intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của kiểm toán trong việc ngăn ngừa lãng phí nguồn lực tại các daonh nghịêp nhà nuớc

Chia sẻ: Chi Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

184
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo luật kiểm toán nhà nước, kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán kiểm tra đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước. Vì vậy, thực hiện kiểm toán hoạt động tại các doanh nghiệp, ngoài việc giúp cho công tác quản lý đạt mục tiêu hiệu quả và an toàn

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của kiểm toán trong việc ngăn ngừa lãng phí nguồn lực tại các daonh nghịêp nhà nuớc

  1. Vai trò của kiểm toán hoạt động trong việc ngăn ngừa lãng phí nguồn lực tại các doanh nghiệp nhà nước. Theo luật kiểm toán nhà nước, kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán kiểm tra đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước. Vì vậy, thực hiện kiểm toán hoạt động tại các doanh nghiệp, ngoài việc giúp cho công tác quản lý đạt mục tiêu hiệu
  2. quả và an toàn, kiểm toán hoạt động còn có vai trò rất lớn trong ngăn ngừa, hạn chế lãng phí trong quản lý dử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Trước hết, nói về lãng phí, lâu nay nhiều người quan niệm đố chỉ là sự chi tiêu xa hoa, vượt quá so với yêu cầu, mục đích chi tiêu và xem lãng phí chủ yếu là lãng phí tiền bạc. Tuy nhiên, theo từ điển tiếng việt, lãng phí có nghĩa là tiêu phí vô ích nên không thể khái niệm đơn thuần là tiêu phí tiền bạc mà còn phải bàn đến lãng phí những nguồn lực khác, như thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tài nguyên, cơ hội,… (trong đó lãng phí tiền bạc chỉ là một hình thức cụ thể). Vì vậy, việc xem xét vấn đề lãng phí trong quản lý sử dụng vốn tại các doanh nghiệp cũng không thể chỉ đánh giá lãng phí trong chi tiêu quản lý, chi hội nghị, họp hành đón nhận huân huy chương, chỉ tiêu những khoản chi giao dịch, đối ngoại, tiếp khách, khởi công động thổ, lễ Tết…
  3. linh đình, phô trương, tốn kém (vì đó chỉ là lãng phí chi tiêu – “bề nổi”) mà cần thiết phải quan tâm nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn, đó là lãng phí nguồn lực mà doanh nghiệp đang được nhà nước giao quản lý, sử dụng. Đây chính là “phần chìm” rất khó đánh giá, khó xác định nên hậu quả của việc lãng phí nguồn lực thường lớn hơn nhiều so với lãng phí chiêu tiêu, bởi lẽ: Lãng phí trong chi tiêu dễ nhận biêté, dễ so sánh, dễ kiểm soát vì thông thường các doanh nghiệp đều có quy chế quản lý chi tiêu nhất định (kể cả văn bản và những “thông lệ”) để xác định các mức chi tiêu hoạt động cụ thể, ngoài ra một số văn bản pháp quy của nhà nước cũng khống chế mức chi tiêu, một số văn bản chỉ đạo về thực hành tiết kiệm chống lãng ohím quy định tiền lương gắn với lợi nhuận… đã tạo hành lang pháp lý, khuôn khoor cho
  4. việc chi tiêu. Vậy nên khi doanh nghiệp chi tiêu với mức chi lớn hoặc vượt quy định tại quy chế,định mức nêu trên đều được kiểm soát, điều chỉnh bằng hệ thống các quy định. Hơn nữa, việc kiểm tra, giám sát của bộ máy kiểm soát nội bộ, của người lao động và các tổ chức đòan thể, của cơ quan quản lý cấp trên, chính quyền địa phương và việc thanh kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng có tác dụng kiểm soát và hạn chế lãng phí chi tiêu của đơn vị, tạo điều kiện để đơn vị thực hành tiết kiệm chống lãng phí trên cả phương diện tự giác và bắt buộc. Nghiên cứu về lãng phí nguồn lực cho thấy : lãng phí nguồn lực là việc sử dụng không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp các nguồn lực doanh nghiệp được giao quản lý, sử dụng (tiêu phí vô ích toàn bộ hoặc một phần nguồn lực kinh tế tài chính, nguồn lực tài
  5. nguyên thiên nhiên, nguồn lực thời cơ, nguồn lực về trí tuệ của đội ngũ cán bộ được đào tạo, lợi thế thương mại… của doanh nghiệp): đây là loại lãng phí rất khó phát hiện, khó kiểm soát, có thể phát sinh đột xuất những cũng có thể diễn biến liên tục qua thời gian dài vẫn không được phát hiện và xử lý kịp thời vì nó không hiện hữu cụ thể như lãng phí chi tiêu. Ví dụ như: có đơn vị khả năng tài trợ cao, khả năng thanh toán nợ đảm bảo không cần huy động vốn nhưng đơn vị không quản trị tài chính mà vẫn đi vay vốn ngân hàng, thiêu vốn ngắn hạn nhưng đi vay dài hạn để tài trợ cho nhu cầu sử dụng ngắn hạn là tăng chi phí lãi vay; có trường hợp tính giá thành sản xuất “theo kế hoạch” nên trong số sản phẩm sản xuất, có mặt hàng làm càng nhiều, lỗ càng lớn, vẫn không phát hiện để điều chỉnh phương án kinh doanh. Có đơn vị bố trí sắp xếp cán bộ bất hợp lý, không đúng khả năng, người
  6. làm được không được làm hoặc phải “kéo” theo một số người năng lực yếu dẫn đến đình trệ công việc, phát sinh mâu thuẫn và giảm hiệu lực của công tác quản lý, có những đơn vị có cơ hội đầu tư thu lợi nhuận từ nguồn vốn nhàn rỗi nhưng không thực hiện.v.v… Hoặc, có những hình thức lãng phí mang tính hệ thống, phát sinh ở quy mô rộng như tại một số đơn vị đủ tiềm lực để sản xuất thành phẩm hoặc bán thành phẩm phục vụ xuất khẩu nhưng chỉ tổ chức khai thác và tiêu thụ được sản phẩm là nguyên liệu thô; có đơn vị khai thác tài nguyên thiên nhiên không tính đến yếu tố phát triển bền vững, phát triển dài hạn mà chạy theo năng suất và lợi nhuận trước mắt theo kiểu “ăn xổi” nên khai thác bừa bãi, chỗ nào dễ khai thác thì tận thu.v.v… Nguyên nhân dẫn đến lãng phí nguồn lực cho thấy, phần lớn các dơn vị làm theo nếp quản lý cũ, lạc hậu trì trệ, do kinh nghiệm và năng lực quản lý yếu
  7. kém, do thiếu thông tin quản trị và thiếu chuyên gia phân tích quản trị doanh nghiệp… và hơn nữa bản thân doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước chưa có những chế tài cụ thể nhằm giám sát, xử lý những tồn tại; chưa có cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện, động lực cho các nhân, tập thể tích cực nghiên cứu nhằm khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực được giao. Vì vậy, để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tình trạng lãng phí nguồn ưclj của doanh nghiệp – đầu tiên cần phải nhận diện và chỉ ra được các hình thức lãng phí cụ thể, sau đó nghiên cứu đề xuất biện pháp để đơn vị tổ chức thực hiện điểu chỉnh hành vi quản lý, sắp xếp tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh nhằm khắc phục những tồn tại. Xét về phương diện nhiệm vụ, đây là công việc bắt
  8. buộc các doanh nghiệp phải quan tâm phát hiện và điều chỉnh những thiếu xót trong hoạt động quản lý của mình. Tuy nghiên, là những người “trong cuộc”, khả năng tự phát hiện để xử lý những tồn tại thường rất hạn chế (bản thân các nhà quản lý doanh nghiệp đều nghĩ rằng công việc điều hành của mình thực sự là tối ưu nên mới tổ chức thực hiện, ít khi dứng ở vị trí độc lập để nhận thức được một số việc làm của mình chưa hiệu quả). Vậy nên, chỉ khi kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn độc lập, khách quan tiến hành kiểm toán hoạt động tại các doanh nghiệp, sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để thu thập thông tin, phân tích nhằm nhận diện những sai xót trong quản lý, trao đổi và kiến nghị doanh nghiệp tìm kiếm những biện pháp khắc phục tồn tại mới thực sự giúp các doanh nghiệp nhìn nhận được những khiếm
  9. khuyết cần điều chỉnh trên cơ sở khách quan và khoa học. Thực tế trong quá trình kiểm toán đã chứng minh: kiểm toán báo cáo tài chính kết hợp với kiểm toán hoạt động có tác động trong việc hỗ trợ đơn vị sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản và các nguồn lực được giao, ngăn ngừa và hạn chế lãng phí, cụ thể: Thứ nhất, kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp trong ngăn ngừa và kiểm soát lãng phí, đánh giá hiệu lực của việc tuân thủ chính sách chế độ của nhà nước về quản lý chi tiêu, đồng thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để xác định các tồn tại liên quan đến việc lãng phí nguồn lực, trong đó đi sâu vào sử dụng kết hợp các kỹ thuật kiểm toán như phân tích tổng hợp, hệ thống hóa, đối chiếu, so sánh, nội suy… để công nhận dạng lãng phí nguồn lực
  10. ở các bộ phận công đoạn quản lý cụ thể và tổng hợp, phân tích, phỏng vấn để tìm các nguyên nhân nhằm đưa ra đánh giá cụ thể về hình thức, mức độ lãng phí nguồn lực của đơn vị (so sánh với các phương pháp kiểm tra thông thường, nếu không sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán sẽ rất khó phát hiện những tồn tại liên quan đến các loại lãng phí nguồn lực luôn tiềm ẩn trong các hoạt động điều hành quản lý của đơn vị). Thứ hai, kiểm toán hoạt động định hướng các biện pháp quản lý nhằm khắc phục hạn chế tổn thất, khi đã nhận diện được hình thức lãng phí nguyên nhân dẫn đến lãng phí, mức độ lãng phí - kiểm toán viên sẽ đề xuất các biện pháp ngăn chặc không để những tổn thất này tiếp tục phát sinh, đề xuất các biện pháp để khắc phục những thiệt hại đã xảy ra giúp doanh nghiệp nghiên
  11. cứu điều chỉnh các hành vi quản lý của mình. Tất nhiên, không phải tất cả phương án kiểm toán viên đưa ra đều có thể thực hiện một cách hoàn hảo như mong muốn, nhưng về cơ bản, những định hướng phù hợp với luật pháp hiện hành và xu thế phát triển chung đều là kim chỉ nam giúp đơn vị ghi nhận để giải quyết tồn tại. Hơn nữa, kiểm toán viên còn có thể kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền, cơ quan có trách nhiệm cùng phối hợp để giải quyết những tồn tại, vướng mắc của doanh nghiệp thuận lợi, đúng pháp luật hơn. Thứ ba, trên cơ sở kết quả kiểm toán hoạt động của một số doanh nghiệp cụ thể, kiểm toán nhà nước kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước, kiến nghị các đơn vị quản lý cấp trên của đơn vị được kiểm toán xem xét trăng cường vai trò quản lý, định
  12. hướng, hỗ trợ đối với toàn bộ những doanh nghiệp cuàng lĩnh vực. Điều này trên thực tiễn rất có giá trị khi mộ số đơn vị quản lý cấop trên như các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mẹ… tổ chức thực hiện các biện pháp chấn chỉnh công tác điều hành sau kiểm toán trên phạm vi toàn ngành, triển khai rút kinh nghiệm đối với những đơn vị có cùng mô hình hoạt động nhưng chưa được kiểm toán. Thứ tư, qua việc kiểm tra, nhận xét đánh giá, kiến nghị về quản lý sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, kiểm toán hoạt động có tác dụng nâng cao ý thức tự giác của các đơn vị trong quản trị tài chính, quản trịkinh doanh và điều hành doanh nghiệp trên cả khía cạnh “phần chìm” đa dạn và phức tạp hơn, đó là việc tăng cường sử dụng có hiệu quả các
  13. nguồn lực tiềm ẩn của đơn vị. Thứ năm, theo quy định của luật KTNN, kết quả kiểm toán được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, kết quả kiểm toán hoạt động công khai có tác dụng tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm quản lý; cung cấp các thông tin tác động đến xã hội, đến các doanh nghiệp để các đơn vị quan tâm hơn nữa đến công tác thực hành tiết kiệm chống lãng phí, trong đó đựac biệt là lãng phí nguồn lực. Đồng thời, giúp các đơn vị nhận thức và quan tâm hơn đến việc đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế những thiệt hại do lãng phí nguồn lực gây nên. Tóm lại, có thể khẳng định kiểm toán hoạt động có vai trò rất lớn trong việc đề phòng, ngăn ngừa và hạn chế tổn thất, lãng phí trong sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nói riêng, cũng
  14. như việc sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các đơn vị nói chung. Nó góp phần thúc đẩy công tác quản lý hướng tới mục tiêu tiết kiệm hiệu quả, hiệu lực, an toàn và phát triển bền vững.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2