Bài giảng Sinh lý bệnh - Miễn dịch: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2017)
lượt xem 6
download
Bài giảng Sinh lý bệnh - Miễn dịch kết cấu gồm 13 chương và được chia thành 2 phần, phần 2 gồm 7 chương đầu, cung cấp cho sinh viên những nội dung, kiến thức về: giới thiệu môn học sinh lý bệnh; khái niệm về bệnh; khái niệm về bệnh nguyên; khái niệm về bệnh sinh; rối loạn cân bằng glucose máu; rối loạn chuyển hóa lipid; rối loạn chuyển hóa protid;... Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài giảng!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Sinh lý bệnh - Miễn dịch: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2017)
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN KHOA Y BÀI GIẢNG SINH LÝ BỆNH - MIỄN DỊCH (Đối tượng Đại học Y khoa, Dược học) Đơn Vị Biên Soạn : Khoa Y LƯU HÀNH NỘI BỘ Hậu Giang, 2017
- MỤC LỤC CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU MÔN HỌC SINH LÝ BỆNH .............. 1 CHƯƠNG 2 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH .......................................... 10 CHƯƠNG 3 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH NGUYÊN ........................ 20 CHƯƠNG 4 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH SINH ................................ 28 CHƯƠNG 5 RỐI LOẠN CÂN BẰNG GLUCOSE MÁU............ 37 CHƯƠNG 6 RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID ........................ 51 CHƯƠNG 7 RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA PROTID .................... 70 CHƯƠNG 8 RỐI LOẠN CÂN BẰNG NƯỚC-ĐIỆN GIẢI......... 81 CHƯƠNG ̣9 RỐI LOẠN CÂN BẰNG ACID - BASE ............... 104 CHƯƠNG 10 RỐI LOẠN ĐIỀU HÒA THÂN NHIỆT.............. 129 CHƯƠNG 11 VIÊM .................................................................. 141 CHƯƠNG 12 RỐI LOẠN PHAT TRIỂN TỔ CHỨC ................ 162 CHƯƠNG 13 SINH LÝ BỆNH QUÁ TRÌNH LÃO HOÁ ......... 180
- CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU MÔN HỌC SINH LÝ BỆNH I. Đại cương 1. Định nghĩa Sinh lý bệnh lý học hay gọi tắt là sinh lý bệnh học là môn học nghiên cứu về cơ chế phát sinh, phát triển và kết thúc của bệnh; tức là nghiên cứu những thay đổi của cơ thể bị bệnh trong quá trình bệnh lý điển hình và cuối cùng để tìm hiểu những quy luật hoạt động của bệnh nói chung. Theo Purkinje: “Sinh lý bệnh là sinh lý của cơ thể bị bệnh“ Sinh lý bệnh nghiên cứu những trường hợp bệnh lý cụ thể, phát hiện và mô tả những thay đổi về sự hoạt động chức năng của cơ thể, cơ quan, mô và tế bào khi chúng bị bệnh; từ đó rút ra những quy luật chi phối chúng, khác với những quy luật hoạt động lúc bình thường: đó là sinh lý bệnh học cơ quan, bộ phận. Ví dụ Sinh lý bệnh tuần hoàn (Sinh lý bệnh cơ quan). Tuy nhiên, có những rối loạn có thể xảy ra ở nhiều cơ quan chức năng rất khác nhau như viêm gan, viêm cơ, viêm khớp...và mỗi bệnh lại diễn tiến theo những quy luật riêng của nó: viêm gan không giống như viêm khớp. Tuy nhiên mỗi bệnh này lại cùng tuân theo một quy luật chung hơn, đó là quy luật bệnh lý viêm nói chung và quy luật này lại được trình bày trong bài viêm (Sinh lý bệnh đại cương). Từ việc nghiên cứu quy luật hoạt động của từng bệnh, từng cơ quan, đến quy luật hoạt động của các quá trình bệnh lý điển hình chung: Sinh lý bệnh học tìm cách khái quát hóa để tìm hiểu quy luật hoạt động của bệnh cũng như quy luật hoạt động của nguyên nhân gây bệnh, quy luật phát sinh phát triển của bệnh, của quá trình lành bệnh cũng như quá trình tử vong. 1
- Tất cả xuất phát từ hiện tượng đi tìm bản chất của vấn đề là tìm hiểu được bệnh là gì ? bệnh do đâu mà có ? bệnh tiến triển như thế nào? quá trình lành bệnh và tử vong xảy ra như thế nào? 2. Nội dung môn học Nội dung giảng dạy sinh lý bệnh gồm có hai phần: - Sinh lý bệnh đại cương: gồm các khái niệm và quy luật chung nhất về bệnh; sinh lý bệnh các quá trình bệnh lý chung. - Sinh lý bệnh cơ quan: nghiên cứu sự thay đổi của các chức năng và các cơ quan khi bị bệnh. II. Vị trí, tính chất và vai trò của môn học 1. Vị trí 1.1. Môn học tiền lâm sàng Sinh lý bệnh và môn Giải phẩu bệnh là hai môn học tiền thân của môn bệnh lý học hay nói một cách khác: trong quá trình phát triển từ nghiên cứu về thay đổi hình thái sang nghiên cứu về thay đổi chức năng của bệnh lý học, do vậy Sinh lý bệnh được xếp vào nhóm các môn học tiền lâm sàng, sinh viên được học trước khi chính thức học các môn lâm sàng và dự phòng bệnh 1.2. Nền tảng của môn Sinh lý bệnh Sinh lý học và Hoá sinh học là hai môn học cơ sở liên quan trực tiếp và quan trọng nhất của Sinh lý bệnh học bên cạnh các môn học liên quan khác như di truyền học, miễn dịch học, vi sinh.. .. Ngoài ra, Sinh lý bệnh còn phải vận dụng kiến thức của nhiều môn khoa học khác nữa, kể cả các môn khoa học cơ bản 2. Tính chất và vai trò 2.1. Tính chất tổng hợp 2
- Để làm sáng tỏ và giải thích các cơ chế bệnh lý, Sinh lý bệnh phải vận dụng những kết quả của nhiều môn học khác nhau. Phương pháp phân tích giúp cho khoa học đi sâu vào bản chất của sự vật một cách chi tiết và chính xác đồng thời hình thành nhiều chuyên khoa sâu chuyên biệt. Tuy nhiên, muốn tìm ra quy luật hoạt động chung thì phải có phương pháp tổng hợp tốt, nắm được cái gì là nguyên nhân, cái gì là hậu quả, cái gì là cốt lõi, cái gì là chính, cái gì là phụ để đi đến bản chất của vấn đề. Môn sinh lý bệnh, như định nghĩa đã nêu rõ; đi từ những hiện tượng bệnh lý cụ thể, tìm cách khái quát hóa thành những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh; tất nhiên đòi hỏi một đầu óc tổng hợp sắc bén. 2.2.Tính chất lý luận Sinh lý bệnh học cho phép giải thích cơ chế của bệnh và các hiện tượng bệnh lý nói chung, đồng thời làm sáng tỏ các quy luật chi phối sự hoạt động của cơ thể, cơ quan, tổ chức và tế bào khi bị bệnh. Do đó, trong đào tạo ngoài nhiệm vụ trang bị kiến thức môn học; trong đào tạo nó còn có nhiệm vụ trang bị phương pháp lý luận và cách ứng dụng các lý luận đó khi học các môn lâm sàng và nghiệp cụ khác. Sinh lý bệnh cung cấp cho người thầy thuốc quan điểm và phương pháp đúng, nghĩa là một quan điểm duy vật biện chứng và một phương pháp luận khoa học trong cách nhìn nhận, phân tích và kết luận về mọi vấn đề trong y học. Mọi người đều biết hiện tượng bệnh lý là một thực tại khách quan, nhưng nhìn nó theo góc cạnh nào, hiểu nó như thế nào là một vấn đề chủ quan của con người. Chính vì vậy mà trong lịch sử y học đã có biết bao học thuyết đối lập, trường phái khác nhau, biết bao cuộc đấu tranh ác liệt giữa quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật. Mục tiêu của sinh lý bệnh là xây dựng cho người thầy thuốc một quan điểm, một phương pháp suy luận trong y học. 3
- 2.3. Sinh lý bệnh là một trong những cơ sở của y học hiện đại Y học hiện đại kế thừa những tinh hoa của y học cổ truyền để phát triển và thay thế dần y học cổ truyền. Điều kiện để y học hiện đại ra đời là sự áp dụng phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu y học. Nhờ phương pháp thực nghiệm khoa học mà môn Giải phẩu học và Sinh lý học ra đời, tạo nền tảng vững chắc cho y học hiện đại phát triển. Hypocrate là ông tổ của y học cổ truyền cũng là ông tổ của y học hiện đại và của y học nói chung. Giải phẫu học và Sinh lý học là hai môn học quan trọng cung cấp những hiểu biết về cấu trúc và hoạt động của cơ thể con người bình thường. Trên cơ sở hai môn học trên, y học hiện đại nghiên cứu trên người bệnh để hình thành môn bệnh học và Sinh lý bệnh là môn học cơ sở. Hiện nay trong công tác đào tạo, Sinh lý bệnh được xếp vào môn học tiền lâm sàng, tạo cơ sở về kiến thức và phương pháp để sinh viên học tốt các môn lâm sàng. III. Phương pháp nghiên cứu trong sinh lý bệnh GS. Thomas “ Thực nghiệm trên súc vật và quan sát trên người bệnh là phương pháp cơ bản của sinh lý bệnh “. Phương pháp thực nghiệm trong Y học được Claude Bernard phát triển và tổng kết từ gần 200 năm trước đây, đã giúp cho các nhà Y học nói chung và Sinh lý bệnh nói riêng một vũ khí quan trọng trong nghiên cứu. Mục đích của y học thực nghiệm là phát hiện được những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh qua các mô hình thực nghiệm trên súc vật. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu xuất phát từ sự quan sát khách quan từ các hiện tượng tự nhiên (hiện tượng bệnh lý xảy ra), sau đó dùng các kiến thức hiểu biết từ trước tìm cách cắt nghĩa chúng (gọi là đề ra giả thuyết); sau đó dùng một hay nhiều thực nghiệm để chứng 4
- minh giả thuyết đúng hay sai (có thể thực nghiệm trên mô hình súc vật). 1.1. Quan sát và đặt giả thuyết Trước một hiện tượng bệnh lý, dù là nhà y học cổ truyền hay y học hiện đại, người ta đều quan sát và nhận xét những hiện tượng bệnh lý. Sau khi quan sát (chủ quan hay khách quan), người ta tìm cách cắt nghĩa và giải thích những điều quan sát được. Những người quan sát có thể đồng thời phát hiện giống nhau nhưng cũng có thể khác nhau; cũng có thể giải thích khác nhau về cùng một hiện tượng mà họ cùng quan sát; tuy nhiên những giải thích trên mang tính chủ quan của con người, tuỳ thuộc vào quan điểm triết học của người quan sát mà nội dung giải thích cũng khác nhau (duy tâm, duy vật, biện chứng hay siêu hình), tuỳ thuộc vào từng thời kỳ phát triển của y học mà ý nghĩa cũng thay đổi. Từ quan sát, Hypocrate (500 năm BC) đã cho rằng: dịch mũi trong do não tiết ra; thể hiện tình trạng cơ thể bị lạnh; máu đỏ do tim tiết ra, thể hiện tình trạng nóng; còn máu đen do lách tiết ra, thể hiện tình trạng ẩm; và mật vàng do gan tiết ra, thể hiện tình trạng khô. Mọi bệnh lý xảy ra do sự mất cân bằng của 4 chất dịch trên. - Quan sát thật tỉ mỉ, khách quan. Càng nhiều thông tin trung thực thì giả thuyết càng dễ gần chân lý . - Khi giải thích, càng vận dụng những kết quả lý luận đã co,ï càng làm cho việc đặt giả thuyết càng có nhiều cơ hội tiếp cận chân lý. Ngày nay, cần lưu ý đến những thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau, và tuỳ theo điều kiện cụ thể mà vận dụng cho thích hợp. Người bệnh đến với thầy thuốc với những triệu chứng, cần được phát hiện bằng mọi cách một cách khách quan. Trước tiên người thầy thuốc phải dùng ngũ quan của mình để quan sát; sau đó kết hợp với những phương tiện kỹ thuật cận lâm sàng để tăng cường phát hiện những hiện tượng mà khả 5
- năng quan sát con người không làm được. Các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò chức năng cho những kết quả khách quan, chính xác và nhạy hơn những điều mà bản thân thầy thuốc thu nhận được bằng ngũ quan của mình, song những kỹ thuật ấy cũng do con người làm ra nên chúng phải được tuân thủ những quy tắc và điều kiện thực hiện thì mới có đủ sức tin cậy. Khả năng quan sát của người thầy thuốc chỉ có thể phát triển khi được tiếp xúc với người bệnh thường xuyên. Sau khi có đầy đủ các dữ kiện ở người bệnh, người thầy thuốc hình thành trong trí óc của mình một mô hình bệnh lý nhất định. Đồng thời so sánh mô hình này với các mô hình khác (có được qua học tập, kinh nghiệm) để xem nó giống mô hình nào nhất và định hướng chẩn đoán phù hợp nhất. Như vậy chẩn đoán chỉ là một giả thuyết mà người thầy thuốc đặt ra dựa trên những quan sát khách quan thu được. 1.2. Chứng minh giả thuyết bằng thực nghiệm Đây là bước bắt buộc, nhưng Y học cổ truyền đã không có điều kiện thực hiện mà chỉ dừng lại ở bước 1, tức là quan sát; rồi giải thích sau khi thử áp dụng "Y lý" của mình trong thực tiễn. Các thực nghiệm khoa học thường xây dựng các mô hình thực nghiệm trên súc vật từ những quan sát lâm sàng để chứng minh cho các giả thuyết đề ra. Các thực nghiệm này được tiến hành chủ động cấp diễn hoặc trường diễn, cho các hình ảnh bệnh lý sinh động theo thời gian thực nghiệm. Thực nghiệm có thể tiến hành trên từng tổ chức, từng cơ quan cô lập và trên cơ thể nguyên vẹn; hoặc phối hợp với nhau và tiến hành trên cơ thể sống (in vivo) hoặc trong ống nghiệm (in vitro). Nếu chẩn đoán đúng thì quyết định được biện pháp điều trị thích hợp và bệnh khỏi. Như vậy điều trị cũng là một bằng chứng thực nghiệm. Cần lưu ý bằng chứng này cũng có những điều kiện riêng cuả nó. Ví dụ như 6
- sức đề kháng của cơ thể cần thiết cho quá trình tự khỏi của bệnh, hổ trợ cho người thầy thuốc cũng như điều trị và làm cho quá trình tự lành bệnh được nhanh hơn. Cũng có bệnh tuy chẩn đoán ra nhưng khoa học hiện nay vẫn chưa điều trị khỏi. Cuối cùng nếu bệnh quá nặng, điều trị không phù hợp thì người bệnh chết và phương pháp giải phẩu thi thể và chẩn đoán sinh thiết là một bằng chứng thực nghiệm vô cùng quý giá. Muốn có kết quả cần thiết phải có các phương pháp đúng, Claude Bernard:”Chỉ có những phương pháp tốt mới cho phép chúng ta phát triển và sử dụng tốt hơn những khả năng mà tự nhiên đã phú cho chúng ta”. Muốn vậy phải có được những nhận xét lâm sàng chính xác, khách quan; đề ra những giả thuyết đúng đắn, khoa học; tìm các phương pháp thực nghiệm thích hợp để chứng minh cho sự phù hợp giữa thực tế lâm sàng và giả thuyết đã nêu; từ đó rút ra được những quy luật chung nhất của bệnh lý và cuối cùng là ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả trong thực tế (đối với công tác phòng bệnh và điều trị). 1. Vận dụng phương pháp thực nghiệm trong lâm sàng Thầy thuốc là người làm khoa học, quá trình khám để phát hiện đúng bệnh giống như quá trình phát hiện chân lý, nghĩa là tuân thủ theo đúng các bước đi trên. Chẩn đoán bệnh thực chất là ứng dụng các bước của phương pháp thực nghiệm để tăng khả năng tìm ra được chân lý. Tác phong và đức tính của người thầy thuốc trong trường hợp này vẫn là tỉ mỉ, chính xác, trung thực. IV. Sinh lý bệnh soi sáng công tác dự phòng và điều trị Người ta có thể gây bệnh thực nghiệm và điều trị thực nghiệm trước khi ứng dụng vào lâm sàng, do đó hiểu rõ mối quan hệ giữa bệnh nguyên và bệnh sinh, hiểu rõ cơ chế phát sinh, phát triển và kết thúc của bệnh mà thầy thuốc biết khi nào cần điều trị. Có nhiều biện pháp điều trị 7
- như điều trị triệu chứng, điều trị nguyên nhân..v.v. Biện pháp điều trị triệu chứng chỉ sử dụng khi chẩn đoán nguyên nhân chưa rõ và khi biểu hiện bệnh lý quá mạnh có thể ảnh hưởng đến sinh mạng bệnh nhân như đau quá có thể gây sốc, sốt cao gây co giật ở trẻ em.v.v. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng vì nhiều khi có hại hơn có lợi và cũng chỉ là biện pháp đối phó. Điều trị nguyên nhân là đúng nhất vì đánh vào yếu tố gây bệnh. Song cũng có nhiều bệnh hiện nay chưa rõ nguyên nhân hoặc như trong nhiều bệnh có nguyên nhân đã rõ nhưng khi bệnh hình thành thì có thể diễn biến mạnh hơn, nguy hiểm cho người bệnh thì cần phải sử dụng khái niệm dự phòng trong điều trị tức là thông qua quy luật diễn biến nhất định của bệnh lý (sinh lý bệnh học của bệnh) mà đề ra những biện pháp điều trị thích đáng ngăn cản hoặc hạn chế những diễn biến xấu có hại. Sự hiểu biết về vai trò của nguyên nhân và điều kiện gây bệnh sẽ giúp cho việc đề ra kế hoạch phòng bệnh đúng. Có thể phòng bệnh bằng cách tiêu diệt và ngăn ngừa nguyên nhân phát triển, ngăn chặn các điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân nảy sinh (môi trường sống, các vectơ truyền bệnh, dinh dưỡng .v.v.), tăng cường sức đề kháng của cơ thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Triệu An. 2000. Đại cương Sinh lý bệnh học. NXB Y Học, Hà Nội. 2. Bộ môn Miễn dịch học - Sinh lý bệnh trường Đại học Y khoa Hà Nội (2002). Sinh lý bệnh. Nhà xuất bản Y học 3. Bộ môn Miễn dịch học - Sinh lý bệnh trường Đại học Y khoa TPHCM. (2000). Sinh lý bệnh. Nhà xuất bản Y học. 4. Ganong W (1996) Review of medical physiology. Nhà xuất bản Appeleton and Lange 8
- 5. Guyton A.C ; Hall J.E. Textbook of medical physiology. Nhà xuất bản W.B. Saunder company. 6. Harrison’s principles of internal medecine. Nhà xuất bản Mc Graw Hill. 7. Nguyễn Ngọc Lanh. 2002. Khái niệm về bệnh. Trong: Sinh lý bệnh (Nguyễn Ngọc Lanh chủ biên). Trang 16-30. NXB Y Học, Hà Nội. 8. Sigmund Freud. 1970. Phân tâm học nhập môn. Bản dịch của Nguyễn Xuân Hiếu. Trang 5-263. NXB Khai Trí. Sài Gòn. 9
- CHƯƠNG 2 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH I. Sơ lược sự phát triển về khái niệm bệnh 1. Bệnh theo quan niệm y học Đông phương 1.1. Trung quốc và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Trung quốc Y học Trung quốc cổ đại chịu ảnh hưởng của triết học, cụ thể là của Dịch học. Các nhà y học Trung quốc đã áp dụng Dịch lý vào trong Y lý vì cho rằng “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Cơ thể con người được xem như là một thế giới thu nhỏ (Nhân thân tiểu thiên địa) có liên quan đến các yếu tố nguyên thủy: Âm Dương, ngũ hành. Bảng 2.1: Tương quan giữa đại và tiểu vũ trụ theo kinh Dịch và Y dịch ĐẠI VŨ TRỤ TIỂU VŨ TRỤ Thái cực Toàn thân Lưỡng nghi Trên -dưới, Trái -phải Tứ tượng, Tứ thời Tứ chi Ngũ hành Ngũ tạng, Ngũ dịch, Ngũ giác quan 24 tiết 24 đốt xương sống Bát tiết, Bát chính. Bát môn, Kỳ kinh bát mạch. Cửu thiên, Cửu châu Cửu khiếu 12 tháng Sông ngòi 12 đốt khí quản, 12 kinh lạc Lục khí Huyết mạch 360 ngày của 1 năm Lục phủ, lục kinh Trong đại vũ trụ (cũng như trong cơ thể người) luôn có sự vận hành giữa 2 lực đối kháng: Âm-Dương. Chuđốt xương khi giải thích Thái cực 360 Liêm Khê đồ thuyết có nói: "Vô cực là thái cực, thái cực động mà sinh ra dương, động cực rồi 10
- tĩnh, tĩnh mà sinh ra âm, tĩnh cực rồi trở lại động, một động một tĩnh làm căn bản và giúp đỡ lẫn nhau, phân âm phân dương, lưỡng nghi lập thành, dương biến âm hợp mà sinh ra thủy, hỏa, mộc, kim, thổ,...” Khí âm dương luân chuyển biến hóa mà tạo ra ngũ hành, sự sinh khắc của ngũ hành là nguồn gốc của sự chế hóa trong vũ trụ. Hợp với nhau là sinh, là tiếp tục tiến hóa. Trái với nhau là khắc, là hạn chế sự tiến hóa. Trong sự vận hành của khí chất đã có sinh thì phải có khắc, có khắc thì phải có sinh, sinh khắc có mục đích giữ quân bình trong sự sinh hóa của vạn vật. Âm dương có hòa và ngũ hành có bình thì trời đất mới yên mà muôn loài được thành toại, sinh tồn. Vậy bệnh là do mất sự quân bình âm dương, ngũ hành. Nguyên nhân của sự mất quân bình nầy có thể là nội thương do trạng thái tâm lý thái quá (Thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, lạc, tăng, bi), là ngoại cảm do tiết khí (Lục khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa). Trị liệu bệnh căn cứ vào sự sinh khắc của ngũ hành (Hư: bổ, Thực: tả) để nhằm lập lại sự quân bình âm dương cho cơ thể. Lý luận âm dương ngũ hành có vẻ mơ hồ, trừu tượng nhưng các thầy thuốc Đông y khi áp dụng vào trong điều trị bệnh đã thu được kết quả rất khả quan, không thể phủ nhận. 1.2. Ấn Độ và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ Văn minh Ấn Độ cổ đại được phản ảnh trong bộ kinh Veda (được viết khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ thứ 7 trước CN) gồm 4 tập: Rig Veda (tụng niệm) trong đó có đề cập nhiều kiến thức y học, Sama Veda (ca vịnh), Ayur Veda (tế tự) và Atharva Veda (phù chú ma thuật) trong đó có bàn nhiều đến phẫu thuật. Y học Ấn độ cổ đại quan niệm sức khỏe hoặc bệnh tật là sự kết hợp hài hòa hoặc sự rối loạn của 3 yếu tố cấu tạo: Khí, dịch nhầy và mật, đồng 11
- thời chịu ảnh hưởng của thời tiết (mưa, nắng, bão) và thời gian (ngày, tháng, năm). Về các lãnh vực khác như giải phẫu học và phẫu thuật, dược học, triệu chứng học, vệ sinh và y học cộng đồng,... có nhiều tiến bộ ảnh hưởng đến các nền y học cổ đại Hy Lạp, La Mã và có tác động tích cực đến nền y dược học Tây phương sau nầy. Tuy nhiên cần nói thêm rằng y học Ấn Độ cổ đại chịu chi phối mạnh mẽ của triết thuyết Phật giáo, cho bệnh chỉ là một mắc xích trong vòng luân hồi sanh tử do nghiệp (Karma) tạo tác. Sở dĩ con người tạo nghiệp là do vô minh và dục, vì vậy điều trị khỏi bệnh không quan trọng bằng diệt dục để khỏi tạo nghiệp. Nghiệp mỗi khi không còn tạo tác, luân hồi sẽ dứt, bệnh theo đó cũng sẽ tiêu biến đi. Có lẽ triết thuyết nầy đã có ít nhiều tác dụng tiêu cực đến sự phát triển của nền y học Ấn. 2. Bệnh theo quan niệm y học Tây phương 2.1. Học thuyết thể dịch của Hippocrate Chịu ảnh hưởng những luận thuyết của Empedocles (thầy thuốc kiêm triết gia, 504-433 trước CN) coi nền tảng vật chất của thế giới gồm 4 yếu tố (đất, nước, lửa, không khí) tạo nên những biến đổi trong thiên nhiên (ấm, nóng, lạnh, khô), các yếu tố đó vừa kết hợp với nhau vừa đối kháng với nhau. Hippocrate (460-377 trước CN) cũng quan niệm hoạt động sống của cơ thể dựa trên 4 thể dịch: máu ở tim cũng khô như không khí, chất nhầy ở não cũng lạnh như nước, mật vàng ở gan cũng nóng như lửa, mật đen ở lách cũng ẩm như đất. Theo ông, sự tác động qua lại của các thể dịch đó quyết định không chỉ tính tình của mỗi con người (nóng nảy, trầm tĩnh, thờ ơ, buồn phiền) mà còn là nền tảng của sức khỏe và nguyên nhân của bệnh tật. Bệnh là do rối loạn các thể dịch đó. Ví dụ: có quá nhiều dịch nhầy ở khắp nơi như ở phổi (sẽ gây viêm, lao), ở ổ bụng (gây cổ chướng), ở ruột 12
- (gây ỉa lỏng, lỵ), ở trực tràng (gây trĩ),... Nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại cân bằng cho cơ thể bằng cách sử dụng các thuốc có những đặc tính của các dịch (thuốc mát, thuốc nóng, thuốc làm khô, thuốc làm ướt). Quan niệm nầy mặc dù thiếu cơ sở khoa học nhưng đã đặt một nền tảng vật chất cho sự hiểu biết, khác xa với những quan niệm siêu hình thần bí vốn thịnh hành trong thời đại đó. 2.2. Thuyết hóa học Trong đêm dài Trung cổ, y học và các ngành khoa học khác không tiến bộ thậm chí còn đi thụt lùi do sự thống trị của tôn giáo. Về cuối thời kỳ nầy, Paracelcius (1493-1541) một người thầy thuốc Đức nổi tiếng, nêu lên quan niệm cho rằng: - Lưu huỳnh, nguyên tố khí, biểu hiện sức mạnh của linh hồn - Thủy ngân, nguyên tố lỏng, biểu hiện các lực của trí tuệ - Các muối, cặn của chất đặc, biểu hiện nguyên lý của vật chất. Ba chất đó nối con người với vũ trụ và qua chúng, con người tham gia vào chuyển hóa chung của thiên nhiên. Bệnh là hậu quả của những rối loạn cân bằng các chất nói trên. Jean Baptiste van Helmont (1577-1644) và Sylvius (1614-1672) cho rằng mọi quá trình sinh lý trong cơ thể đều do hoạt động của các enzyme đặc hiệu khác nhau. Bệnh là một rối loạn hóa học enzyme trong cơ thể. Khái niệm hóa học về bệnh sang thế kỷ XX nhờ những tiến bộ trong ngành hóa và hóa sinh nên có nhiều thay đổi. Ngưởi ta ngày càng thấy rõ tính chất tương đối ổn định của các thành phần hóa học trong cơ thể. Hans Seley khi nghiên cứu về Stress đã đưa ra quan niệm bệnh là do rối loạn khả năng thích nghi của cơ thể (rối loạn tình trạng đối kháng giữa 2 loại hormone được tiết ra khi có stress. Ví dụ giữa mineralocorticoids và glucocorticoids). 13
- Linus Pauling phát triển khái niệm nầy bằng cách đưa ra danh từ bệnh lý phân tử để chỉ những bệnh có sai sót trong cấu trúc phân tử của các chất sinh học. 2.3. Thuyết cơ học Trong thời kỳ Phục hưng, sự phát triển vượt bậc của các môn khoa học như toán học, vật lý học,... đã dẫn đến một khái niệm mới về bệnh. Descartes (1596-1650) xem cơ thể con người như một bộ máy, quan niệm nầy được những người theo thuyết Y Vật lý (Iatrophysic) tán thành vì họ nhận thấy mọi hoạt động của cơ thể động vật đều dựa trên nền tảng hoàn toàn cơ giới. Ví dụ: Hoạt động của các cơ, xương như tác dụng của các lực lên trên những đòn bẩy. Hoạt động của tim và mạch máu không khác hoạt động của hệ thống bơm và các ống dẫn. Hoạt động chuyển hóa là một chuỗi các phản ứng hóa học nhằm đốt cháy thức ăn cung cấp năng lượng cho cơ thể. Do vậy, cơ thể bị bệnh cũng giống như một cỗ máy bị hỏng: “Cơ thể sống khác biệt với cơ thể chết như chiếc đồng hồ đang chạy khác biệt với những bộ phận đồng hồ bị tháo rời”. Schroedinger (1887-1961) thì cho rằng sự khác biệt giữa những sinh vật và những vật không phải sinh vật chỉ là sự khác biệt giữa một quá trình phức tạp với một quá trình đơn giản mà thôi. Khái niệm cơ học nầy hiện nay còn được thấy trong sự phát triển của môn phỏng sinh học (Bionic) và môn điều khiển học (Cybernetic). 2.4. Thuyết tế bào Thế kỷ XVIII là thời kỳ phát triển cao độ của môn hình thái vi thể (tổ chức học, bào thai học, giải phẫu bệnh) lại có thêm những thành tựu về quang học (phát minh kính hiển vi), về hóa học (phát minh thuốc nhuộm) nên đã thu được những thành tựu đáng kể. Phương pháp giải phẫu lâm sàng đã giúp cho việc so sánh bệnh cảnh lâm sàng với những thương tổn 14
- thấy được khi mổ tử thi dẫn đến khái niệm giải phẫu cục bộ về bệnh. Khái niệm nầy cho rằng bệnh có liên quan đến những thương tổn đầu tiên ở các cơ quan, bộ phận, ngăn cản cơ quan, bộ phận đó hoạt động. Morgani (1682-1771), Bichat (1771-1802), Rokitanski (1804-1878) qua kết quả những công trình giải phẫu đại thể, vi thể đã làm phát triển mạnh mẽ quan niệm bệnh học nầy. Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết nầy đạt đỉnh cao với công trình “Bệnh học tế bào” của Wirchov(1821-1902). Trong cuốn sách nầy ông đã kết luận rằng: " Đời sống của cơ thể là tổng số đời sống của những tế bào riêng lẻ đã hợp nhất trong cơ thể đó... Nơi diễn tiến các quá trình bệnh chính là bản thân tế bào và mô kế cận... Sự hoạt động không bình thường của tế bào là nguồn gốc của bệnh tật... Tôi chắc chắn rằng không một thầy thuốc nào có thể hiểu biết đầy đủ các quá trình bệnh lý nếu họ không cố gắng xác nhận nơi đã xảy ra bệnh tật... Cuối cùng mọi trường hợp bệnh đều dẫn ta tới nguyên ủy: tế bào. Tế bào là cơ sở vật chất, là hòn đá tảng của lâu đài y học...”. Wirchov cũng là người đã nêu lên một định đề nổi tiếng “Mỗi tế bào đều sinh ra từ một tế bào” (Omnis cellulae cellula). Armand Trousseau (1801-1867) nhà lâm sàng học người Pháp nhận xét : "Bệnh học tế bào đã quên mất con người mà chỉ chú ý đến những tế bào nhỏ bé, do đó đã bị chìm lấp trong muôn vàn những giá trị nhỏ bé” 2.5. Thuyết thần kinh luận Trường phái y học Nga với những công trình của Setchenov (1829- 1905), Botkin, Pavlov (1849-1936) đề ra thuyết thần kinh về bệnh. Theo thuyết nầy cho rằng hoạt động phản xạ của hệ thần kinh giúp cho việc bảo tồn sự hoạt động và sự toàn vẹn của cơ thể giữa những điều kiện luôn luôn thay đổi của môi trường sống. Sự kết hợp chặt chẽ của hoạt động vỏ não 15
- và dưới vỏ não, giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết có tác dụng điều hòa chính xác và kịp thời mọi hoạt động của con người, bảo đảm mối tương quan thống nhất giữa con người và ngoại cảnh. Bệnh là do rối loạn hoạt động của phản xạ của hệ thần kinh, rối loạn mối tương quan giữa những khu vực khác nhau của hệ thần kinh là cơ chế phát triển của bệnh. Thuyết thần kinh đã tuyệt đối hóa vai trò của vỏ não, làm cho thuyết nầy trở nên phiến diện và làm cản trở cho những nghiên cứu phát triển các ngành học khác như nội tiết, sinh hóa thần kinh, hệ thần kinh thực vật,... 2.6. Thuyết phân tâm học Sigmund Freud (1856-1939), thầy thuốc nổi tiếng người Áo cho rằng những hiện tượng kinh nghiệm thu nhận trong cuộc sống của con người chỉ trở thành ý thức (conscience) khi nó phù hợp với cái máy lọc xã hội (gồm những qui định của xã hội: ngôn ngữ, luân lý, và những đặc tính của xã hội: cấm kỵ). Những hiện tượng kinh nghiệm sống không phù hợp sẽ không được chuyển thành ý thức và sẽ bị dồn ép (pression) vào trong tiềm thức (insconcience) (còn gọi là vô thức) "Cá nhân không thể tự cho phép mình nhận thức những tư tưởng hay tình cảm khác với những khuôn mẫu của nền văn hóa mà hắn sống, do đó hắn buộc phải dồn ép chúng" (E. Fromm). Những tư tưởng hay tình cảm bị dồn ép vào trong tiềm thức đó không bị mất đi mà vẫn tồn tại và có năng lực sống riêng (Freud gọi là Libido), chúng tìm cách biểu hiện ra bên ngoài bằng: - Những hành vi sai lạc như: sự lỡ lời (viết sai, đọc sai, nghe nhầm), sự quên (tên người, chữ, dự định, cảm giác) hoặc sự lầm lẫn (đánh mất đồ vật, không tìm lại được đồ vật đã cất). Những hành vi sai lạc thực sự là những hành vi hoàn toàn đúng đắn, chỉ xuất hiện với mục đích thay thế cho hành vi mà người ta muốn làm hoặc đang chờ đợi. Trong cuốn Phân 16
- tâm học nhập môn, Freud nói: “Sự dồn ép một ý muốn nói một điều gì chính là điều kiện cần thiết cho sự phát sinh của một sự lỡ lời”. - Những giấc mơ. Cái tôi trong giấc mơ theo Freud, đã rũ bỏ được hết những ràng buộc về luân lý, thỏa mãn mọi sự đòi hỏi của bản năng tình dục, của bản năng luôn luôn bị nền giáo dục cấm đoán, những bản năng chống lại mọi sự kìm kẹp của luân lý. - Những tài năng trong thi ca, âm nhạc, hội họa,... - Những chứng bệnh tâm thần kinh, thậm chí cả một số bệnh thực thể. Vậy bệnh là sản phẩm của một sự dồn ép, do đó trị bệnh là phải tìm cách giải phóng cho những dồn ép đó (dépression) bằng phương pháp phân tâm học (psychanalyse). II. Một số điểm cần chú ý để hiểu khái niệm bệnh Theo tiến hóa luận, mọi sinh vật khởi điểm từ những chất hữu cơ, được tổ chức lại thành các sinh vật bậc thấp (cơ thể đơn bào) rồi tiếp tục tiến hóa thành các sinh vật bậc cao (cơ thể đa bào). Sinh vật bậc cao với những cơ quan có những hoạt động biệt hóa và chức năng khác nhau nhưng đều nhằm đếïn một mục đích chung là duy trì sự sống cho cơ thể sinh vật đó. Vì vậy, từ thế giới vi mô sang vĩ mô, tất cả những màng ngăn cách (màng nhân, màng tế bào, màng mạch, da,...) chỉ có tính chất tương đối do chúng có quan hệ trao đổi chất, quan hệ tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau nhưng vẫn giữ được tính chất riêng của nó. Như thế, sinh vật nói chung và con người nói riêng có tính thống nhất giữa nội môi và ngoại môi. Thống nhất nhưng vẫn có mâu thuẩn vì ngoại môi thì luôn luôn thay đổi, biến động trong khi nội môi thì đòi hỏi một sự ổn định để có thể hoạt động bình thường. Muốn duy trì được sự ổn định của nội môi, cơ thể phải có khả năng thích nghi bù trừ. 17
- Quan niệm như thế sẽ giúp cho người thầy thuốc có được một thái độ xử lý đúng về bệnh trong thực tế cuộc sống như sau: 1. Bệnh có tính chất của một cân bằng mới kém bền vững Sự hằng định của nội môi là kết quả của một cân bằng sinh lý: sinh sản = hủy hoại. Ví dụ glucose máu, hồng cầu,... Khi cơ thể bị bệnh vẫn có một sự cân bằng, đó là cân bằng bệnh lý: Yếu tố gây bệnh ( hủy hoại bệnh lý = Phản ứng cơ thể ( phòng ngự sinh lý. Cân bằng bệnh lý là một cân bằng kém bền, thay đổi theo hướng hồi phục về cân bằng sinh lý (nếu cân bằng lệch về phòng ngự sinh lý) hoặc diễn tiến theo chiều hướng ngày càng trầm trọng để đi đến kết thúc là tử vong (nếu cân bằng nghiêng về hủy hoại bệnh lý). Tóm lại, yếu tố gây bệnh tác hại lên cơ thể sống làm rối loạn hoạt động bình thường kéo cơ thể về một chiều, phản ứng cơ thể qua sự phòng ngự, kéo cơ thể về chiều đối nghịch. Kết quả sẽ tạo ra một cân bằng mới kém bền vì, hoặc đưa đến hồi phục hoặc đi đến tử vong. Thái độ cần có: Tôn trọng cân bằng sinh lý. Điều trị là nhằm hạn chế những hiện tượng hủy hoại bệnh lý, tăng cường sự phòng ngự sinh lý nhằm đưa cơ thể bị bệnh sớm trở về lại cân bằng sinh lý bình thường. 2. Bệnh giới hạn khả năng thích nghi của cơ thể Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một sự hằng định để hoạt động. Tình trạng đó bắt buộc cơ thể bình thường phải luôn luôn tìm cách vận dụng những cơ chế thích nghi mạnh mẽ để đối phó lại với những thay đổi thường xuyên và đột ngột của môi trường và hoàn cảnh sống. Khi cơ thể bị bệnh, khả năng thích nghi vẫn còn song rõ ràng nó đã bị hạn chế rất nhiều. Ví dụ khả năng điều hòa nhiệt ở người bị sốt, khả năng điều hòa glucose máu trên những bệnh nhân xơ gan,... 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Sinh lý bệnh chức năng thận - Ths. Vương Mai Linh
27 p | 732 | 112
-
Bài giảng Sinh lý bệnh và miễn dịch: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
104 p | 17 | 5
-
Bài giảng Sinh lý bệnh và miễn dịch: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
87 p | 17 | 4
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 2 - PGS.TS. Lê Văn Quân
15 p | 5 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 6 - PGS.TS. Lê Văn Quân
31 p | 8 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 7 - PGS.TS. Lê Văn Quân
25 p | 5 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 1 - PGS.TS. Lê Văn Quân
16 p | 5 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 10 - PGS.TS. Lê Văn Quân
41 p | 8 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 11 - PGS.TS. Lê Văn Quân
33 p | 9 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 9 - PGS.TS. Lê Văn Quân
27 p | 4 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh chức năng tiết niệu - Học viện Quân Y
61 p | 2 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh tuần hoàn - Học viện Quân Y
73 p | 5 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh tiêu hóa - Học viện Quân Y
71 p | 7 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh chức năng gan - Hoàng Thị Thanh Thảo
88 p | 6 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh máu và tạo máu - Hoàng Thị Thanh Thảo
105 p | 6 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh điều hòa thân nhiệt sốt - Hoàng Thị Thanh Thảo
52 p | 3 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh viêm
47 p | 4 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 12 - PGS.TS. Lê Văn Quân
47 p | 5 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn