intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Luật học: Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

118
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật thực định, phân tích, đánh giá các quan điểm trong khoa học pháp lý hiện nay, luận án nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Luận án tìm ra những nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Luật học: Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ĐỖ KIÊN THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ TR¸CH NHIÖM BåI TH¦êNG CñA NHµ N¦íC DO C¤NG CHøC C¥ QUAN HµNH CHÝNH NHµ N¦íC G¢Y RA ë VIÖT NAM Chuyên nganh ̀ : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật   Ma sô ̃ ́ : 62 38 01 01    TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
  2. HÀ NỘI ­ 2014
  3. Công trình được hoàn thành tại  Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS Đinh Trung Tụng                                                  1. TS Hoàng Ngọc Thỉnh          Phản biện 1:.......................................................  ......................................................... Phản biện 2:.......................................................  ......................................................... Phản biện 3:.......................................................  ......................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học  viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014
  4. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ  khi đất nước ta giành được độc lập đến nay, Nhà nước luôn coi việc   xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm   vụ quan trọng hàng đầu. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp  quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân hiện   nay, việc bảo đảm lợi ích của Nhà nước và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá  nhân, tổ chức cần được tôn trọng và thực hiện công bằng giữa các chủ thể trong  xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân và tổ  chức trong xã hội là mối  quan hệ đặc biệt, trong đó, vấn đề công bằng giữa một bên chủ thể là Nhà nước  và một bên chủ thể là cá nhân, tổ chức được xác định thông qua các quyền, nghĩa   vụ và trách nhiệm đối với nhau và được thực hiện trên cơ  sở  nguyên tắc được   ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”   và “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục  hồi danh dự  theo quy định của pháp luật”.  Với nguyên tắc hiến định trên, Nhà  nước Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật  về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.  Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm bắt buộc khi cơ  quan Nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đây   không chỉ là vấn đề dân sự mà còn là vấn đề chính trị ­ pháp lý ­ xã hội, phản ánh  trình độ phát triển và dân chủ của chế độ nhà nước, phản ánh một Nhà nước do  dân làm chủ. Nhà nước với tư  cách là một chủ  thể  công quyền trong chế  độ  chính trị ­ xã hội, được hình thành từ nhân dân và được nhân dân uỷ thác cho trách   nhiệm điều hành, quản lý xã hội, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ lợi   ích Nhà nước, lợi ích tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong   quốc gia mình. Với tinh thần đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một  trong những yếu tố góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu quả  hoạt động công vụ, mở  rộng dân chủ  xã hội, tạo lập sự  công bằng trong mối  quan hệ giữa Nhà nước và công dân.  Những năm qua, mặc dù trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được   ghi nhận từ  rất sớm trong Hiến pháp, từ  Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm   1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ  sung năm 2001).  Những nguyên tắc hiến định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy  định trong các bản Hiến pháp nêu trên được thể chế hóa thành các quy định của  
  6. 2 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 (sửa đổi, bổ sung năm 2003), Bộ luật Tố tụng  dân sự  năm 2004, Bộ luật Dân sự  năm 1995 (sửa đổi, bổ  sung năm 2005), Nghị  định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi   thường thiệt hại do công chức, viên chức, người có thẩm quyền của các cơ quan  tiến hành tố tụng gây ra, Nghị quyết số 388/2003/NQ­UBTVQH11 ngày 17 tháng  3 năm 2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc bồi thường cho người bị  oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra… Tuy nhiên,   trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa được đánh giá đúng mức, quan niệm   về  trách nhiệm bồi thường của Nhà nước tương đối mờ  nhạt và đến ngày 18   tháng 6 năm 2009, tại kỳ  họp thứ 5 Quốc hội khoá XII mới thông qua một đạo   luật riêng biệt ­ Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.  Do hoạt động quản lý hành chính, đặc biệt là hoạt động của các cơ  quan  hành chính Nhà nước từ  trung  ương đến địa phương là hoạt động mang tính   quyền lực tác động tới các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực trong đời sống xã hội,   liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp chân chính của cá nhân, tổ  chức. Một   mặt nó thừa nhận, bảo vệ, bảo đảm sự  phát triển kinh tế  xã hội vì dân giàu,  nước mạnh, mặt khác do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan từ phía Nhà  nước xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động của cơ  quan hành chính Nhà nước liên quan đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, nhiều mối   quan hệ  đan xen, có sự  tham gia của nhiều chủ  thể  trong xã hội, chịu sự  điều  chỉnh của nhiều loại quy phạm của cả luật nội dung lẫn hình thức và phải tuân  theo những trình tự, thủ tục khác nhau. Việc giải quyết bồi thường thiệt hại giữa   cơ quan hành chính Nhà nước và người bị gây thiệt hại được đặt trong mối quan  hệ lợi ích giữa Nhà nước và công dân khi thực thi quyền hành pháp. Vì vậy, trách  nhiệm bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính, hay nói cách khác trách   nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây   ra cần được xác định trong các đạo luật. Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà   nước đã quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành  chính nhà nước, lĩnh vực thi hành án, hoạt động tố tụng... Đây là bước phát triển   đáng kể trong hoạt động lập pháp, đáp ứng đòi hỏi khách quan trong một xã hội   dân chủ, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân  dân, vì nhân dân ở Việt Nam. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01   năm 2010, vì vậy, vấn đề thực hiện Luật này nói chung và thực hiện pháp luật   về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà   nước gây ra nói riêng là vấn đề có tính cấp thiết. Bồi thường nhà nước là vấn đề 
  7. 3 hết sức phức tạp, nó thể  hiện quan hệ  đặc biệt giữa một bên chủ  thể  là Nhà  nước ­ với tư cách là chủ thể thực thi và duy trì quyền lực công theo pháp luật ­  với một bên là cá nhân, tổ  chức bị  thiệt hại do chính hành vi trái pháp luật của   người thi hành công vụ gây ra. Bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật trong mối  quan hệ  này là không hề  đơn giản. Trong bối cảnh đó, việc thực hiện trách   nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây   ra đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn, thực hiện nghiêm minh theo trình tự luật  định. Những vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện,  sâu rộng, có hệ  thống đối với thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường   của Nhà nước do công chức cơ  quan hành chính Nhà nước gây ra  ở  Việt Nam.  Đồng thời, cần nghiên cứu thủ tục tố tụng trong việc xác định trách nhiệm của   Nhà nước và yêu cầu chính đáng của công dân theo những mô hình và pháp luật  tố tụng phù hợp. Do đó, cần tổng kết từ thực tiễn thực hiện pháp luật về trách  nhiệm bồi thường của Nhà nước nhằm tìm kiếm các giải pháp bảo đảm cho  việc thực hiện và các vấn đề cần hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Trên cơ  sở nhận thức và với mong muốn làm sáng tỏ  những vấn đề  cấp  thiết về  lý luận và thực tiễn việc thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà  nước, đánh giá những điểm tích cực và hạn chế nhằm đưa ra quan điểm và giải   pháp về lĩnh vực này, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề: “Thực hiện pháp luật   về   trách  nhiệm  bồi thường  của  Nhà nước  do  công chức  cơ   quan  hành   chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ  sở  nghiên cứu pháp luật thực định, phân tích, đánh giá các quan   điểm trong khoa học pháp lý hiện nay, luận án nghiên cứu toàn diện, có hệ thống  những vấn đề  lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi  thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Luận  án tìm ra những nguyên nhân, đề xuất các quan điểm, giải pháp có căn cứ  khoa   học nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà  nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu, luận án giải quyết  những nhiệm vụ sau đây:
  8. 4 ­ Phân tích khái niệm, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật về trách nhiệm  bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. ­ Phân tích nội dung, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật  về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà   nước gây ra, trong đó tập trung phân tích sâu, làm rõ các nội dung thực hiện pháp  luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính   Nhà nước gây ra và các bảo đảm đặc trưng đối với hoạt động này. 5 ­ Nghiên cứu thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà  nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra ở một số nước trên thế  giới, từ đó rút ra những giá trị Việt Nam có thể tham khảo. ­ Phân tích khái quát tình hình và hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam. ­ Đánh giá đúng những kết quả  đạt được và hạn chế  đối với thực trạng   thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan hành chính Nhà nước gây ra  ở  Việt Nam, phân tích rõ các nguyên nhân  khách quan, chủ quan của những kết quả đạt được và hạn chế đó. ­ Trên cơ  sở  kết quả  nghiên cứu, xác định những quan điểm và đề  xuất  những giải pháp cụ thể, phù hợp, có tính khả thi nhằm bảo đảm thực hiện pháp  luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính   Nhà nước gây ra ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu những vấn đề  lý luận, thực tiễn đối với thực hiện  pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành  chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam dưới góc độ khoa học lý luận và lịch sử nhà  nước và pháp luật.  3.2. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công   chức cơ  quan hành chính nhà nước gây ra  ở  Việt Nam là đề  tài rộng, chứa  đựng nhiều vấn đề phức tạp về lý luận và thực tiễn. Luận án nghiên cứu thực  hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong phạm vi các cơ  quan hành chính Nhà nước, công chức của cơ quan này và các cá nhân, tổ chức   có liên quan ở Việt Nam.
  9. 5 Về mặt thời gian, luận án nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm   bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra từ  năm 1945 tới nay. Tình hình và số  liệu thống kê liên quan tới vấn đề  này được   trích dẫn, viện dẫn từ  các báo cáo chính thức từ  năm 1997 tới năm 2013 của  Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ,  ngành và Ủy ban nhân dân các cấp. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ  sở  lý luận của Chủ  nghĩa Mác ­  Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối  với thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức   cơ  quan hành chính Nhà nước gây ra trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp  quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn căn cứ  vào các văn bản  pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công  chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra và tài liệu của một số  nước trên thế  giới về lĩnh vực này. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ  sở  phương pháp luận của Chủ  nghĩa duy vật biện chứng, Chủ  nghĩa duy vật lịch sử, tác giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng  nội dung luận án. ­ Chương 1, tác giả coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích và hệ thống  hóa để đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan tới thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan hành chính Nhà  nước gây ra. ­ Chương 2, tác giả sử dụng nhiều phương pháp để làm sáng tỏ những vấn   đề lý luận của luận án. Cụ thể là, tác giả chủ yếu dùng phương pháp quy nạp để  xây dựng các khái niệm. Phương pháp tổng hợp, phân tích dùng để  nghiên cứu   các hình thức, vai trò, nội dung, yêu cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp   luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính   Nhà nước gây ra ở  Việt Nam. Phương pháp so sánh được áp dụng khi tìm hiểu  vấn đề này ở một số nước trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt   Nam.
  10. 6 ­ Chương 3, tác giả đã sử  dụng phương pháp nổi bật là thống kê, báo cáo   kết hợp với khảo sát thực tiễn nhằm phân tích, lý giải các số liệu về thực trạng;   tọa đàm, hội thảo trao đổi với các chuyên gia về  thực trạng để  đánh giá, tổng  hợp và chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn có liên quan tới thực  hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan  hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam, từ đó, tác giả làm sáng tỏ nội dung của   luận án. ­ Chương 4, về cơ bản tác giả  sử  dụng phương pháp phân tích, tổng hợp  để đưa ra các quan điểm, giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần bảo đảm thực  hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan  hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam. 5. Những đóng góp về khoa học của luận án Thông qua việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống đề tài này, nội dung luận   án có một số điểm mới, đó là: ­ Xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm và pháp luật về trách nhiệm   bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Đặc  biệt, luận án đã xây dựng khái niệm, phân tích rõ các hình thức và nội dung thực   hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan   hành chính Nhà nước gây ra. ­ Xác định yêu cầu và các yếu tố  bảo đảm thực hiện pháp luật về  trách  nhiệm bồi thường Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. ­ Nghiên cứu thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước   do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra  ở  một số nước trên thế  giới,  luận án xác định những giá trị Việt Nam có thể tham khảo. ­ Đánh giá kết quả, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm  bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan hành chính Nhà nước gây ra  ở  Việt Nam và nguyên nhân của những kết quả, hạn chế đó. ­ Đề  xuất những quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước  gây ra ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về  lý luận, nội dung và kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần hoàn  thiện cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường   của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra. Vì vậy, luận  
  11. 7 án có thể  được sử  dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu,   giảng dạy về thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về trách nhiệm  bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính Nhà nước gây ra nói  riêng trong các trường đại học, cao đẳng chuyên hoặc không chuyên ngành luật. Về thực tiễn, những kết luận, đề  xuất của luận án được nghiên cứu trên   cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền có  thể khai thác vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, góp phần  thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ  quan hành chính Nhà nước gây ra ở Việt Nam. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục,  luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
  12. 8 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU  CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỚI  ĐỀ TÀI LUẬN ÁN TRONG NƯỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra là một nội dung của pháp luật  nói chung, pháp luật bồi thường của Nhà nước nói riêng. Do vậy, nghiên cứu về  lĩnh vực này phải đặt trong mối quan hệ với tổng thể các quy định của pháp luật,  đặc biệt là các quy định của pháp luật có liên quan tới trách nhiệm bồi thường,  công chức, công vụ. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề  liên quan   tới thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra đã được   công bố ở trong nước và trên thế giới với các mức độ và phạm vi khác nhau, điển  hình gồm hai nhóm chính sau: 1) Các công trình tiêu biểu liên quan tới TNBT; 2)   Các công trình tiêu biểu liên quan tới công chức, công vụ và thực hiện pháp luật… ­ Tại Việt Nam, vấn đề này được nghiên cứu ở nhiều cấp độ như đề tài, đề  án khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các sách   chuyên khảo, giáo trình, bài viết hay các tham luận, báo cáo trong hội thảo khoa   học: + Các công trình trên đã bàn về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở  nhiều góc độ, phạm vi nghiên cứu có tính chất liên ngành và liên quan tới nhiều   lĩnh vực pháp luật như Hiến pháp, lý luận chung về nhà nước và pháp luật, luật  dân sự, luật hành chính, pháp luật về cán bộ, công chức...  + Phân tích lý luận và thực trạng TNBT  ở  Việt Nam, tìm ra nguyên nhân  hạn chế, so sánh với quốc tế và đưa ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả,  hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là hướng nghiên cứu truyền thống của hầu   hết các công trình trên.  +   Các   công   trình   nghiên   cứu   tiếp   cận   vấn   đề   thực   hiện   pháp   luật   về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra gắn với pháp luật thực định của Việt   Nam   là   hướng   nghiên   cứu   chủ   yếu.   Các   khái   niệm   công   cụ   liên   quan   tới   TNBTCNN   như   cán   bộ,   công   chức,   hoạt   động   công   vụ,   cơ   quan   nhà   nước,   CQHCNN, trách nhiệm vật chất được đề cập cụ thể.  + Phạm vi nghiên cứu tại Việt Nam, thời gian chủ  yếu từ  năm 1945 đến   nay, đặc biệt các số  liệu, viện dẫn chủ  yếu được thực hiện trong giai đoạn từ  năm 1997 đến năm 2013 gắn liền với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử và  pháp luật cụ  thể   ở  Việt Nam. Do vậy, các công trình này không chỉ  giải quyết 
  13. 9 những vấn đề lý luận mà còn có giá trị  thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa   học nhằm giải quyết các vấn đề  thiết thực liên quan tới thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. ­ Trên bình diện quốc tế, các công trình liên quan tới thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có vị  trí quan trọng trong nhiều  ấn   phẩm của các quốc gia và nhiều nhà khoa học. Những công trình phổ biến là các   sách chuyên khảo chủ yếu được xuất bản tại Trung Quốc được nghiên cứu, tổng   hợp tình hình từ  nhiều nước trên thế  giới, các giáo trình giảng dạy trong các   trường đại học luật danh tiếng, các bài viết của nhiều nhà khoa học: + Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các nhóm vấn đề cơ  bản là nền hành   chính công, chế độ công chức, công vụ, TNDS, trách nhiệm ngoài hợp đồng, trách  nhiệm của công chức trong thi hành công vụ và trách nhiệm cụ thể của nhà nước   đối với các chủ thể khác trong xã hội... Với phạm vi nghiên cứu này, một số khái   niệm như TNBTCNN, pháp luật về TNBTCNN không được các công trình trên đi  sâu phân tích, so sánh.  + Các công trình khảo sát phân tích, so sánh các điều kiện về lịch sử, văn   hóa, chính trị, xã hội, truyền thống lập pháp, trên cơ  sở  đó, khẳng định việc   thực hiện TNBTCNN là khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển trong một  xã hội dân chủ. + Nghiên cứu thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN  gây ra, các công trình trên chỉ  đề  cập tới những vấn đề  chung mang tính nguyên   tắc về trách nhiệm của cơ quan công quyền hoặc nghiên cứu dưới nhiều góc độ,  phương diện khác nhau do nhiều tổ  chức, cá nhân thực hiện, nhưng đều bị  chi   phối bởi các quan điểm, trường phái về TNBTCNN của tác giả. + Các công trình trên được nghiên cứu ở nước ngoài, điều kiện kinh tế, văn  hóa, xã hội, pháp luật của các nước đó khác Việt Nam. Cho nên, cách đánh giá,   giải quyết vấn đề thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây   ra cũng khác với Việt Nam. Tóm lại, trên cả  bình diện Việt Nam và quốc tế, chưa có công trình khoa   học nào đi sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống vấn đề thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam. Do vậy, nhiều vấn đề lý  luận   cơ   bản   liên   quan   tới   thực   hiện   pháp   luật   về   TNBTCNN   do  công   chức  CQHCNN gây ra chưa  được xây dựng, nhất là lý luận đối với pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra, các kinh nghiệm quốc tế về lĩnh vực  này chưa được nghiên cứu, áp dụng nhiều ở Việt Nam. Thực trạng thực hiện pháp  luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra chưa được tổng kết theo quan  
  14. 10 điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chưa tìm ra nguyên nhân của hạn chế  và đề ra các giải pháp khắc phục có luận cứ khoa học và thực tiễn. Đặc biệt, ở  cấp độ nghiên cứu của luận án tiến sĩ luật học, chưa có một công trình nào nghiên  cứu thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  ở  Việt   Nam. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay. 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN Thứ nhất, về mặt lý luận, luận án tiếp tục nghiên cứu các vấn đề cơ  bản   sau: ­ Trên cơ sở khái niệm, đặc điểm TNBTCNN nói chung trong pháp luật Việt  Nam và pháp luật quốc tế, làm rõ được những đặc trưng về bản chất, đối tượng  và hình thức pháp lý đối với TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  ở  Việt  Nam. Với nền tảng lý luận về nhà nước và pháp luật, lý luận về TNBTCNN, tác  giả xây dựng khái niệm pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.  Luận án cũng nghiên cứu làm rõ các đặc điểm về đối tượng, tính chất, nội dung,   hình thức pháp luật của dạng TNPL này.  ­ Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học nghiên cứu về thực hiện pháp  luật, đặc biệt là các công trình ở Việt Nam, đồng thời căn cứ vào những vấn đề  thực tiễn, luận án làm rõ về mục đích, chủ thể, lĩnh vực, tính chất thực hiện pháp   luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Nhằm đạt được tính toàn diện   của vấn đề  nghiên cứu, luận án cũng phân tích rõ hình thức, vai trò và nội dung  thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra, làm rõ các yêu   cầu và các yếu tố bảo đảm thực hiện hoạt động này. Luận án luận giải khoa học   mối quan hệ  giữa các yêu cầu và phân tích sâu, có trọng tâm các bảo đảm đặc  trưng đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.  Ngoài ra, để bảo đảm tính thống nhất, logic của vấn đề nghiên cứu, luận án làm   rõ hơn về  nhận thức mối quan hệ  giữa các nội dung TNBTCNN với thực hiện   pháp luật trong đội ngũ công chức CQHCNN như phần lý luận đã trình bày. ­ Trong quá trình tìm hiểu thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức  CQHCNN gây ra của một số  nước trên thế  giới, luận án tiếp tục khảo sát kinh   nghiệm trong thực hiện pháp luật về vấn đề này của một số nước tiêu biểu trên   thế giới. Khác với các công trình trước đó, luận án nêu rõ những nội dung liên quan  tới xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  Việt Nam có thể tham khảo. Thứ  hai, về  mặt thực tiễn, luận án tập trung làm rõ những nội dung sau   đây:
  15. 11 ­ Phân tích khái quát tình hình yêu cầu và giải quyết yêu cầu bồi thường nhà  nước, khái quát thực trạng hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật về TNBTCNN ở  Việt Nam hiện nay. ­ Luận án đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng và trong quá trình đánh  giá, tác giả đã làm rõ các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng   pháp luật, áp dụng pháp luật đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công   chức CQHCNN gây ra ở Việt Nam. Vấn đề này trên bình diện quốc tế và ở Việt   Nam, nhiều công trình khoa học chưa khảo sát cụ thể. Luận án cũng nghiên cứu,  rút ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan trong các kết quả đạt được và hạn   chế  đối với thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra.   Vấn đề  này được nghiên cứu sâu sắc vì các công trình khoa học khác chưa tìm   hiểu cụ thể. ­ Các công trình khoa học đã khảo sát mới chỉ đưa ra một số giải pháp liên   quan tới khía cạnh cụ  thể  đối với thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do công  chức CQHCNN gây ra. Khác với các công trình đó, luận án đưa ra một hệ thống   các giải pháp có tính tổng thể nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về vấn đề này.   Ngoài ra, luận án còn đưa ra những luận cứ khoa học cho việc thực hiện đồng bộ  những giải pháp này. Đây là vấn đề hết sức cơ bản được nghiên cứu và cũng phù   hợp với phạm vi nghiên cứu của luận án. Tóm lại,  trên cơ  sở  đánh giá phạm vi, kết quả  đạt được và nội dung các  công trình đã khảo sát có thể khẳng định, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu   toàn diện, có hệ thống đối với thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức   CQHCNN gây ra  ở  Việt Nam. Những vấn đề  lý luận, thực tiễn cần tiếp tục   nghiên cứu trong luận án rất đa dạng, cần có sơ sở lý luận, phương pháp nghiên   cứu đúng đắn nhằm làm rõ nội dung của những vấn đề trên. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA Ở VIỆT NAM 2.1. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ  TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG CHỨC CƠ QUAN   HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA  2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của   Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra
  16. 12 2.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ   quan hành chính nhà nước gây ra CQHCNN là một bộ  phận của bộ  máy nhà nước, do Nhà nước lập ra để  thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các CQHCNN ở nước ta bao   gồm Chính phủ và UBND các cấp. Các cơ quan này, dựa trên thẩm quyền được   luật định có chức năng quản lý thống nhất, toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn  hóa, xã hội, hành chính, an ninh quốc phòng, đối ngoại của nhà nước. CQHCNN  có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất  nước. Tổ  chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CQHCNN chính là đội ngũ  công chức. Hiệu quả hoạt động của CQHCNN phụ thuộc vào năng lực, trình độ,  phẩm chất của đội ngũ công chức này.  Công chức là khái niệm mang tính chính trị  ­ pháp lý, mỗi quốc gia, hay  ở  mỗi thời kỳ phát triển của một quốc gia nhất định cũng có quan niệm khác nhau   về công chức. Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008  đã đưa ra khái niệm công chức. Luận án chỉ  đề  cập đến công chức CQHCNN,  nghĩa là công chức trong cơ  quan của Chính phủ  và UBND các cấp, không bao   gồm công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị ­ xã   hội hay các cơ quan Nhà nước khác không phải CQHCNN. Luận án cũng chỉ đề  cập TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra theo nghĩa hẹp thuộc loại TNPL   mà chủ thể là CQHCNN phải bồi thường bằng vật chất hay tinh thần cho cá nhân,  tổ chức do hành vi trái pháp luật gây ra trong thi hành công vụ. Đây là loại TNBT   đặc biệt, phát sinh trên cơ sở hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ với hậu   quả là có thiệt hại (vật chất hay tinh thần) mà nguyên nhân do vi phạm pháp luật   gây ra. Trên cơ sở nghiên cứu trên bình diện quốc tế và quốc gia,  có thể đưa ra khái  niệm TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: “Trách nhiệm bồi thường của   nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra là hậu quả pháp lý bất   lợi về vật chất, tinh thần mà Nhà nước phải gánh chịu do công chức cơ quan hành   chính nhà nước thực hiện trái pháp luật trong thi hành công vụ, gây thiệt hại vật   chất, tinh thần cho tổ chức, cá nhân”. 2.1.1.2. Khái niệm pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước   do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra Pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có một số đặc điểm  sau: ­ Đối tượng điều chỉnh pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây   ra là những quan hệ xã hội phát sinh để tổ chức thực hiện TNBTCNN trong quá   trình quản lý, điều hành của CQHCNN nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,   quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
  17. 13 ­ Pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có tính chất liên   ngành. TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra đòi hỏi phải được nhiều ngành   khoa học nghiên cứu. Tính liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau của TNBTCNN do công   chức CQHCNN gây ra cho thấy sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp  gây ảnh hưởng tiêu cực tới quyền khác và ngược lại.  ­ Pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có thể hiểu theo   nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, pháp luật về  TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  liên quan đến quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật, phụ thuộc vào chất lượng   của hệ thống pháp luật, gồm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Theo nghĩa   hẹp, pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra bao gồm những quy  định trực tiếp, cụ thể về cá nhân, tổ chức và Nhà nước trong chế độ bồi thường  của nhà nước.  ­ Hình thức pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra tương   đối đa dạng. Trên bình diện quốc tế, hình thức pháp luật về  TNBTCNN do công chức   CQHCNN gây ra gồm ba loại là tập quán pháp, tiền lệ  pháp, văn bản quy phạm  pháp luật. Tại Việt Nam, pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  có hình thức chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật. Tập quán pháp, tiền lệ  pháp về nguyên tắc không được áp dụng ở nước ta, nhưng những giá trị của hình  thức tập quán pháp, tiền lệ pháp đang được Việt Nam nghiên cứu, tham khảo. Căn cứ những đặc điểm trên, có thể đưa ra khái niệm: “Pháp luật về trách   nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây   ra là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh những quan hệ xã hội nhằm tổ   chức thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong quá trình cơ  quan   hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại vật chất hay tinh thần cho cá nhân, tổ   chức do hành vi trái pháp luật của công chức cơ quan này gây ra”. 2.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi   thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra Pháp luật và thực hiện pháp luật là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất,   có mối quan hệ gắn bó không thể tách rời. Pháp luật chỉ có ý nghĩa đích thực khi   được thực hiện, các quy định của pháp luật trở  thành những hành vi hoạt động  thực tế  của các chủ  thể  pháp luật. Các tài liệu nghiên cứu đã đưa ra hoặc thừa  nhận khái niệm chung, đã phân tích các đặc điểm, đặc trưng về  thực hiện pháp 
  18. 14 luật, theo đó: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm   cho những quy định pháp luật đi vào cuộc sống, trở  thành hành vi thực tế  hợp   pháp của các chủ thể pháp luật”. Các đặc điểm cơ bản của thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức   CQHCNN gây ra như sau: Thứ   nhất,  mục   đích   thực   hiện   pháp   luật   về   TNBTCNN   do   công   chức  CQHCNN gây ra là làm cho các quy định pháp luật về  TNBTCNN đi vào cuộc  sống, trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, quyền và lợi   ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được tôn trọng, thực hiện trên thực tế. Thứ hai, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  thể hiện rõ nét ý chí nhà nước, tính khoa học cao, tính nhân văn sâu sắc. Thứ ba, chủ thể thực hiện pháp luật về TNBTCNN là Nhà nước (công chức   CQHCNN) và cá nhân, tổ chức. Thứ tư, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  là một lĩnh vực đặc thù, chủ yếu được tiến hành giữa các CQHCNN với cá nhân,  tổ chức bị thiệt hại. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm trên, có thể nêu ra khái niệm: “Thực hiện   pháp luật về trách nhiệm bồi thường do công chức cơ quan hành chính nhà nước   gây ra là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật   trách nhiệm bồi thường của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước   gây ra được thực hiện có hiệu quả  trong thực tiễn, tạo cơ  sở  thực tế cho hoạt   động của các chủ thể theo quy định của pháp luật”.  2.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của   Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ­ Tuân thủ pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: Là một  hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến   hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong  Luật TNBTCNN, Luật Cán bộ, công chức, Luật Khiếu nại, Luật Tố  tụng hành  chính, BLDS, Luật Tố  tụng dân sự  được thực hiện dưới hình thức này. Đây là  hình thức thực hiện pháp luật có tính bị động, không liên quan nhiều đến các quy  định chủ động được làm những gì ngoài quy định của pháp luật.  ­ Thi hành (chấp hành) pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây   ra: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện  nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Đối với công chức CQHCNN  thì thi hành pháp luật thể hiện thông qua việc thi hành công vụ. Việc thực hiện 
  19. 15 chính xác, đầy đủ pháp luật là mối quan tâm không chỉ từ phía Nhà nước mà từ cả  mỗi người dân trong xã hội. Họ tự giác thực hiện pháp luật và đòi hỏi pháp luật  phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác và đầy đủ.  ­ Sử dụng pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra: Là một  hình thức thực hiện pháp luật, trong đó, các chủ thể pháp luật sử dụng quyền của  mình để thực hiện những hành vi pháp luật cho phép nhằm bảo đảm TNBTCNN   do công chức CQHCNN gây ra. Khác với hình thức thi hành pháp luật, ở hình thức  này, chủ thể là người bị thiệt hại có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền   được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, có quyền lựa chọn phương thức   thực hiện quyền đó chứ không bị bắt buộc thực hiện.  ­ Áp dụng pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra:  Là một  hình thức thực hiện pháp luật, trong đó, Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm  quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự  mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ban hành quyết định làm phát sinh,   thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Khác với các hình thức thực hiện  pháp luật khác, áp dụng pháp luật luôn có sự tham gia của Nhà nước với các mức   độ khác nhau. Đây là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước  với thủ tục chặt chẽ.  Các hình thức thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN  gây ra đều quan trọng, có tính độc lập tương đối, không tách biệt rõ ràng mà đan   xen lẫn nhau, có mối quan hệ  tác động qua lại chặt chẽ. Việc xem xét các hình   thức thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra được đặt  trong những mối quan hệ cụ thể. 2.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà   nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra Thứ nhất, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây   ra góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và phòng  ngừa, đấu tranh các hành vi trái pháp luật của công chức gây thiệt hại tới quyền và  lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thứ hai, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  góp   phần   nâng   cao   chất   lượng,   hiệu   quả   thi   hành   công   vụ   của   công   chức   CQHCNN. Thứ ba, thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Tóm   lại,  nghiên   cứu   thực   hiện   pháp   luật   về   TNBTCNN   do   công   chức   CQHCNN gây ra đòi hỏi làm rõ khái niệm, hình thức, vai trò của vấn đề này. Mối   quan   hệ   của   ba   phương   diện   này   thể   hiện   ở   chỗ:   thực   hiện   pháp   luật   về 
  20. 16 TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra có những đặc trưng riêng, là nhân tố  cốt lõi, xuyên suốt với các hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này tương  đối đa dạng.  2.2. NỘI DUNG, YÊU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ  BẢO ĐẢM THỰC HIỆN   PHÁP LUẬT VỀ  TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC DO CÔNG  CHỨC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GÂY RA 2.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về  trách nhiệm bồi thường của  Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra Nội dung thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  có thể nghiên cứu theo nhiều góc độ. Nghiên cứu đầy đủ vấn đề trên đòi hỏi phải   tìm hiểu trực diện, cụ thể TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra và làm rõ  những cách thức làm cho pháp luật về lĩnh vực này đi vào cuộc sống. Trên quan  điểm đó, luận án kết hợp làm rõ từng nội dung với việc bám sát lý luận về  các   hình thức thực hiện pháp luật để  đánh giá, nhận xét về  hình thức tuân thủ  pháp  luật, thi hành pháp luật, sử  dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong quá trình   thực hiện TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Đây cũng là cách tiếp cận  luận án sử  dụng để  đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về  TNBTCNN do  công chức CQHCNN gây ra trong chương 3. Khi đề cập đến TNBTCNN, Hiến pháp năm 2013 đã quy định trách nhiệm  của Nhà nước trong BTTH về vật chất, tinh thần đối với các chủ thể. Phù hợp với   nguyên tắc hiến định, trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam đã trực tiếp   hoặc gián tiếp quy định về TNBTCNN. Văn bản chuyên ngành quy định vấn đề  này là Luật TNBTCNN, theo đó nội dung thực hiện pháp luật về TNBTCNN do   công chức CQHCNN gây ra như sau:  ­ Về  chủ  thể: Các bên trong quan hệ  TNBTCNN do công chức CQHCNN  gây ra, gồm bên gây thiệt hại là CQHCNN (đại diện nhân danh Nhà nước) và bên   bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức. ­ Về khách thể: Khách thể trong quan hệ TNBTCNN do công chức CQHCNN  gây ra là lợi ích của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Trên  thực tế, hoạt động công quyền gây ra thiệt hại, thì đó là những thiệt hại vật chất,   thiệt hại tinh thần của các cá nhân, tổ chức, tuy nhiên có một thiệt hại mà không thể  đo, đếm được là lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín  của Nhà nước.   ­ Về các điều kiện phát sinh TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra  là  tổng hợp các yếu tố cấu thành TNBTCNN, bao gồm: 1) Có thiệt hại xảy ra; 2) Có 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2