu những năm 1992 và đưa ra những luận điểm mới về kinh tế thị trường: - Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút không phải là sự khác biệt bản chất giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Kinh tế kế hoạch không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị
  10. trường không có nghĩa là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị trường. Kế hoạch và thị trường đều là những biện pháp kinh tế. - Giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không tồn tại mâu thuẫn căn bản. Vấn đề là dùng phương pháp gì mới có thể phát triển mạnh mẽ hơn sức sản xuất xã hội. Chỉ thực hiện kinh tế kế hoạch sẽ trói buộc sự phát triển của sức sản xuất, kết hợp kinh tế kế hoạch với kinh tế thị trường lại với nhau, thì càng giải phóng được sức sản xuất, đẩy nhanh kinh tế phát triển. - Kế hoạch và thị trường đều là phương pháp. Chỉ cần có lợi cho phát triển sản xuất, thì có thể vận dụng. Nó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, tức là của chủ nghĩa xã hội; phụ vụ cho chủ nghĩa tư bản, tức là của chủ nghĩa tư bản. Trình bày súc tích này về căn bản đã xoá bỏ những trói buộc tư tưởng lâu năm coi kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường thuộc phạm trù của chế độ cơ bản của xã hội, làm cho nhận thức của giới lãnh đạo và khoa học ở Trung Quốc có bước đột phá quan trọng. Tháng 10/1992, Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trình bày lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình một cách có hệ thống, chính thức xác định: “Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc là xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, và coi thị trường là có vai trò cơ sở trong việc bố trí phân phối các nguồn lực dưới sự khống chế của Nhà nước. Điều đó đã chỉ rõ phương hướng cho việc xây dựng thể chế kinh tế mới xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. 1.2. Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc (giai đoạn 1992-2003) Sau Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cuộc cải cách với mục tiêu xây dựng thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa được triển khai toàn diện tại Trung Quốc. Năm 1993, Hội nghị Trung ương 3 khoá XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua “quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, vạch ra bức tranh và khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Quyết định đó trở thành cương lĩnh hành động chỉ đạo cuộc cải cách thể chế của Trung Quốc.
  11. Năm 1997, Đại hội XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định lý luận Đặng Tiểu Bình là tư tưởng chỉ đạo của toàn Đảng, nêu ra cương lĩnh cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, xác lập chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển, yêu cầu rõ ràng phải kiên trì phương hướng cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hơn 10 năm từ Đại hội XIV trở lại đây, Trung Quốc tiếp tục đi sâu cải cách kinh tế nông thôn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp quốc hữu, chuyển biến chức năng quản lý kinh tế của chính quyền, hình thành và phát triển hệ thống thị trường, kiện toàn và hoàn thiện hệ thống điều tiết vĩ mô, tăng cường xây dựng chế độ pháp luật của kinh tế thị trường, đẩy nhanh một loạt các cải cách về tài chính, thuế, tiền tệ, ngoại thương, ngoại hối, đầu tư, giá cả, bảo đảm xã hội, nhà ở, việc làm…, việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã giành được những bước tiến. Năm 2002, Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu trong 20 năm đầu của thế kỷ này phải xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hoàn thiện và hệ thống kinh tế có sức sống hơn, mở cửa hơn. 2. Hàm nghĩa và đặc trưng của kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc Kể từ khi Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra mục tiêu cải cách xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đến nay, giới lý luận và cơ quan công tác thực tế của Trung Quốc đã tiến hành tìm tòi, thảo luận sâu sắc về hàm nghĩa của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, thông thường người Trung Quốc cho rằng: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò nền tảng đối với phân phối tài nguyên trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế kết hợp giữa cơ chế vận hành kinh tế thị trường với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những quan điểm trên, so với kinh tế thị trường trong điều kiện tư bản chủ nghĩa và kinh tế kế hoạch trước đây, đặc trưng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có thể quy nạp vào mấy điểm như sau: - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò điều tiết nền tảng trong việc phân phối tài nguyên, chứ không phải là nền kinh tế mà biện pháp hành chính đóng vai trò điều tiết nền tảng trong việc phân phối tài nguyên.
  12. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kết hợp giữa cơ cấu sở hữu lấy chế độ công hữu là chủ thể, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại và cơ chế thị trường. Nếu không lấy chế độ công hữu làm chủ thể, có thể gọi là kinh tế thị trường, nhưng nhất thiết không thể gọi là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, nó không phải là kinh tế bị bỏ mặc tự do, cũng không phải kinh tế mệnh lệnh hành chính. Trong điều kiện kinh tế thị trường, điều tiết vĩ mô là một khái niệm đặc định, nó phải lấy bù đắp thiếu sót của thị trường làm chính, lấy biện pháp gián tiếp làm chính, lấy điều tiết tổng lượng làm chính, lấy thu được hiệu quả vĩ mô tương đối tốt làm chính. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế lấy thực thể kinh tế độc lập hoặc tương đối độc lập đa dạng hoá làm nền tảng vi mô và chủ thể cạnh tranh, là nền kinh tế với tiền đề là con người theo đuổi hiệu quả kinh tế và lợi ích vật chất. Nếu con người không quan tâm, không theo đuổi lợi ích vật chất thì vừa không cần thiết xây dựng thể chế kinh tế thị trường, cơ chế thị trường cũng không phát huy được tác dụng. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế ưu tiên hiệu suất, chiếu cố đến công bằng, không phải là nền kinh tế chủ nghĩa bình quân “ăn nồi cơm chung”, cũng không phải là nền kinh tế dẫn đến phân hoá hai cực. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “chữ tín” và kinh tế pháp chế. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở cửa đối với cả trong và ngoài nước, cạnh tranh công bằng, không phải là nền kinh tế bảo hộ khu vực, độc quyền hành chính, bế quan toả cảng. - Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc theo đuổi hiện nay thực tế là nền kinh tế thị trường trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, là nền kinh tế chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch sang thể chế kinh tế thị trường. Nó không phải là thể chế kinh tế thị trường phát triển, cũng không phải là kinh tế thị trường tự nhiên phát triển. Bởi vậy, trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, phải dự kiến đầy đủ tính phức tạp và tính gian khổ của cải cách.
  13. Vừa phải chú ý kiên trì phương hướng xã hội chủ nghĩa, lại phải nới lỏng để kinh tế thị trường nhanh chóng trưởng thành; vừa phải tiến hành chuyển đổi căn bản thể chế, lại phải chú trọng chuyển biến căn bản quan niệm. 3. Thành tựu và những vấn đề cũn tồn tại của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc 3.1. Thành tựu của mụ hỡnh kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, tức là phải làm cho thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân phối tài nguyên dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, làm cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thích ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu; thông qua chức năng của cán cân giá cả và cơ chế cạnh tranh để phân phối tài nguyên vào những khâu có hiệu quả tương đối tốt, gây sức ép và tạo động lực cho doanh nghiệp, thực hiện việc “đào thải tự nhiên”; vận dụng ưu điểm phản ứng nhạy bén của thị trường đối với các loại thông tin kinh tế, thúc đẩy điều chỉnh kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu. Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng đi sâu cải cách các mặt, tích cực thúc đẩy việc sáng tạo về thể chế, cố gắng xoá bỏ những cản trở mang tính thể chế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sức sản xuất, đã thu được thành quả to lớn và bước đầu xây dựng nên thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. - Thứ nhất, cục diện lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển đã cơ bản hình thành. Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển là một chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, cũng là bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế quốc hữu lớn mạnh, kinh tế quốc hữu khống chế mạch máu của nền kinh tế quốc dân, có vai trò then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sức gắn bó dân tộc của Trung Quốc. Kinh tế tập thể là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế công hữu, có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện cùng nhau làm giàu. Kinh tế phi công hữu gồm các hình thức cá thể và tư doanh… là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, có vai trò quan trọng đối với việc huy động đầy đủ tinh thần tích cực của mọi mặt xã hội và tăng nhanh phát triển sức sản xuất.
  14. Qua cố gắng trong hơn 10 năm qua, một mặt, kinh tế quốc hữu của Trung Quốc được phát triển lớn mạnh thêm một bước, khả năng kiểm soát và sức cạnh tranh tăng cường rõ rệt, tổng tài sản quốc hữu đã đạt 12.000 tỷ NDT. Kinh tế quốc hữu chiếm vị trí chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt liên quan đến quốc kế dân sinh. Theo yêu cầu về việc xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại, Trung Quốc đẩy nhanh bước đi cải cách của doanh nghiệp quốc hữu, thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp đã có sự biến đổi sâu sắc, chế độ cạnh tranh “đào thải tự nhiên” của doanh nghiệp bước đầu hình thành, xuất hiện một loạt những doanh nghiệp mạnh có thực lực, có sức sống và có sức cạnh tranh. Kinh tế tập thể ở thành thị và nông thôn cũng không ngừng phát triển. Mặt khác, các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trưởng thành “ngoài thể chế” chiếm tỷ trọng tăng vọt lên, trở thành chủ thể thị trường sôi động nhất trong kinh tế thị trường Trung Quốc, cơ cấu của chế độ sở hữu hợp lý hơn. Theo tính toán, 72% giá trị gia tăng công nghiệp của năm 1999 là do kinh tế phi quốc hữu tạo ra. Tỷ trọng của kinh tế phi quốc hữu trong kinh tế quốc dân đã đạt gần 2/3, phát triển đặc biệt nhanh chóng trong các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, nội thương, vận tải đường bộ, dịch vụ ăn uống, và đã chiếm địa vị chủ đạo. - Thứ hai, thị trường đóng vai trò cơ sở rõ rệt trong việc phân phối tài nguyên. Đó là nội dung bản chất của cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, qua cải cách thể chế về các mặt kế hoạch, giá cả, lưu thông…, vai trò của cơ chế thị trường trong việc phân phối tài nguyên đã thay đổi về căn bản. Trước đây, kế hoạch có tính pháp định không chỗ nào là không có, không chỗ nào là không thực hiện, bao trùm trong các lĩnh vực kinh tế quốc dân. Hiện nay, việc sản xuất sản phẩm cũng như việc hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ chủ yếu là do thị trường quyết định. Kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất nông sản đã hoàn toàn xoá bỏ, kế hoạch mệnh lệnh đối với sản xuất hàng công nghiệp chỉ còn giới hạn ở năm loại như gỗ, vàng, thuốc là, muối và khí đốt thiên nhiên. Bên cạnh thị trường sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, thị trường vốn và quyền sở hữu phát triển nhanh chóng, thị trường lao động không ngừng hoàn thiện, lượng giao dịch của thị trường kỹ thuật và thị trường đất đai không ngừng tăng lên. Môi trường của thị trường không ngừng cải thiện, một số lượng lớn các thị trường giao dịch hàng hoá
  15. hiện đại với kim ngạch giao dịch đạt hàng chục tỷ NDT đã trở thành kênh quan trọng liên hệ sản xuất với tiêu thụ, nối liền thành thị với nông thôn. Trung tâm lưu thông hàng hoá, trung tâm điều phối và vận chuyển hàng hoá cũng như thương mại điện tử có những bước phát triển nhất định. Pháp quy của thị trường từng bước kiện toàn, cơ quan giám sát thị trường và cơ quan chứng nhận từng bước hoàn thiện, sự đóng cửa khu vực và sự lũng đoạn của ngành nghề dần dần bị xoá bỏ, trật tự cạnh tranh thị tr ường công khai, công bằng đang được hình thành. Đa số kết quả tính toán của các học giả trong nước đều cho thấy: Cuối những năm 90 thế kỷ XX, trình độ thị trường hoá của kinh tế Trung Quốc đã đạt 69%. Theo “Báo cáo về mức độ tự do của kinh tế thế giới năm 2001” do Canada xuất bản, thì chỉ số về mức độ tự do của kinh tế Trung Quốc đã nâng từ 3,2 lên 5,8 trong thời kỳ 1980-1999 (chỉ số này từ 1 đến 10, chỉ số càng lớn thì mức độ tự do càng cao), từ vị trí thứ 101 nâng lên thứ 81. - Thứ ba, bước đầu đã xây dựng nên hệ thống điều tiết vĩ mô chủ yếu áp dụng biện pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước và cơ chế thị trường đều là yêu cầu bản chất của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, hai mặt gắn bó với nhau, bổ trợ cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Mục tiêu chính của sự điều tiết vĩ mô là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, ổn định giá cả, gìn giữ cân bằng của thu chi quốc tế. Thông qua cải cách, Trung Quốc bước đầu xác định rõ chủ thể của sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, biện pháp điều tiết vĩ mô đã thay đổi về thực chất, về cơ bản đã thực hiện sự chuyển biến từ kế hoạch pháp lệnh sang chủ yếu vận dụng các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành chính cần thiết, thực hiện sự chuyển biến từ điều hành trực tiếp sang điều hành gián tiếp, và vận dụng tổng hợp các chính sách thuế, lãi suất, giá cả và đầu tư để điều hành sự vận động của nền kinh tế. Vào lúc xuất hiện kinh tế “quá nóng” đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ chắt chặt vừa phải, làm cho nền kinh tế “hạ cánh mềm”, tránh xảy ra bấp bênh lớn. Năm 1997, sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bùng nổ, trong tình hình thiếu nhu cầu hữu hiệu, Trung Quốc thực hiện phương châm kích cầu trong nước, sử dụng chính sách tài chính tích cực và chính
  16. sách tiền tệ ổn định, phát huy vai trò điều tiết của các đòn bẩy kinh tế, làm cho nền kinh tế phát triển bền vững, nhanh chóng và lành mạnh. - Thứ tư, chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại càng được hoàn thiện hơn. Chế độ kinh tế cơ bản trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đã thực hiện chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại. Theo yêu cầu về “ưu tiên hiệu suất, tính đến công bằng”, Trung Quốc đi sâu cải cách chế độ phân phối, xác định phân phối theo sự đóng góp các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, kỹ thuật và quản lý. Lấy cùng nhau làm giàu làm mục tiêu, tăng cường chức năng điều tiết của chính quyền đối với việc phân phối thu nhập, không ngừng nâng cao tỷ trọng của những người có thu nhập trung bình, nâng cao mức thu nhập của những người có thu nhập thấp. Hiện nay, hình thức thu nhập của cư dân Trung Quốc có xu hướng đa dạng hoá. Lao động vẫn là hình thức chủ yếu nhất để con người có được nguồn thu nhập, nhưng tỷ trọng của thu nhập phi lao động dần dần tăng lên. Theo điều tra mẫu, trong thu nhập hàng năm bình quân đầu người của gia đình cư dân thành thị, tỷ trọng của thu nhập có tính tài sản, thu nhập có tính chuyển giao và các thu nhập khác đã nâng từ 19,4% (năm 1995) lên 26,2% (năm 2001), tỷ trọng của các loại thu nhập lao động thì giảm tương ứng từ 80,6% xuống còn 73,8%. Nhà nước đã tăng cường sự điều tiết đối với việc phân phối lại thu nhập, thu nhập có tính chuyển giao trở thành nguồn thu nhập quan trọng của một bộ phận cư dân. - Thứ năm, bộ khung của hệ thống bảo đảm xã hội thích ứng với trình độ phát triển kinh tế đã cơ bản được xây dựng. Hệ thống đảm bảo xã hội hoàn thiện là trụ cột quan trọng của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống đảm bảo xã hội của Trung Quốc gồm bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc và ổn định cuộc sống cho người có công, tương trợ xã hội, đảm bảo bằng tiền gửi tiết kiệm cá nhân… Hơn 10 năm qua, theo mục tiêu chung về xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội tách riêng ra khỏi đơn vị doanh nghiệp và sự nghiệp, có nguồn vốn đa dạng hoá, đảm bảo chế độ quy phạm hoá, quản lý và dịch vụ xã hội hoá, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, kết hợp với tình hình trong nước, thông qua nhiều trường hợp thí điểm, việc xây dựng hệ thống bảo đảm xã hội không
  17. ngừng được thúc đẩy đi lên. Chế độ bảo hiểm dưỡng lão cơ bản của công nhân viên ở thành thị đã được xây dựng, cải cách chế độ bảo hiểm y tế đã khởi động toàn diện, chế độ bảo hiểm thất nghiệp được hoàn thiện thêm. Chế độ y tế hợp tác kiểu mới ở nông thôn bắt đầu thí điểm. Cư dân khó khăn thuộc diện chính sách trong thành phố đã từng bước được bảo đảm mức sống tối thiểu. Nhìn chung, hệ thống bảo đảm xã hội mà nội dung chính là bảo hiểm dưỡng lão, thất nghiệp và y tế đã bước đầu hình thành, số thuộc diện của bảo đảm xã hội không ngừng được mở rộng. Cho đến nay, số cư dân thành thị nằm trong chế độ cần đảm bảo về mức sống tối thiểu đạt hơn 21 triệu, số người tham gia bảo hiểm dưỡng lão vượt quá 150 triệu, số người tham gia bảo hiểm y tế và thất nghiệp đều đạt hơn 100 triệu. - Thứ sáu, cục diện mở cửa với bên ngoài đa phương hoá, nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng không ngừng hoàn thiện. Mở cửa với bên ngoài là một quốc sách cơ bản, lâu dài của Trung Quốc, cũng là con đường tất yếu trong tiến trình đẩy nhanh hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì mở cửa với bên ngoài. Trong thời kỳ đầu mới cải cách, Trung Quốc xây dựng bốn đặc khu kinh tế, mở cửa 14 thành phố cảng ven biển, mở cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, mở cửa thành phố nội địa và khu khai phát, cơ bản hình thành cục diện mở cửa đối ngoại nhiều tầng lớp, đa hình thức, toàn phương vị và nhiều lĩnh vực, cơ chế vận hành kinh tế đối ngoại thích ứng với thông lệ quốc tế bước đầu được hình thành. Thể chế ngoại thương không ngừng được cải cách. Năm 2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, đánh dấu việc mở cửa với bên ngoài bước sang giai đoạn mới. Trung Quốc thực hiện chính sách “thu hút vào” kết hợp với “đi ra ngoài”, tận dụng đầy đủ hai thị trường và hai tài nguyên trong và ngoài nước, lấy mở cửa thúc đẩy cải cách, thúc đẩy phát triển. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu ngoại thương của Trung Quốc đạt 620,8 tỷ đôla Mỹ, vươn lên xếp thứ 5 trên thế giới. Dự trữ ngoại tệ đã đạt hơn 340 tỷ đôla Mỹ. Kể từ năm 1993, liên tiếp 9 năm Trung Quốc đứng đầu trong các nước đang phát triển về việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và khu vực. Trong quá trình mở cửa với bên ngoài, Trung Quốc chú ý giải quyết tốt mối quan hệ giữa việc mở rộng mở cửa với bên ngoài, và kiên trì tự lực gánh sinh, luôn luôn đứng trên nền tảng dựa vào sức mình,
  18. chú ý bảo vệ quyền quốc gia và an ninh kinh tế – xã hội, chú ý phòng ngừa và khắc phục tác động của rủi ro quốc tế. Nói tóm lại, việc bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế Trung Quốc đến những thay đổi mang tính lịch sử. Chỉ tiêu pháp lệnh và phương thức phân phối nguồn lực theo kế hoạch chồng chéo về cơ bản đã chuyển biến theo phương thức cạnh tranh, phân phối nguồn thị trường theo chiều ngang; thực hiện bước chuyển biến từ thị trường bán hàng hoá tem phiếu, thương phẩm thiếu thốn chuyển sang thị trường với các sản phẩm phong phú, chủng loại đa dạng; thực hiện bước chuyển biến kinh tế từ đóng cửa, bán mở cửa sang nền kinh tế mở với nhiều tầng bậc, đa phương vị; vận hành nền kinh tế chuyển từ mô hình cung cấp với đặc trưng cơ bản là “thiếu thốn” chuyển sang mô hình lấy nhu cầu thị trường làm chính và kết hợp với những ràng buộc về nguồn lực; phương thức tăng trưởng kinh tế chuyển từ kinh doanh rời rạc sang kinh doanh tập trung; nền kinh tế quốc dân từ bất ổn định chuyển sang phát triển bền vững, nhanh và mạnh. Trong 13 năm (1989-2002), GDP của Trung Quốc bình quân hàng năm tăng 9,3%, đứng đầu các nước trên thế giới trong cùng thời kỳ. Năm 2002, GDP của Trung Quốc đạt 10.200 tỷ NDT, đứng thứ 6 trên thế giới. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình nông dân tăng từ 630 NDT (1990) lên 2476 NDT (2002); thu nhập bình quân đầu người của cư dân thành thị tăng từ 2150 NDT (1990) lên 7703 NDT (2002). Mức sống của nhân dân không ngừng nâng cao, đã thực hiện bước nhảy vọt lịch sử, từ ấm no lên khá giả, sự nghiệp giáo dục, khoa học, văn hoá và dân số, môi trường cũng như các sự nghiệp xã hội khác đều đạt được thành tựu mang tính lịch sử. Mọi người đều công nhận rằng mười mấy năm đó là thời kỳ mà quốc lực tổng hợp của Trung Quốc được tăng cường mạnh mẽ, nhân dân được hưởng lợi ích thực tế nhiều nhất, là thời kỳ xã hội Trung Quốc yên ổn đoàn kết lâu dài và “chính trị thông suốt, nhân dân hoà thuận”, là thời kỳ ảnh hưởng của Trung Quốc đối với quốc tế được nâng cao rõ rệt và sức tập hợp dân tộc được tăng cường mạnh mẽ. 3.2. Những trở ngại chính trong việc đi sâu hơn nữa cải cách theo hướng thị trường hoá của thể chế kinh tế thị trường xó hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
  19. Bước đầu hình thành thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là thể chế kinh tế thị trường đã hoàn toàn được xây dựng nên và vận hành có hiệu quả, cũng không có nghĩa là nhiệm vụ cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc đã hoàn thành. Trên thực tế, thể chế kinh tế thị trường của Trung Quốc hiện nay vẫn là một thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, vẫn tồn tại nhiều nhân tố cản trở sự phát triển sức sản xuất. Nói chung, chuyển đổi chức năng chính quyền còn tụt hậu so với tiến trình chuyển đổi của thể chế kinh tế, tình trạng chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước vẫn chưa có thay đổi căn bản. Thể chế kinh tế hiện hành vẫn tồn tại nhiều yếu kém, cần từng bước giải quyết thông qua đi sâu cải cách, cụ thể là: Trước hết, chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường quá ưu tiên cho doanh nghiệp quốc hữu và chính quyền can thiệp quá mức đã làm đảo lộn cơ chế phân phối tài nguyên bằng thị trường, làm giảm hiệu quả phân phối tài nguyên, cản trở kinh tế tăng trưởng, làm tổn hại đến an ninh kinh tế Nhà nước. Hiện nay, những vấn đề như kinh tế quốc hữu chiếm tỷ trọng quá cao, mặt trận quá dài, phân bố quá rộng, hiệu quả không cao vẫn rất nổi cộm. Năm 2000, trong tổng số 190 nghìn doanh nghiệp quốc hữu, có 9 nghìn doanh nghiệp cỡ lớn và siêu lớn, 181 nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 94,8% tổng số doanh nghiệp quốc hữu, trong đó, 94 nghìn doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 52%. Đồng thời, có 85 nghìn doanh nghiệp ăn cả vào gốc (tức nợ lớn hơn tài sản) và “trống rỗng” (tức tổn thất lớn hơn số vốn của người sở hữu) chiếm 44,5% tổng số doanh nghiệp quốc hữu. Bởi vì hiệu quả của doanh nghiệp quốc hữu không cao nhưng lại chiếm nhiều tài nguyên, còn hiệu quả của doanh nghiệp thuộc chế độ sở hữu khác lại khá cao nhưng không được giúp đỡ về tài nguyên hiện có. Vì vậy, tài nguyên của xã hội không được sử dụng hiệu quả và đầy đủ, làm cho tốc độ phát triển kinh tế bị kìm chế, và khiến tỷ lệ tăng trưởng thực tế của kinh tế quốc dân không đạt tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng. Điều quan trọng hơn là kinh tế phi quốc hữu không được phát triển đầy đủ, đã làm cho hơn 10 nghìn tỷ tiền vốn trong dân không được sử dụng, dẫn đến sự nhàn rỗi và lãng phí của tài nguyên thiếu thốn nhất này. Trong khi đó, trong kinh tế tiền tệ hoá, sự tiêu hao tài nguyên quá mức này sẽ tích tụ lại bằng hình thức bề nổi hoặc tiềm ẩn, và nếu tích
  20. tụ đến mức độ nào đó thì sẽ bùng nổ khủng hoảng tài chính tiền tệ, hoặc chuyển thành lạm phát tiêu cực, làm tổn hại đến an ninh kinh tế của Nhà nước. Thứ hai, thể chế quản lý tài sản quốc hữu quy phạm và hiệu quả ch ưa được xây dựng nên, chính quyền can thiệp quá mức, làm cho doanh nghiệp quốc hữu ở vào tình trạng “chính quyền và doanh nghiệp không tách ra”, doanh nghiệp quốc hữu không thể thực sự trở thành chủ thể của thị trường, thiếu sức cạnh tranh. Cải cách về thể chế quản lý tài sản quốc hữu tụt hậu. Một mặt là vì nhiều bộ ngành đều có chức năng bổ vốn, quản lý người và quản lý việc tách rời khỏi quản lý tài sản, vấn đề “không ai chịu trách nhiệm” tồn tại song song với vấn đề “ngũ long trị thuỷ”, “nhiều đầu mối can thiệp hành chính”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu rất lúng túng. Mặt khác, chính vì “ai cũng quản, mà cũng chẳng ai quản”, “người sở hữu thực sự vắng mặt”, làm cho doanh nghiệp quốc hữu bị “người trong nội bộ khống chế”. Vì vậy, dù có cải tạo theo chế độ cổ phần hoá và xây dựng doanh nghiệp theo chế độ doanh nghiệp hiện đại, thì cũng thường là “đẹp mà không bền”. Thứ ba, chính quyền can thiệp quá mức và tính tuỳ tiện trong hành vi của chính quyền đã làm cho các hiện tượng chức năng chính quyền “việt vị”, “sai vị” và “khuyết vị” (vượt quá vị trí, đứng sai vị trí, thiếu vắng vị trí) vẫn nghiêm trọng, vẫn tồn tại vấn đề “quyền lực lớn hơn pháp luật”, thiếu cơ chế ràng buộc mạnh đối với “quyền lực”, quyết sách không nghiêm túc và can thiệp tuỳ tiện vẫn thường xuyên xảy ra. Phân chia quyền hạn xử lý công việc và quyền hạn tài chính giữa Trung ương và địa phương đến nay chưa thật rõ ràng, chính quyền Trung ương và địa phương đều chưa rõ mình cần chịu trách nhiệm về việc gì. Phương thức xử phạt như “chế độ trách nhiệm của người đứng đầu” hoặc “hỏng một việc thì hỏng hết” làm cho chính quyền và quan chức các cấp phải quản lý rộng, quản lý sâu và quản lý mạnh. Nhiều chính quyền địa phương còn phải gánh vác nhiều trách nhiệm không phải của mình. Thứ tư, thể chế quản lý hành chính vẫn nặng về “quản lý theo ngành nghề và địa bàn”, không những làm cho một số bộ ngành xuất hiện khuynh hướng “lợi ích tập đoàn hoá” và chức năng công cộng yếu đi, mà còn làm cho chủ nghĩa bảo hộ địa phương lan rộng. Bởi vì hành vi của chính quyền thiếu cơ chế ràng buộc và thiếu công khai, nhiều bộ ngành rất dễ thông qua “gọi thuê” để thu hút “người nhận thuê” dưới chiêu bài đàng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1