Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên<br />
trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam<br />
Vũ Mạnh Chiến<br />
Khoa Luật<br />
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50<br />
Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Hoài Thu<br />
Năm bảo vệ: 2011<br />
Abstract: Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br />
Phân tích và đánh giá thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động,<br />
làm rõ những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của nó. Đưa ra một số giải pháp<br />
nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br />
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật lao động; Cơ chế ba bên; Luật kinh tế<br />
Content<br />
MỞ ĐẦU<br />
1.Tính cấp thiết của đề tài<br />
Trong thực tế lĩnh vực lao động, người sử dụng lao động tìm mọi cách để mang lại lợi<br />
ích tối đa cho mình, người lao động thì mong muốn được trả lương cao tương ứng với công<br />
sức bỏ ra, được làm việc trong điều kiện lao động tốt, Nhà nước thì mong muốn các quy định<br />
mà mình ban hành được thực hiện một cách nghiêm túc, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao<br />
động được quản lý chặt chẽ để ổn định xã hội. Do vậy, lợi ích của nhà nước, người sử dụng<br />
lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) đan xen lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau nhưng<br />
cũng dễ sảy ra mâu thuẫn. Vì thế để dung hoà lợi ích giữa các bên cần phải phối hợp cùng<br />
nhau xây dựng và đưa ra những nguyên tắc chung làm cơ sở để thực hiện. Cơ chế ba bên<br />
(CCBB) trong lĩnh vực lao động xuất hiện và tồn tại một cách tự nhiên. Trên thế giới, cơ chế<br />
ba bên trong lĩnh vực lao động được xác lập và vận hành từ lâu. Sự tồn tại của cơ chế ba bên<br />
đã góp phần xây dựng và pháp triển các mối quan hệ lao động giữa nhà nước, người sử dụng<br />
lao động và người lao động, tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội nói chung, lĩnh vực lao<br />
động nói riêng. Thông qua cơ chế ba bên sẽ góp phần hạn chế những mẫu thuẫn, giảm thiểu<br />
căng thẳng, giúp các bên tìm ra giải pháp có lợi nhất thoả mãn đòi hỏi, lợi ích của mỗi bên.<br />
Ở phạm vi quốc tế Tổ chức lao động quốc tế (ILO) là tổ chức được thiết lập và hoạt<br />
động trên nền tảng của ba đối tác xã hội ở tầm quốc tế. Sự tồn tại, phát triển và hoạt động của<br />
ILO đã kích lệ các quốc gia xây dựng và vận hành cơ chế ba bên ở nước mình tạo ra môi<br />
trường lao động hài hoà ổn định và mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, xã hội.<br />
Ở Việt Nam khi tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa, giao lưu, hợp tác ngày càng sâu<br />
rộng với bên ngoài trên cơ sở nguyên tắc, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,<br />
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Việt Nam đã<br />
tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới<br />
(WTO), Hiệp hội các quốc gia đông nam á (ASEAN)…trong quá trình hợp tác Việt Nam đã<br />
ký kết, tham gia nhiều Hiệp định song phương và đa phương. Trong lĩnh vực lao động, là một<br />
<br />
thành viên của ILO Việt Nam cũng đã tham gia nhiều Công ước của tổ chức này, Chúng ta đã<br />
vận dụng những khía cạnh hợp lý của cơ chế ba bên vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Tuy<br />
nhiên cơ chế ba bên còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, về lý luận chưa được nghiên cứu<br />
nhiều, các quy định pháp luật về cơ chế hợp tác ba bên còn ít, việc vận hành trên thực tế còn<br />
hình thức, hiệu quả còn hạn chế, do đó đề tài : “Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba<br />
bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam” sẽ nghiên cứu để đưa ra những giải pháp góp phần<br />
xây dựng, nâng cao hiệu lực, vận dụng các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt<br />
Nam hiện nay.<br />
2.Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài:<br />
Qua các nguồn thông tin mà tác giả có thể tiếp cận được thì hiện nay có một luận án<br />
tiến sỹ “Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam” của tác giả<br />
Nguyễn Xuân Thu - Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu vấn đề cơ chế ba bên trong việc giải<br />
quyết tranh chấp lao động, đề tài “Cơ chế ba bên – Pháp luật và thực tiễn hoạt động” của<br />
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do TS.GVC Lê Thi Hoài Thu chủ trì. Ngoài ra có một<br />
số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề cơ chế ba bên, tiêu biểu nhất<br />
phải kể đến những bài viết của PGS.TS Phạm Công Trứ được đăng trên các số của tạp chí<br />
Nhà nước và Pháp luật, như Cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường (tháng 1/1997), Cơ<br />
chế ba bên của ILO : Khái niệm và cơ sở pháp lý (tháng 6/2006), Cơ chế ba bên của ILO: Cơ<br />
sở lý luận (tháng 12/2006)..., tiếp đến là các bài viết của TS Lưu Bình Nhưỡng như Một số<br />
vấn đề lý luận, pháp lý và điều kiện phát triển Cơ chế ba bên ở Việt Nam - Tạp chí Luật học<br />
số 12/2006, Việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công - Tạp chí nghiên cứu lập<br />
pháp số 10/2006; TS Đào Thị Hằng : Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao<br />
động Việt Nam - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 11/2005; ThS Nguyễn Hữu Chí : Vai<br />
trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và giải quyết tranh chấp lao động - Tạp chí Nhà nước<br />
và Pháp luật tháng 10/2001. Ngoài ra, các sách báo viết về cơ chế ba bên hầu hết đều là của<br />
các tác giả nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nghiên cứu một cách có hệ<br />
thống về vấn đề cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động mang ý nghĩa lý Luận và thực tiễn sâu<br />
sắc. Đề tài có ý nghĩa cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động,<br />
phù hợp với luật pháp quốc tế và là cơ sở cho việc áp dụng ở Việt Nam. Những kiến nghị của<br />
đề tài hy vọng sẽ là một trong những cơ sở cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định<br />
pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa bảo vệ<br />
được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng lao động vừa bảo vệ được lợi ích chính<br />
đáng của người lao động. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu<br />
sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.<br />
3. Mục đích- nhiệm vụ của đề tài:<br />
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận, việc vận<br />
dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những<br />
nhận xét, đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế ba bên<br />
trong lĩnh vực lao động. Qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong<br />
việc sửa đổi, bổ sung pháp luật đối với lĩnh vực này.<br />
- Mục đích:<br />
Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của<br />
cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br />
- Nhiệm vụ:<br />
+Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động.<br />
+ Đánh giá đúng đắn về thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao<br />
động, thuận lợi và khó khăn.<br />
+ Hướng bổ sung hoàn thiện các quy định, phương hướng, giải pháp, kiến nghị.<br />
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài:<br />
<br />
2<br />
<br />
Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động, như cơ sở lý<br />
luận, các quy định quốc tế về cơ chế ba bên, quy định pháp luật Việt Nam về cơ chế ba bên,<br />
việc vận dụng cơ chế ba bên ở Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật; Ký kết<br />
hợp đồng, thoả ước lao động tập thể; Lĩnh vực tiền lương... giải quyết tranh chấp lao động.<br />
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:<br />
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ<br />
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, làm<br />
cơ sở cho quá trình nghiên cứu.<br />
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê,<br />
tổng hợp được kết hợp hài hoà trong quá trình viết luận văn.<br />
6. Đóng góp của đề tài<br />
Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng hệ thống lý luận về cơ chế ba bên trong lĩnh vực<br />
lao động.<br />
Thứ hai, luận văn phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về cơ chế ba<br />
bên cũng như việc vận dụng chúng trên thực tế.<br />
Thứ ba, luận văn kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận<br />
dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam.<br />
7. Kết cấu của luận văn<br />
Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3<br />
chương, 9 mục.<br />
Chương 1 : Khái quát chung về cơ chế ba bên<br />
Chương 2 : Cơ chế ba bên ở Việt Nam – Cơ sở pháp lý<br />
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực<br />
lao động<br />
Chương 1<br />
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ BA BÊN<br />
1.1 Cơ chế ba bên, hợp tác để phát triển<br />
1.1.1 Quan niệm về cơ chế ba bên<br />
Qua việc phân tích, đánh giá các khái niệm và quan điểm về cơ chế ba bên. Theo tác<br />
giả, cơ chế ba bên là cơ chế mà ở đó, các bên thông qua các đại diện với tư cách độc lập, bình<br />
đẳng trước pháp luật, trên cơ sở của pháp luật, cùng nhau tìm kiếm sự thống nhất chung về<br />
các chủ trương, đường lối, các quy định pháp luật, các vấn đề lao động xã hội mà các bên<br />
cùng quan tâm, đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, trên cơ sở bảo đảm sự<br />
hài hoà lợi ích của các bên nhằm xây dựng một môi trường lao động, xã hội ổn định và phát<br />
triển.<br />
1.1.2 Bản chất của cơ chế ba bên<br />
Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội của Nhà nước. Cơ chế ba bên là một quá trình dân<br />
chủ hoá mối quan hệ lao động. Cơ chế ba bên là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực và trách<br />
nhiệm giữa nhà nước, NSDLĐ và NLĐ.<br />
1.1.3 Nội dung hoạt động của cơ chế ba bên<br />
Cơ chế ba bên được thực hiện qua các nội dung chính sau: Chia sẻ thông tin; thảo luận;<br />
đàm phán ba bên; cùng nhau ra quyết định.<br />
1.1.4 Hình thức hoạt động của cơ chế ba bên<br />
Cơ chế ba bên được thực hiện dưới các hình thức khá linh hoạt: Hình thức thấp nhất là<br />
đối thoại xã hội. Thông qua đối thoại chính phủ tham khảo ý kiến của các bên trước khi đi đến<br />
những quyết định cần thiết. Hình thức cao hơn là việc Chính phủ tham khảo ý kiến của các tổ<br />
chức đại diện cho NSDLĐ, NLĐ về các vấn đề liên quan để họ tham gia vào việc đóng góp ý<br />
<br />
3<br />
<br />
kiến xây dựng chính sách. Ở đây các đối tác không được coi là bình đẳng với Nhà nước.<br />
Hình thức cao nhất có thể coi là việc cùng quyết định, đây là hình thức lý tưởng, ở hình thức<br />
này ba bên thông qua đại diện của mình với tư cách là các đối tác độc lập và bình đẳng cùng<br />
tham khảo ý kiến của nhau, cùng nhau soạn thảo và thực thi các chính sách về các vấn đề của<br />
lĩnh vưc lao động.<br />
1.2 Vai trò, ý nghĩa của cơ chế ba bên<br />
Thứ nhất, cơ chế ba bên góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh<br />
vực lao động một cách đúng đắn, sát thực tế và có tính khả thi cao.<br />
Thứ hai, cơ chế ba bên là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm<br />
hiệu quả của các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế.<br />
Thứ ba, cơ chế ba bên góp phần ổn định các quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các<br />
bên, thúc đẩy quan hệ lao động phát triển.<br />
Thứ tư, cơ chế ba bên góp phần giảm bớt xung đột, mâu thuẫn.<br />
1.3 Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế ba bên<br />
Luận văn nêu quá trình hình thành và các quy định của Cơ chế ba bên trên thế giới, các<br />
quy định trong pháp luật Việt Nam qua mục 1.3.1 và mục 1.3.2. Từ đó xác định thời điểm của<br />
sự ra đời của cơ chế ba bên và nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của cơ chế ba bên trên thế giới<br />
là khi nền công nghiệp của thế giới phát triển ở giai đoạn cao; NSDLĐ, NLĐ đã hình thành<br />
nên các tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình. Nhà nước thông qua các quy định pháp luật<br />
đã ghi nhận và xác nhận cơ chế hợp tác giữa các bên trong các mối quan hệ của lĩnh vực lao<br />
động.<br />
Từ những vấn đề nêu trên có thể nhận xét: Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội, là một<br />
quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động và là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực, trách<br />
nhiệm giữa Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ. Cơ chế ba bên được thực hiện qua các nội dung chính<br />
là, chia sẻ thông tin, thảo luận, đàm phán, ra quyết định. Cơ chế ba bên góp phần vào việc<br />
hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động một cách đúng đắn sát thực tế và có<br />
tính khả thi cao, là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm hiệu quả của<br />
các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế, đồng thời góp phần ổn định các<br />
quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các bên, giảm bớt xung đột, mâu thuẫn thúc đẩy quan hệ<br />
lao động phát triển.<br />
Chương 2<br />
CƠ CHẾ BA BÊN Ở VIỆT NAM – CƠ SỞ PHÁP LÝ<br />
2.1 Sự ghi nhận pháp lý<br />
Các quy định về cơ chế ba bên trong quan hệ lao động ở nước ta được ghi nhận ở những<br />
mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp lý, cơ chế ba bên được thể hiện ngay tại Điều<br />
10 trong Hiến pháp (1992), văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước.<br />
2.2 Các bên trong cơ chế ba bên ở Việt Nam<br />
2.2.1 Về phía chính phủ:<br />
Vị trí vai trò của Chính phủ được quy định trong Điều 109 Hiến Pháp (1992), trong<br />
Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ (2001), những nhiệm vụ cụ thể được quy định trong các<br />
văn bản pháp luật khác nhau, về lĩnh vực lao động vai trò của Chính phủ được quy định, tại<br />
điều 181 Bộ luật lao động (1994), Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về lao động trong<br />
phạm vi cả nước. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý Nhà nước về lao<br />
động đối với các ngành và các địa phương trong cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện<br />
quản lý Nhà nước về lao động trong phạm vi địa phương mình. Cơ quan lao động địa phương<br />
<br />
4<br />
<br />
giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý Nhà nước về lao động theo sự phân cấp của Bộ Lao<br />
động - Thương binh và Xã hội.<br />
Qua xem xét chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ mà đại diện là Bộ lao động Thương<br />
binh và Xã hội ở cấp Trung ương, chúng ta thấy được vai trò quan trọng của đối tác này trong<br />
cơ chế ba bên. Với tư cách là cơ quan cao nhất đại diện cho lợi ích của quốc gia, dân tộc,<br />
Chính phủ thông qua các cơ quan đại diện của mình tham gia vào mối quan hệ với các đối tác<br />
khác của quan hệ lao động, ở đây Chính phủ đóng vai trò là đầu mối tập hợp các bên, phối<br />
hợp hoạt động giữa các bên, là người tạo lập môi trường và các điều kiện cần thiết để cơ chế<br />
ba bên hoạt động có hiệu quả. Cơ chế ba bên có hoạt động hiệu quả hay không phần quan<br />
trọng phụ thuộc vai trò của Chính phủ.<br />
2.2.2 Đại diện người sử dụng lao động<br />
Tổ chức đại diện của người sử dụng lao động do những người sử dụng lao động lập ra,<br />
để đại diện cho người sử dụng lao động tham gia vào các quan hệ lao động và bảo vệ quyền<br />
lợi hợp pháp cho người sử dụng lao động. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều tổ chức đại diện cho<br />
người sử dụng lao động, nhưng những tổ chức này thường được lập ra theo từng ngành, từng<br />
hiệp hội như Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Liên minh các Hợp tác xã Việt<br />
Nam, Hiệp hội các doanh nghiêp vừa và nhỏ Việt Nam...Đến nay chưa có một tổ chức nào<br />
thực sự là đại diện theo đúng nghĩa của cộng đồng người sử dụng lao động ở Việt Nam.<br />
2.2.3 Đại diện tập thể lao động<br />
Theo pháp luật Việt Nam Công đoàn là cơ quan đại diện hợp pháp của người lao động<br />
tham gia vào cơ chế ba bên. Chức năng nhiệm vụ của Công đoàn được quy định trong Luật<br />
Công đoàn trong đó có nhiều quy định liên quan tới việc thực hiên cơ chế ba bên của Công<br />
đoàn với tư cách là bên đại diện cho người lao động tham gia vào cơ chế ba bên.<br />
2.3 Cơ chế ba bên trong pháp luật lao động Việt Nam<br />
2.3.1 Trong việc xây dựng chính sách, pháp luật lao động<br />
Ở Việt Nam vấn đề vận dụng cơ chế ba bên trong việc tham gia xây dựng chính sách,<br />
pháp luật lao động được thực hiện trên thực tế một cách phổ biến. Thực tế ở nước ta là Quốc<br />
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội không phải là cơ quan soạn thảo dự án Luật, pháp lệnh; với<br />
Chính phủ cũng không phải là cơ quan soạn thảo Nghị định mà việc soạn thảo Luật, Pháp<br />
lệnh, Nghị định thì được giao cho cơ quan bộ, ngành có liên quan là cơ quan chủ trì phối hợp<br />
cùng các cơ quan khác tham gia soạn thảo các dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị định … để trình<br />
cơ quan cấp trên theo đúng trình tự xây dựng văn bản đã được quy định trong Luật. Khi một<br />
cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì phối hợp cùng các cơ quan khác thì trong mọi khâu của<br />
quá trình soạn thảo thì các bên có sự đóng góp ý kiến của mình để soạn thảo các dự án. Trong<br />
lĩnh vực lao động khi Bộ lao động được giao chủ trì soạn thảo thì các bên tham gia có đại diện<br />
của Người sử dụng lao động, đại diện của Người lao động tham gia đóng góp. Thực tế việc<br />
tham gia cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đó có thể là việc tổ chức hôị nghị để các<br />
bên cùng ngồi lại với nhau cùng trao đổi để đi đến thống nhất chung, cũng có thể là các bên<br />
tham gia được gửi taì liệu để nghiên cứu sau đó có ý kiến bằng văn bản gửi cho cơ quan chủ<br />
trì soạn thảo để tổng hợp, thực tế là việc góp ý được thực hiện bằng cả hai cách trên.<br />
2.3.2 Trong việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực lao động<br />
2.3.2.1 Về ký kết thoả ước lao động tập thể. Đây là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao<br />
động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và<br />
nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động. Việc thực hiện CCBB trong quá trình thương<br />
lượng ký kết thoả ước lao động tập thể ở Việt Nam đã thu được nhiều hiệu quả, nhưng đạt<br />
được chưa cao.<br />
2.3.2.2 Trong lĩnh vực tiền lương: Được coi là vấn đề quan trọng nhất mà người lao<br />
động hướng tới, vì vậy vấn đề tiền lương luôn được các bên quan tâm, Chính phủ bằng quy<br />
<br />
5<br />
<br />