intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam

Chia sẻ: Trương Tiên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

54
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Phân tích và đánh giá thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động, làm rõ những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của nó. Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam

Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên<br /> trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam<br /> Vũ Mạnh Chiến<br /> Khoa Luật<br /> Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50<br /> Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoài Thu<br /> Năm bảo vệ: 2011<br /> Abstract: Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br /> Phân tích và đánh giá thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động,<br /> làm rõ những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của nó. Đưa ra một số giải pháp<br /> nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br /> Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật lao động; Cơ chế ba bên; Luật kinh tế<br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1.Tính cấp thiết của đề tài<br /> Trong thực tế lĩnh vực lao động, người sử dụng lao động tìm mọi cách để mang lại lợi<br /> ích tối đa cho mình, người lao động thì mong muốn được trả lương cao tương ứng với công<br /> sức bỏ ra, được làm việc trong điều kiện lao động tốt, Nhà nước thì mong muốn các quy định<br /> mà mình ban hành được thực hiện một cách nghiêm túc, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao<br /> động được quản lý chặt chẽ để ổn định xã hội. Do vậy, lợi ích của nhà nước, người sử dụng<br /> lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) đan xen lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau nhưng<br /> cũng dễ sảy ra mâu thuẫn. Vì thế để dung hoà lợi ích giữa các bên cần phải phối hợp cùng<br /> nhau xây dựng và đưa ra những nguyên tắc chung làm cơ sở để thực hiện. Cơ chế ba bên<br /> (CCBB) trong lĩnh vực lao động xuất hiện và tồn tại một cách tự nhiên. Trên thế giới, cơ chế<br /> ba bên trong lĩnh vực lao động được xác lập và vận hành từ lâu. Sự tồn tại của cơ chế ba bên<br /> đã góp phần xây dựng và pháp triển các mối quan hệ lao động giữa nhà nước, người sử dụng<br /> lao động và người lao động, tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội nói chung, lĩnh vực lao<br /> động nói riêng. Thông qua cơ chế ba bên sẽ góp phần hạn chế những mẫu thuẫn, giảm thiểu<br /> căng thẳng, giúp các bên tìm ra giải pháp có lợi nhất thoả mãn đòi hỏi, lợi ích của mỗi bên.<br /> Ở phạm vi quốc tế Tổ chức lao động quốc tế (ILO) là tổ chức được thiết lập và hoạt<br /> động trên nền tảng của ba đối tác xã hội ở tầm quốc tế. Sự tồn tại, phát triển và hoạt động của<br /> ILO đã kích lệ các quốc gia xây dựng và vận hành cơ chế ba bên ở nước mình tạo ra môi<br /> trường lao động hài hoà ổn định và mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, xã hội.<br /> Ở Việt Nam khi tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa, giao lưu, hợp tác ngày càng sâu<br /> rộng với bên ngoài trên cơ sở nguyên tắc, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,<br /> không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Việt Nam đã<br /> tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới<br /> (WTO), Hiệp hội các quốc gia đông nam á (ASEAN)…trong quá trình hợp tác Việt Nam đã<br /> ký kết, tham gia nhiều Hiệp định song phương và đa phương. Trong lĩnh vực lao động, là một<br /> <br /> thành viên của ILO Việt Nam cũng đã tham gia nhiều Công ước của tổ chức này, Chúng ta đã<br /> vận dụng những khía cạnh hợp lý của cơ chế ba bên vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Tuy<br /> nhiên cơ chế ba bên còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, về lý luận chưa được nghiên cứu<br /> nhiều, các quy định pháp luật về cơ chế hợp tác ba bên còn ít, việc vận hành trên thực tế còn<br /> hình thức, hiệu quả còn hạn chế, do đó đề tài : “Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba<br /> bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam” sẽ nghiên cứu để đưa ra những giải pháp góp phần<br /> xây dựng, nâng cao hiệu lực, vận dụng các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt<br /> Nam hiện nay.<br /> 2.Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài:<br /> Qua các nguồn thông tin mà tác giả có thể tiếp cận được thì hiện nay có một luận án<br /> tiến sỹ “Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam” của tác giả<br /> Nguyễn Xuân Thu - Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu vấn đề cơ chế ba bên trong việc giải<br /> quyết tranh chấp lao động, đề tài “Cơ chế ba bên – Pháp luật và thực tiễn hoạt động” của<br /> Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do TS.GVC Lê Thi Hoài Thu chủ trì. Ngoài ra có một<br /> số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề cơ chế ba bên, tiêu biểu nhất<br /> phải kể đến những bài viết của PGS.TS Phạm Công Trứ được đăng trên các số của tạp chí<br /> Nhà nước và Pháp luật, như Cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường (tháng 1/1997), Cơ<br /> chế ba bên của ILO : Khái niệm và cơ sở pháp lý (tháng 6/2006), Cơ chế ba bên của ILO: Cơ<br /> sở lý luận (tháng 12/2006)..., tiếp đến là các bài viết của TS Lưu Bình Nhưỡng như Một số<br /> vấn đề lý luận, pháp lý và điều kiện phát triển Cơ chế ba bên ở Việt Nam - Tạp chí Luật học<br /> số 12/2006, Việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công - Tạp chí nghiên cứu lập<br /> pháp số 10/2006; TS Đào Thị Hằng : Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao<br /> động Việt Nam - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 11/2005; ThS Nguyễn Hữu Chí : Vai<br /> trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và giải quyết tranh chấp lao động - Tạp chí Nhà nước<br /> và Pháp luật tháng 10/2001. Ngoài ra, các sách báo viết về cơ chế ba bên hầu hết đều là của<br /> các tác giả nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nghiên cứu một cách có hệ<br /> thống về vấn đề cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động mang ý nghĩa lý Luận và thực tiễn sâu<br /> sắc. Đề tài có ý nghĩa cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động,<br /> phù hợp với luật pháp quốc tế và là cơ sở cho việc áp dụng ở Việt Nam. Những kiến nghị của<br /> đề tài hy vọng sẽ là một trong những cơ sở cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định<br /> pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa bảo vệ<br /> được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng lao động vừa bảo vệ được lợi ích chính<br /> đáng của người lao động. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu<br /> sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.<br /> 3. Mục đích- nhiệm vụ của đề tài:<br /> Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận, việc vận<br /> dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những<br /> nhận xét, đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế ba bên<br /> trong lĩnh vực lao động. Qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong<br /> việc sửa đổi, bổ sung pháp luật đối với lĩnh vực này.<br /> - Mục đích:<br /> Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của<br /> cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br /> - Nhiệm vụ:<br /> +Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br /> + Đánh giá đúng đắn về thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao<br /> động, thuận lợi và khó khăn.<br /> + Hướng bổ sung hoàn thiện các quy định, phương hướng, giải pháp, kiến nghị.<br /> 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài:<br /> <br /> 2<br /> <br /> Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động, như cơ sở lý<br /> luận, các quy định quốc tế về cơ chế ba bên, quy định pháp luật Việt Nam về cơ chế ba bên,<br /> việc vận dụng cơ chế ba bên ở Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật; Ký kết<br /> hợp đồng, thoả ước lao động tập thể; Lĩnh vực tiền lương... giải quyết tranh chấp lao động.<br /> 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:<br /> Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ<br /> nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, làm<br /> cơ sở cho quá trình nghiên cứu.<br /> Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê,<br /> tổng hợp được kết hợp hài hoà trong quá trình viết luận văn.<br /> 6. Đóng góp của đề tài<br /> Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng hệ thống lý luận về cơ chế ba bên trong lĩnh vực<br /> lao động.<br /> Thứ hai, luận văn phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về cơ chế ba<br /> bên cũng như việc vận dụng chúng trên thực tế.<br /> Thứ ba, luận văn kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận<br /> dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam.<br /> 7. Kết cấu của luận văn<br /> Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3<br /> chương, 9 mục.<br /> Chương 1 : Khái quát chung về cơ chế ba bên<br /> Chương 2 : Cơ chế ba bên ở Việt Nam – Cơ sở pháp lý<br /> Chương 3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực<br /> lao động<br /> Chương 1<br /> KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ BA BÊN<br /> 1.1 Cơ chế ba bên, hợp tác để phát triển<br /> 1.1.1 Quan niệm về cơ chế ba bên<br /> Qua việc phân tích, đánh giá các khái niệm và quan điểm về cơ chế ba bên. Theo tác<br /> giả, cơ chế ba bên là cơ chế mà ở đó, các bên thông qua các đại diện với tư cách độc lập, bình<br /> đẳng trước pháp luật, trên cơ sở của pháp luật, cùng nhau tìm kiếm sự thống nhất chung về<br /> các chủ trương, đường lối, các quy định pháp luật, các vấn đề lao động xã hội mà các bên<br /> cùng quan tâm, đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, trên cơ sở bảo đảm sự<br /> hài hoà lợi ích của các bên nhằm xây dựng một môi trường lao động, xã hội ổn định và phát<br /> triển.<br /> 1.1.2 Bản chất của cơ chế ba bên<br /> Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội của Nhà nước. Cơ chế ba bên là một quá trình dân<br /> chủ hoá mối quan hệ lao động. Cơ chế ba bên là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực và trách<br /> nhiệm giữa nhà nước, NSDLĐ và NLĐ.<br /> 1.1.3 Nội dung hoạt động của cơ chế ba bên<br /> Cơ chế ba bên được thực hiện qua các nội dung chính sau: Chia sẻ thông tin; thảo luận;<br /> đàm phán ba bên; cùng nhau ra quyết định.<br /> 1.1.4 Hình thức hoạt động của cơ chế ba bên<br /> Cơ chế ba bên được thực hiện dưới các hình thức khá linh hoạt: Hình thức thấp nhất là<br /> đối thoại xã hội. Thông qua đối thoại chính phủ tham khảo ý kiến của các bên trước khi đi đến<br /> những quyết định cần thiết. Hình thức cao hơn là việc Chính phủ tham khảo ý kiến của các tổ<br /> chức đại diện cho NSDLĐ, NLĐ về các vấn đề liên quan để họ tham gia vào việc đóng góp ý<br /> <br /> 3<br /> <br /> kiến xây dựng chính sách. Ở đây các đối tác không được coi là bình đẳng với Nhà nước.<br /> Hình thức cao nhất có thể coi là việc cùng quyết định, đây là hình thức lý tưởng, ở hình thức<br /> này ba bên thông qua đại diện của mình với tư cách là các đối tác độc lập và bình đẳng cùng<br /> tham khảo ý kiến của nhau, cùng nhau soạn thảo và thực thi các chính sách về các vấn đề của<br /> lĩnh vưc lao động.<br /> 1.2 Vai trò, ý nghĩa của cơ chế ba bên<br /> Thứ nhất, cơ chế ba bên góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh<br /> vực lao động một cách đúng đắn, sát thực tế và có tính khả thi cao.<br /> Thứ hai, cơ chế ba bên là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm<br /> hiệu quả của các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế.<br /> Thứ ba, cơ chế ba bên góp phần ổn định các quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các<br /> bên, thúc đẩy quan hệ lao động phát triển.<br /> Thứ tư, cơ chế ba bên góp phần giảm bớt xung đột, mâu thuẫn.<br /> 1.3 Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế ba bên<br /> Luận văn nêu quá trình hình thành và các quy định của Cơ chế ba bên trên thế giới, các<br /> quy định trong pháp luật Việt Nam qua mục 1.3.1 và mục 1.3.2. Từ đó xác định thời điểm của<br /> sự ra đời của cơ chế ba bên và nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của cơ chế ba bên trên thế giới<br /> là khi nền công nghiệp của thế giới phát triển ở giai đoạn cao; NSDLĐ, NLĐ đã hình thành<br /> nên các tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình. Nhà nước thông qua các quy định pháp luật<br /> đã ghi nhận và xác nhận cơ chế hợp tác giữa các bên trong các mối quan hệ của lĩnh vực lao<br /> động.<br /> Từ những vấn đề nêu trên có thể nhận xét: Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội, là một<br /> quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động và là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực, trách<br /> nhiệm giữa Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ. Cơ chế ba bên được thực hiện qua các nội dung chính<br /> là, chia sẻ thông tin, thảo luận, đàm phán, ra quyết định. Cơ chế ba bên góp phần vào việc<br /> hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động một cách đúng đắn sát thực tế và có<br /> tính khả thi cao, là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm hiệu quả của<br /> các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế, đồng thời góp phần ổn định các<br /> quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các bên, giảm bớt xung đột, mâu thuẫn thúc đẩy quan hệ<br /> lao động phát triển.<br /> Chương 2<br /> CƠ CHẾ BA BÊN Ở VIỆT NAM – CƠ SỞ PHÁP LÝ<br /> 2.1 Sự ghi nhận pháp lý<br /> Các quy định về cơ chế ba bên trong quan hệ lao động ở nước ta được ghi nhận ở những<br /> mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp lý, cơ chế ba bên được thể hiện ngay tại Điều<br /> 10 trong Hiến pháp (1992), văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước.<br /> 2.2 Các bên trong cơ chế ba bên ở Việt Nam<br /> 2.2.1 Về phía chính phủ:<br /> Vị trí vai trò của Chính phủ được quy định trong Điều 109 Hiến Pháp (1992), trong<br /> Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ (2001), những nhiệm vụ cụ thể được quy định trong các<br /> văn bản pháp luật khác nhau, về lĩnh vực lao động vai trò của Chính phủ được quy định, tại<br /> điều 181 Bộ luật lao động (1994), Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về lao động trong<br /> phạm vi cả nước. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý Nhà nước về lao<br /> động đối với các ngành và các địa phương trong cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện<br /> quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi địa phương mình. Cơ quan lao động địa phương<br /> <br /> 4<br /> <br /> giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước về lao động theo sự phân cấp của Bộ Lao<br /> động - Thương binh và Xã hội.<br /> Qua xem xét chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ mà đại diện là Bộ lao động Thương<br /> binh và Xã hội ở cấp Trung ương, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của đối tác này trong<br /> cơ chế ba bên. Với tư cách là cơ quan cao nhất đại diện cho lợi ích của quốc gia, dân tộc,<br /> Chính phủ thông qua các cơ quan đại diện của mình tham gia vào mối quan hệ với các đối tác<br /> khác của quan hệ lao động, ở đây Chính phủ đóng vai trò là đầu mối tập hợp các bên, phối<br /> hợp hoạt động giữa các bên, là người tạo lập môi trường và các điều kiện cần thiết để cơ chế<br /> ba bên hoạt động có hiệu quả. Cơ chế ba bên có hoạt động hiệu quả hay không phần quan<br /> trọng phụ thuộc vai trò của Chính phủ.<br /> 2.2.2 Đại diện người sử dụng lao động<br /> Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động do những người sử dụng lao động lập ra,<br /> để đại diện cho người sử dụng lao động tham gia vào các quan hệ lao động và bảo vệ quyền<br /> lợi hợp pháp cho người sử dụng lao động. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều tổ chức đại diện cho<br /> người sử dụng lao động, nhưng những tổ chức này thường được lập ra theo từng ngành, từng<br /> hiệp hội như Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh các Hợp tác xã Việt<br /> Nam, Hiệp hội các doanh nghiêp vừa và nhỏ Việt Nam...Đến nay chưa có một tổ chức nào<br /> thực sự là đại diện theo đúng nghĩa của cộng đồng người sử dụng lao động ở Việt Nam.<br /> 2.2.3 Đại diện tập thể lao động<br /> Theo pháp luật Việt Nam Công đoàn là cơ quan đại diện hợp pháp của người lao động<br /> tham gia vào cơ chế ba bên. Chức năng nhiệm vụ của Công đoàn được quy định trong Luật<br /> Công đoàn trong đó có nhiều quy định liên quan tới việc thực hiên cơ chế ba bên của Công<br /> đoàn với tư cách là bên đại diện cho người lao động tham gia vào cơ chế ba bên.<br /> 2.3 Cơ chế ba bên trong pháp luật lao động Việt Nam<br /> 2.3.1 Trong việc xây dựng chính sách, pháp luật lao động<br /> Ở Việt Nam vấn đề vận dụng cơ chế ba bên trong việc tham gia xây dựng chính sách,<br /> pháp luật lao động được thực hiện trên thực tế một cách phổ biến. Thực tế ở nước ta là Quốc<br /> hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội không phải là cơ quan soạn thảo dự án Luật, pháp lệnh; với<br /> Chính phủ cũng không phải là cơ quan soạn thảo Nghị định mà việc soạn thảo Luật, Pháp<br /> lệnh, Nghị định thì được giao cho cơ quan bộ, ngành có liên quan là cơ quan chủ trì phối hợp<br /> cùng các cơ quan khác tham gia soạn thảo các dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị định … để trình<br /> cơ quan cấp trên theo đúng trình tự xây dựng văn bản đã được quy định trong Luật. Khi một<br /> cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp cùng các cơ quan khác thì trong mọi khâu của<br /> quá trình soạn thảo thì các bên có sự đóng góp ý kiến của mình để soạn thảo các dự án. Trong<br /> lĩnh vực lao động khi Bộ lao động được giao chủ trì soạn thảo thì các bên tham gia có đại diện<br /> của Người sử dụng lao động, đại diện của Người lao động tham gia đóng góp. Thực tế việc<br /> tham gia cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đó có thể là việc tổ chức hôị nghị để các<br /> bên cùng ngồi lại với nhau cùng trao đổi để đi đến thống nhất chung, cũng có thể là các bên<br /> tham gia được gửi taì liệu để nghiên cứu sau đó có ý kiến bằng văn bản gửi cho cơ quan chủ<br /> trì soạn thảo để tổng hợp, thực tế là việc góp ý được thực hiện bằng cả hai cách trên.<br /> 2.3.2 Trong việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực lao động<br /> 2.3.2.1 Về ký kết thoả ước lao động tập thể. Đây là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao<br /> động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và<br /> nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động. Việc thực hiện CCBB trong quá trình thương<br /> lượng ký kết thoả ước lao động tập thể ở Việt Nam đã thu được nhiều hiệu quả, nhưng đạt<br /> được chưa cao.<br /> 2.3.2.2 Trong lĩnh vực tiền lương: Được coi là vấn đề quan trọng nhất mà người lao<br /> động hướng tới, vì vậy vấn đề tiền lương luôn được các bên quan tâm, Chính phủ bằng quy<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2