intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thảo luận Quản trị công nghệ: Vai trò của công nghệ đối với hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam

Chia sẻ: Tri Nam | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

249
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thảo luận Quản trị công nghệ: Vai trò của công nghệ đối với hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam trình bày những vấn đề cơ bản về công nghệ, các thành phần cấu thành của công nghệ, phân loại công nghệ, vai trò của công nghệ đối với doanh nghiệp, khái niệm công nghệ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thảo luận Quản trị công nghệ: Vai trò của công nghệ đối với hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam

  1. LỜI MỞ ĐẦU Kinh tế thế giới đặc biệt là ở các nước phát triển đang ngày càng tăng lên không ngừng. Bước sang thế kỷ 21 thế giới đang chứng kiến những biến đổi lớn lao trong mọi lĩnh vực từ sản xuất kinh doanh, phục vụ đến hoạt động văn hoá quản lý xã hội. Cùng với sự bùng nổ thông tin mạnh mẽ đã đang làm thế giới chuyển sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tin học. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khá quan trọng của những biến đổi này là sự tác động mạnh mẽ và sâu rộng của tiến bộ khoa học và công nghệ. Đặc biệt trong thời đại thông tin đang chi phối gần như toàn bộ nền thương mại thế giới buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải khẳng định được chỗ đứng của mình trên thương trường không còn con đường nào khác là phải đổi mới các trang thiết bị ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm đem lại hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự điều tiết và quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp xúc với thị trường thế giới với những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cùng mô hình tổ chức và phương pháp quản lý mới hiện đại. Đối với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì công cuộc đổi mới càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết vì thiết bị phục vụ cho sản xuất trong các doanh nghiệp công nghiệp của ta còn rất lạc hậu, năng suất lao động rất thấp, bên cạnh đó việc đầu tư đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất ở các doanh nghiệp công nghiệp nước ta nhiều bất cập. Để chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển công nghiệp hiện đại từ điểm xuất phát thấp nước ta không thể đi theo các bước tuần tự như các nước đi trước đã làm mà phải phát triển theo kiểu nhảy vọt rút ngắn, đây là cơ hội tận dụng lợi thế về khoa học công nghệ của các nước phát triển sau vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Thấy rõ được vai trò hết sức quan trọng của công nghệ, tôi quyết định chọn đề tài: “Vai trò của công nghệ đối với hoạt động của doanh nghiệp. Liên hệ ở một số doanh nghiệp tại Việt Nam”. Dù đã cố gắng hết mình song vẫn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ cô giáo và các bạn sinh viên. Xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. Những vấn đề cơ bản về công nghệ. 1. Khái niệm về công nghệ
  2. Công nghệ là một sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để sản xuất ra của cải vật chất , tuy vậy cho đến tận bây giờ, định nghĩa về công nghệ lại chưa hoàn toàn thống nhất. Điều đó được giải thích là do số lượng các loại công nghệ có nhiều đến mứckhông thể thống kê hết được, ngay một sản phẩm lại có nhiều công nghệ khác nhau nên những người sử dụng công nghệ ở trong các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau sẽ dẫn đến sự hiểu biết của họ về công nghệ không thể giống nhau. Xuất phát từ các luận điểm trên, chúng ta thừa nhận một số định nghĩa thông dụng nhất hiện nay.  Theo tổ chức ESCAP (Ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á-Thái Bình Dương) đưa ra định nghĩa “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Công nghệ bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ.”  Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc UNIDO “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp”.  Ở Việt Nam, theo luật chuyển giao công nghệ (2006) “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết, kỹ thuật,có kềm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm” 2. Các thành phần cấu thành của công nghệ  Phần vật tư kỹ thuật Công nghệ hàm chứa trong các vật thể bao gồm các công cụ, thiết bị, máy móc, phương tiện và các cấu trúc hạ tầng xây dựng như nhà xưởng. Trong công nghệ sản xuất, các vật thể này thường làm thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi. Đây là phần cốt lõi của công nghệ  Phần con người Công nghệ được hàm chứa trong khả năng công nghệ của con người vận hành sử dụng công nghệ bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học hỏi tích lũy được trong quá trình hoạt động. Nó cũng bao gồm các tố chất của con người như tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức lao động…  Phần thông tin
  3. Công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư liệu hóa để sử dụng trong các hoạt động đối với công nghệ bao gồm các dữ liệu về máy móc, về phần con người và phần tổ chức  Phần tổ chức Công nghệ hàm chứa trong các khung thể chế dể xây dựng cấu trúc tổ chức: những quy định về trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ, sự phối hợp của các cá nhân trong hoạt động của công nghệ; những quy định đào tạo công nhân, bố trí sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng tốt nhất phần vật tư kỹ thuật và phần con người. 3. Phân loại công nghệ Tuỳ theo mục đích, người ta phân loại các công nghệ như sau: • Theo tính chất: Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ, công nghệ thông tin, công nghệ đào tạo. • Theo ngành nghề: Công nghệ công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ vật liệu. • Theo sản phẩm: Phân theo sản phẩm mà công nghệ sản xuất ra: công nghệ xi măng, năng lượng, ô tô, xe đạp… • Theo đặc tính công nghệ: Công nghệ đơn chiếc, hàng loạt, liên tục. • Theo mức độ hiện đại: Cổ điển, trung gian, tiên tiến. • Theo đặc thù: Then chốt, truyền thống, mũi nhọn • Theo mục tiêu: Dẫn dắt, thúc đẩy phát triển. • Theo đặc thù của công nghệ: Công nghệ cứng, công nghệ mềm. II. Vai trò của công nghệ đối với hoạt động của doanh nghiệp 1. Đối với hoạt động bán hàng Bán hàng là khâu cuối cùng và đóng vai trò quyết định phát triển lưu thông hàng hoá, đưa hàng hoá từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng và chuyển hàng hoá thành tiền tệ. Để kinh doanh có hiệu quả ngoài những kỹ năng kinh doanh có sẳn còn đòi hỏi sự nhạy bén cập nhật thông tin thị trường một cách nhanh nhất của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nước ta hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp trẻ, tuy chưa có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh nhưng họ năng động và có tính sáng tạo cao, nhạy bén với thị trường kinh doanh.Vậy nên họ rất quan tâm tới hoạt động bán hàng
  4. của doanh nghiệp mình và hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động bán hàng. Ngoài việc sử dụng những hình thức bán hàng cổ điển như bán buôn công nghiệp, bán lẻ cho các đại lý, doanh nghiệp còn sử dùng nhiều hình thức bán hàng mới nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng tới sản phẩm của mình. Đặc biệt là áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ thông tin vào phục vụ cho việc bán hàng. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật tiên tiến và công nghệ thông tin thì các hình thức bán hàng ngày càng phong phú đa dạng, nên mỗi một doanh nghiệp đều tìm cho mình một cách bán hàng hợp lý, áp dụng một cách triệt để như bán hàng qua điện thoại, ti vi, báo, đài, bưu điện, thư tín…đặc biệt là sử dụng mạng internet vào hoạt động bán hàng giúp việc bán hàng trở nên nhanh chóng và thuận lợi hơn. Bên cạnh đó việc nhập thêm cách máy móc, trang thiết bị hiện đại giúp việc bán hàng được dễ dàng hơn giảm thời gian chờ của khách hàng. Đặc biệt, trong thời gian hiện nay có nhiều doanh nghiệp sử dụng các máy bán hàng tự động vừa giảm số lượng nhân viên bán hàng vừa giúp cho khách hàng thuận tiện hơn trong việc mua hàng. Cùng với đó là các phần mền quản lý bán hàng như phần mềm quản lý Tiger Pro Pro cho phép phân quyền chi tiết đến từng chức năng trong hệ thống, định nghĩa nhiều đơn vị tính phục vụ cho công tác bán hàng và nhập hàng theo đơn vị tính: thùng, hộp, cái, chiếc… Cho phép tiến hành gói hàng, quà khuyến mại trong các dịp lễ tết, ngày hội của siêu thị. Tích hợp với cân điện tử để in mã vạch và tính tiền đối với siêu thị rau củ quả, hải sản…; quản lý hạn sử dụng của các mặt hàng, đưa ra các cảnh báo về hạn sử dụng giúp cho bộ phận nhập hàng và bán hàng có kế hoạch đối với những mặt hàng sắp hết sạn sử dụng (Điều này đặc biệt quan trọng đối với những mặt hàng thực phẩm có Date) và quản lý hàng hóa theo Serial để nhập xuất phục vụ bảo hành sản phẩm tại siêu thị (ứng dụng trong các mô hình siêu thị điện máy) • Giúp người lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định nhanh và chính xác cho các chi nhánh dựa trên hệ thống các báo cáo chính xác. • Giúp người quản lý doanh nghiệp tăng khả năng kiểm soát các hoạt động giao dịch của các cửa hàng, siêu thị trong toàn bộ hệ thống chuỗi của doanh nghiệp. • Khắc phục được tình trạng hàng tồn kho tại các chi nhánh và khai thác nguồn hàng từ các nhà cung cấp. • Cải tiến quy trình quản lý trong hệ thống chuỗi các cửa hàng, siêu thị. • Tiết kiệm thời gian giữa các khâu: mua hàng, bán hàng, kiểm kê hàng tồn kho và tính toán lập báo cáo.
  5. • Cắt giảm chi phí tồn kho và tránh tình trạng hết hàng tồn kho. Tuy nhiên áp dụng các công nghệ vào việc bán hàng này còn rất mới mẻ so với đất nước ta nên chưa áp dụng rộng rãi và đồng bộ với tất cả các doanh nghiệp. Nhưng đây là một tiềm năng, một hình thức bán hàng tương lai để cho các doanh nghiệp khai thác và phát triển. 2. Đối với hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm Hiện nay, bất kể ngành nghề, lĩnh vực nào cũng đề cao yếu tố nhanh - gọn - hiệu quả và ứng dụng công nghệ chính là giải pháp tối ưu cho những yêu cầu này. Nhờ thường xuyên cập nhật công nghệ hiện đại, các doanh nghiệp tiến hành quảng cáo có thể dễ dàng tối ưu hóa chi phí (xét về mặt lâu dài), thời gian và tăng tốc mạnh mẽ. Đồng thời, việc cập nhật và ứng dụng các công nghệ mới giúp tăng cường tính năng tương tác, kiểm soát hiệu quả kinh doanh, nhất là các ứng dụng về đánh giá, đo kiểm và phân tích. Mặt khác, quảng cáo trực tuyến còn có thể tạo nên bước tiến khi liên kết chặt chẽ với các trang thương mại điện. Tận dụng công nghệ còn là bước đệm để quảng cáo trực tuyến dễ dàng bắt nhịp với xu thế, nhu cầu, thị hiếu và thói quen sử dụng của doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng. Minh chứng cụ thể chính là sự nở rộ của các sản phẩm điện tử hay những ứng dụng mới trên nền tảng công nghệ thông tin như: smartphone, máy tính bảng, mạng xã hội… đã tạo điều kiện cho quảng cáo trực tuyến đa dạng hóa, mở rộng quy mô, đối tượng tác động một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Trên thực tế, những xu thế công nghệ mới luôn thu hút được sự quan tâm và tạo nên rất nhiều trào lưu trong đời sống hiện đại. Theo tổng hợp mới nhất, đã có 326 tỷ lượt xuất hiện của banner trên Facebook, trải rộng trên 205 quốc gia với 70% là sự xuất hiện quảng cáo thuộc các ngành tài chính, bán lẻ, game và giải trí. Điều này cho thấy các nhà quảng cáo trực tuyến đang chớp lấy thời cơ này để tạo ra lợi nhuận. 3. Đối với hoạt động thiết kế sản phẩm Đổi mới là phát triển các sản phẩm và các sản phẩm này thực sự tạo ra nhu cầu và sự hứng thú. Những sản phẩm tiêu dùng sáng tạo nhất được đưa ra thị trường bởi những công ty luôn tập trung vào việc thiết kế như một hoạt động chủ chốt. Việc thiết kế ở khía cạnh tốt nhất của nó mang đến những giá trị còn hơn cả những giải pháp cho sản phẩm mới. Nó còn có thể giải quyết những vấn đề khó khăn trong nội bộ công ty hay những thử thách mới của môi trường kinh doanh. Tiếp cận bất kỳ vấn đề nào theo hương hội nhập đều mang lại kết quả tốt đẹp. Ngoài ra, việc áp dụng các ý tưởng thiết kế như một chiến lược kinh doanh chung, chính xác là việc mà bất kì
  6. công ty nào đang hoạt động trong môi trường kinh tế cực kỳ sôi động ngày nay đều cần phải làm. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, công việc thiết kế sản phẩm đã trở nên nhanh chóng và tiện lợi hơn rất nhiều. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng và mua các phần mềm chuyên dụng cho việc thiết kế sản phẩm. Các phần mền này giúp các doanh nghiệp có thể xem xét, thiết kế sản phẩm của mình dưới định dạng đa chiều nhìn rõ hình ảnh sản phẩm kể cả khi nó chưa được sản xuất mà điển hình là phần mềm CAD - Computer Aided Design: Thiết kế trợ giúp bằng máy tính. Mục tiêu của lĩnh vực CAD là tự động hóa từng bước, tiến tới tự động hóa cao hơn trong thiết kế sản phẩm. Đây là một phương pháp hiện đại để thiết kế sản phẩm hoặc thiết kế quy trình dựa trên sức mạnh của máy tính. CAD bao phủ nhiều công nghệ tự động, như đồ hoạ vi tính nhằm khảo sát những hình ảnh ảo của một sản phẩm và kỹ thuật với sự hỗ trợ của máy tính nhằm đánh giá các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm gồm những công nghệ liên quan đến việc thiết kế quy trình sản phẩm, như hoạch định quy trình sản xuất với sự hỗ trợ của máy tính. Hệ thống CAD phức tạp có thể thực hiện các thử nghiệm giả, thay thế các công đoạn đầy đủ của quá trình thử nghiệm mẫu và bổ sung mẫu. Có vai trò giúp: + Nâng cao năng suất vẽ và thiết kế. + Rút ngắn thời gian kể từ khi nhận đơn đặt hàng đến khi giao sản phẩm. + Cho phép phân tích, thiết kế một cách cụ thể và hiệu quả hơn. + Giảm sai sót trong thiết kế. + Các tính toán trong thiết kế đạt độ chính xác cao hơn. + Dễ dàng tiêu chuẩn hoá trong thiết kế... 4. Đối với hoạt động sản xuất Mục đích của việc coi trọng thúc đẩy tiến bộ khoa học đổi mới công nghệ là nhằm tăng năng suất lao động, đổi mới mặt hàng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường không có sản phẩm nào mà chu kỳ sống của nó tồn tại quá lâu. Các nhà doanh nghiệp luôn phải tính toán trong thời gian bao lâu nên thay đổi sản phẩm và thay đổi như thế nào. Điều này chỉ thể hiện được nếu doanh nghiệp có một chiến lược sản phẩm đúng đắn tức là đổi mới nhanh công nghệ tạo ra sản phẩm mới với chất lượng tốt. Nhân tố
  7. quyết định sự thành công là chính bản thân sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm ở đây có thể là hàng hoá hoặc cũng có thể là một dịch vụ có khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường. Do vậy mục tiêu của đổi mới công nghệ là làm đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường. Trong khi sự thay đổi công nghệ nói chung đều tác động đến hầu hết mọi ngành công nghiệp, thì đôi khi có một số thay đổi công nghệ chỉ tác động trong một ngành công nghiệp duy nhất. Ví dụ, gạch bông là một tiến bộ công nghệ diễn ra duy nhất trong ngành công nghiệp xây dựng. Còn lại hầu hết những tiến bộ công nghệ trong những thập niên gần đây đều có một ý nghĩa lớn và tác động rộng đối với nhiều ngành công nghiệp. Nhìn chung, những tiến bộ trên mang lại sự tự động hoá nhiều hơn trong quá trính sản xuất, trong đó máy móc được sử dụng thay thế trong các quy trình do con người thực hiện. Những ví dụ về các loại máy móc chính trong công nghệ sản xuất là thiết bị điều khiển bằng số, trạm nhóm các máy điều khiển bằng số, robô công nghiệp, hệ thống sản xuất và thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính (CAD, CAM), hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS), hệ thống điều khiển và hoạch định sản xuất tự động, và hệ thống sản xuất điều khiển bằng máy tính. Sau đây, chúng tôi sẽ mô tả chi tiết về các loại công nghệ trên, đặc biệt là công nghệ sản xuất điều khiển bằng máy tính và công nghiệp thiết kế với sự hỗ trợ của máy tính. - Thiết bị điều khiển bằng số bao gồm máy công cụ điều hành được sử dụng nhằm xoay, khoan, mài các chi tiết khác nhau của nhiều bộ phận; và một máy vi tính điều khiển các trình tự thực hiện của máy công cụ. Thiết bị điều khiển bằng số lần đầu tiên được sử dụng tại các doanh nghiệp không gian Hoa Kỳ vào năm 1960 và từ đó được sử dụng nhiều ở các ngành khác. Trong nhiều mô hình về phần phản hồi những thông tin điều khiển gần đây nhằm xác định vị trí của máy công cụ trong suốt quá trình làm việc, nhằm so sánh vị trí thực của máy so với vị trí của máy theo chương trình, và thực hiện sửa chữa khi cần thiết. - Trạm nhóm điều khiển bằng máy thể hiện tính tự động hoá và linh động cao hơn so với thiết bị điều khiển bằng máy. Các trạm máy không chỉ cung cấp các máy móc điều khiển tự động mà còn mang những công cụ và những công cụ này được thay đổi tự động cho phù hợp với yêu cầu của từng hoạt động tác nghiệp. Ví dụ, một máy đơn có thể được trang bị một hệ thống vận chuyển con thoi giữa hai vị trí làm việc để có thể cuốn vào hoặc chuyển đi. Trong khi công việc được thực hiện tại bàn này, thì bộ phận này được đưa đi và bộ phận thứ 2 được chuyển đến vị trí và công cụ cần thiết được đưa đến và được phân công để thực hiện công đoạn kế tiếp.
  8. - Rôbô công nghiệp là những bộ phận hỗ trợ cho các công việc thực hiện bằng tay và lặp đi lặp lại nhiều lần. Một rôbô là một thiết bị đã được lên chương trình trước và đa chức năng, và có thể được trang bị cánh tay cơ học (như kẹp, hoặc công cụ dùng để ráp bulông hoặc để hàn, sơn) được dùng để thực hiện công việc lặp đi lặp lại như nhặt hoặc đặt các thiết bị, hàn, sơn. - Công nghệ nhóm , đây là phương pháp sản xuất dựa trên việc phân loại, mã hoá, nhóm các phần và quy trình dựa trên một hoặc nhiều yếu tố như hình dáng, nguyên liệu, và hoạt động tác nghiệp sản xuất và công nghệ yêu cầu trong sản xuất. Nó được sử dụng một cách rộng rãi trong việc xác định các ô của các nhóm thiết bị có liên quan với nhau theo từng họ của các chi tiết, và cũng được gọi là sản xuất theo ô Cho phép: + Hoàn thiện khâu thiết kế và tăng tính tiêu chuẩn hoá của thiết kế. + Giảm khối lượng công việc trong khâu xử lý vật liệu. + Giảm thời gian chuẩn bị sản xuất, thời gian sản xuất. + Đơn giản hoá việc lập qui trình sản xuất và rút ngắn chu kỳ sản xuất... - Các hệ thống vận chuyển nguyên liệu tự động (AMH) giúp cải thiện hiệu quả của quá trình vận chuyển, lưu kho, và dự trữ nguyên liệu. Ví dụ như các băng tải cơ giới, hệ thống tự động đặt các chủng loại nguyên liệu; và hệ thống thiết bị hướng dẫn nhiều vị trí trong nhà máy, ích lợi của hệ thống AMH là giúp vận chuyển nguyên liệu nhanh hơn, giảm tồn kho và giảm không gian dự trữ, giảm thiệt hại sản phẩm và hiệu suất lao động tăng lên. - Hệ thống sản xuất linh hoạt (FMS) là nói đến một loạt các hệ thống khác nhau ở mức độ cơ giới hoá, di chuyển tự động, và điều khiển bằng máy. Một FMS là một hệ thống được thể hiện với sự gia tăng máy móc và sự tự động: modun sản xuất linh hoạt, theo ô, nhóm, hệ thống sản xuất, và dây chuyền. Các ưu điểm: + Tăng tính linh hoạt. + Xử lý nhiều loại vật liệu. + Giảm giá thành, giảm chi phí cho dụng cụ cắt. + Tăng hệ số sử dụng máy.
  9. + Giảm phế liệu. + Giảm mặt bằng sản xuất. + Tăng năng suất lao động. + Nâng cao chất lượng sản phẩm... CAM - Computer Aided Manufacturing: Chế tạo sản xuất có sự trợ giúp của máy tính. Mục tiêu của CAM là: Mô phỏng quá trình chế tạo, lập trình chế tạo sản phẩm trên các mấy công cụ tự động CNC (Computer Numerical Control –Điều khiển số dùng máy tính). Quá trình CAM được thực hiện trên hệ thống máy công cụ điều khiển số NC, CNC. Ưu điểm của CAM: + Tăng năng suất lao động. + Nâng cao chất lượng sản phẩm. + Giảm diện tích sản xuất. + Đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng. + Cải thiện điều kiện làm việc của công nhân... - Hệ thống sản xuất tích hợp máy tính (CIM) là một phiên bản tự động của quy trình sản xuất chung, trong đó ba chức năng sản xuất chính là thiết kế quá trình và thiết kế sản phẩm; hoạch định và kiểm tra, và bản thân quy trình sản xuất đã được thay thế bởi công nghệ tự động đã được mô tả . Xa hơn nữa, máy móc tích hợp truyền thống dựa trên cơ sở liên lạc là viết và nói được thay thế bởi công nghệ máy tính. Những hệ thống sản xuất tích hợp và tự động cao như trên còn có tên gọi là: nhà máy tự động toàn diện hoặc nhà máy của tương lai. Việc áp dụng công nghệ tiên tiến này vào sản xuất một mặt sẽ cho phép doanh nghiệp cải tiến đổi mới chất lượng sản phẩm của mình. Mặt khác cũng làm tăng năng suất lao động tiết kiệm tối đa các yếu tố chi phí tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá thành và hạ giá bán. Đặc biệt đó là việc tìm ra các vật liệu nhân tạo càng ngày càng cạnh tranh mạnh mẽ và thay thế cho các vật liệu truyền thống được tạo ra từ tài nguyên thiên nhiên. Nhưng để đạt được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư thích đáng trong việc đổi mới công nghệ với những công nghệ hiện đại nhất và phù hợp nhất với hoàn cảnh và loại hình của doanh nghiêp.
  10. Tuy nhiên trong thực tiễn không phải doanh nghiệp nào có vốn cũng đều mua được kỹ thuật hiện đại và đều tiêu thụ có lãi. Bởi vì điều này đôi khi lại do giá cả và thị hiếu của người tiêu dùng. Vì vậy khi quyết định phương án đổi mới doanh nghiệp phải có luận chứng kinh tế kỹ thuật trên hai mặt: khối lượng đầu tư và khả năng tiêu thụ và nắm bắt thông tin kỹ thuật chính xác nhạy bén, quyết định kịp thời mới có thể đầu tư công nghệ tiên tiến với khả năng thích ứng. 5. Đối với hoạt động nghiên cứu thị trường Trong thời buổi công nghệ thông tin hiện tại, việc có được thông tin tưởng chừng như dễ dàng, thế nhưng giữa hàng ngàn thông tin thật giả lẫn lộn tràn ngập khắp nơi thật khó mà xác định được thông tin nào thực sự chính xác và đầy đủ nhất. Do vậy, nghiên cứu thị trường là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thông tin của các doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường không chỉ hữu dụng trong khi nền kinh tế phát triển mạnh mà ngay cả trong bối cảnh kinh tế ảm đạm hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đang loay hoay tìm cách tháo gỡ các khó khăn. Tất nhiên, nghiên cứu thị trường không phải là “cây đũa thần” để có thể giúp doanh nghiệp giải quyết tất cả các khó khăn trong kinh doanh nhưng nó có thể giúp doanh nghiệp hiểu được những cơ hội và thách thức của thị trường thông qua tìm hiểu khách hàng của họ đang cần gì, xu thế tiêu dùng trong thị trường như thế nào... Từ những thông tin trên, doanh nghiệp có thể điều chỉnh hoạt động sản xuất hoặc sản phẩm, giá bán, kênh phân phối và các chương trình khuyến mãi để tiếp cận, thỏa mãn nhu cầu và xây dựng lòng trung thành của khách hàng một cách hiệu quả nhất, trong giới hạn ngân sách tiếp thị của doanh nghiệp. Điều đó cho thấy hoạt động nghiên cứu thị trường là một công việc không thể thiếu khi một doanh nghiệp bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy hiện nay các doanh nghiệp đang từng bước áp dụng các phương tiện công nghệ để tiến hành nghiên cứu thị trường sử dụng các công nghệ, phần mềm phân tích, phương tiện thông tin để thu thập các dữ liệu thị trường một cách chính xá từ đó đưa ra các giải pháp cho doanh nghiệp của mình để phù hợp với biến động thị trường và nhu cầu của khách hàng. 6. Đối với hoạt động thanh toán
  11. Trong hoạt động thanh toán của các doanh nghiệp, công nghệ cũng góp một vai trò quan trọng. Với nhiều các hình thức thanh toán đa dạng sử dụng công nghệ tiên tiến như thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ; các hình thức thanh toán trực tuyến qua các website đang ngày càng diễn ra rộng rãi hơn. Ngoài ra còn đầu tư mua các trang thiết bị cho việc thanh toán, các máy thanh toán tự động, hệ thống POS... Trên nền tảng công nghệ thông tin, đặc biệt là internet, hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam trong những năm qua đã có sự phát triển mạnh mẽ. Theo kết quả điều tra của Bộ Công thương cuối năm 2009 cho thấy, gần như 100% doanh nghiệp được điều tra đã tổ chức triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở nhiều quy mô và mức độ khác nhau và phát triển trên hầu khắp các tỉnh thành của cả nước. Cùng với đó, hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ trực tuyến trên internet đã từng bước phát triển và dần trở nên quen thuộc. Nhờ đó, hoạt động thanh toán đã có những bước phát triển đáng kể và đang ngày càng thể hiện vai trò và lợi thế vượt trội so với các phương tiện thanh toán truyền thống trước đây. Từ năm 2008 đến nay, các dịch vụ, phương tiện thanh toán đã được phát triển mạnh mẽ và đa dạng dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ như internet banking, mobile banking, ví điện tử,… đang dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn 2 đã hoàn thành kết nối 63 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, đánh dấu một giai đoạn mới của hệ thống thanh toán ngân hàng với những thay đổi cơ bản về kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp vụ hiện đại theo thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu thanh, quyết toán tức thời và số lượng giao dịch thanh toán ngày càng cao của nền kinh tế. Đây là hệ thống thanh toán tạo ra bước phát triển đột phá về nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển các phương tiện thanh toán mới. Hệ thống thanh toán nội bộ của các ngân hàng thương mại cũng có sự phát triển vượt bậc, nhờ sự đầu tư về cơ sở hạ tầng và triển khai ứng dụng mạnh mẽ công nghệ phục vụ cho hoạt động thanh toán. Hầu hết các ngân hàng thương mại đã thiết lập được hệ thống core banking, hệ thống thanh toán nội bộ với công nghệ tiên tiến, cho phép các ngân hàng thương mại cung ứng các dịch vụ. Phương tiện thanh toán hiện đại và khả năng kết nối trực tuyến, mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng.
  12. Việc áp dụng này vừa giúp các doanh nghiệp và khách hàng tiến hành các thủ thủ tục thanh toán diễn ra nhanh gọn, góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn và quá trình tái sản xuất trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo sự an toàn về vốn cũng như tài sản của doanh nghiệp tránh được những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra trong quá trình thanh toán. 7. Đối với hoạt động quản lý 7.1. Quản trị nguồn nhân lực Quản trị nguồn nhân lực là công tác đang ngày càng được các tổ chức, doanh nghiệp đặc biệt quan tâm trong vài năm trở lại đây. Đặc biệt, trong các giai đoạn khủng hoảng, kinh tế khó khăn thì các nhà lãnh đạo doanh nghiệp nhận ra nhân tố giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển bền vững chính là nguồn nhân lực có chất lượng. Hiện nay, việc sử dụng các phần mềm quản lý hoặc những phần mềm hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã không còn là một vấn đề mới mẻ và xa lạ nữa. Hầu như doanh nghiệp nào, cũng đều sử dụng một phần mềm quản lý nào đó có thể là một phần mềm kế toán, phần mềm quản lý nhân sự đơn giản hoặc có thể là cả một hệ thống phần mềm phức tạp với đầy đủ chức năng quản lý theo kiểu ERP... Do vậy, các giải pháp, phần mềm quản trị nguồn nhân lực cũng đang ngày càng hoàn thiện các tính năng nhằm hỗ trợ toàn diện công tác quản trị nhân lực tại các tổ chức, doanh nghiệp. MISA đã giới thiệu MISA HRM.NET 2012 như là một công cụ hỗ trợ toàn diện, cả về mặt nghiệp vụ lẫn công nghệ. MISA HRM là công cụ tác nghiệp hàng ngày cho các nhân viên quản trị nguồn nhân lực của tổ chức từ việc lập kế hoạch tuyển dụng, tiếp nhận hồ sơ ứng viên trực tuyến, tuyển dụng cán bộ, quản lý hồ sơ, quản lý lương, thưởng, phúc lợi, thuế, bảo hiểm, khen thưởng, kỷ luật, sự cố, nghỉ phép đến việc đào tạo, chúc mừng sinh nhật, chúc mừng kết hôn, nhắc việc, gửi email hàng loạt… tới từng cán bộ nhân viên. Với công cụ này, toàn bộ hồ sơ của các thành viên của tổ chức đều được lưu trữ trên phần mềm, các thông tin được bố trí và quản lý tập trung, rất dễ dàng tra cứu, dễ dàng cập nhật thông tin dù cho tổ chức có đến hàng ngàn nhân sự. Cán bộ quản trị nguồn nhân lực có thể tạm biệt những tủ lưu hồ sơ khổng lồ mà khi cần tra cứu, có khi mất đến hàng giờ cho một hồ sơ nhân viên. Phần mềm cũng cung cấp một cái nhìn tổng quát về tình hình nhân sự của đơn vị, giúp cán bộ nhân sự có cái nhìn tổng thể về công việc và nhiệm vụ của mình.
  13. Thị trường phần mềm phục vụ cho các doanh nghiệp khá đa dạng về chủng loại sản phẩm phần mềm, cũng như các chức năng hỗ trợ có trong từng sản phẩm. Dựa trên thông tin của nhà cung cấp giải pháp, lời giới thiệu của các nhà tư vấn, doanh nghiệp có thể mất ít thời gian hơn trong việc lựa chọn một phần mềm nào đó để sử dụng. Theo từng giai đoạn mà xu hướng sử dụng phần mềm của các doanh nghiệp có thể thay đổi cho phù hợp với môi trường hoạt động của cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đặc biệt là hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp ERP (Enterprise Resource Planning) là một hệ thống phần mềm hỗ trợ cho doanh nghiệp quản lý các nguồn lực một cách hiệu quả, dựa trên sự đầy đủ của các nghiệp vụ chức năng: quản lý bán hàng, cung ứng vật tư, quản trị sản xuất, theo dõi tài chính, các nghiệp vụ quản lý nhân sự... Đây là một hệ thống mang tính “hướng nội", nghĩa là quản lý hiệu quả các nguồn lực bên trong, sẵn có trong doanh nghiệp. ERP thường thích hợp với các doanh nghiệp có qui mô hoạt động vừa và lớn. ERP phát huy hiệu quả cao đối với các doanh nghiệp hoạt động chuyên về sản xuất, dĩ nhiên, nó cũng có một phần phục vụ cho các quy trình kinh doanh, bán hàng nhưng đa phần chưa thật hoàn hảo, đặc biệt trong xu hướng kinh doanh ngày nay. Sử dụng hết các tính năng mà một hệ thống phần mềm ERP cung cấp doanh nghiệp sẽ thu được rất nhiều lợi ích, đây là loại phần mềm chú trọng vào vấn đề hoạch định và quản lý nguồn lực như thiết bị, vật tư, sản phẩm, nhân lực, vốn... Nếu như trước đây để quản lý hơn các nhân viên, trong đó có nhiều cộng tác viên... thì phòng nhân sự cần nhiều nhân viên để tính lương, tra cứu thông tin, xử lý đơn xin nghỉ phép,... nhưng vẫn không hết việc. Khi áp dụng phần mềm quản lý nhân sự số người giảm xuống đáng kể kéo theo tiết giảm được chi phí nhân sự, văn phòng. Trong khi việc xử lý thông tin về nhân sự được tốt hơn và nhanh hơn nhiều, giảm thời gian tìm hiểu thông tin về một nhân viên, "lọc" nhân viên từ khi tuyển dụng, hoạch định nhân lực từng bộ phận để sắp xếp phù hợp, tuyển dụng đúng thời điểm. Bên cạnh đó, phần mềm sẽ giúp công ty cần đào tạo kỹ năng gì cho nhân viên, thời gian và tiêu chí đào tạo... Ngoài ra, các phần mềm quản lý nhân sự hiện nay do các công ty công nghệ thông tin trong nước cung cấp gắn với việc tính các mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, tính thuế thu nhập cá nhân, tính lương, thưởng theo hiệu quả sản xuất... 7.2. Quản lý hàng hóa
  14. Không chỉ sử dụng các công nghệ, phần mềm trong việc quản lý nhân sự mà hiện nay các doanh nghiệp đã tiến hành đầu tư vào các công nghệ nhằm quản lý hàng hóa của doanh nghiệp. Nhằm giúp Quản lý dự báo và cung cấp • Kiểm soát tập trung • Quản lý thông báo (hàng tồn kho tối thiểu, chậm cung cấp…) • Lưu trữ thực tế/ Lưu trữ lý thuyết • Quản lý đầu vào hiện hành • Quản lý đầu ra hiện hành • Kho phân chia • Giám sát và tối ưu hóa các bản kiểm kê : kiểm kê lý thuyết thông qua việc xác minh hàng hóa ngẫu nhiên… Quản lý kho hàng • Hoạt động kho bãi • Quản lý tối ưu các dòng • Quản lý đơn hàng • Sử dụng công nghệ mới nhằm nâng cao khả năng truy xuất và chứng thực : RFID, mã vạch, máy móc không dây… • Quản lý thiết bị : xe vận chuyển, đóng gói, phân loại… • Tổ chức thời gian vận chuyển • Cải thiện tính đúng giờ nhờ việc tối ưu hóa hành trình. Đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc (theo dõi) : hỗ trợ áp dụng giải pháp di động (định vị GPS trên các phương tiện vận chuyển) để biết thời gian thực địa điểm, tình trạng giao hàng và dự đoán các tình huống bất ngờ (can thiệp nhanh chóng bằng việc thay thế một phương tiện khác). Yêu cầu khách hàng Lập thời gian điều khiển phương tiện
  15. 8. Đối với hoạt động vận chuyển Đối với các hoạt động vận chuyển các công nghệ hiện nay giúpcho việc vận chuyển trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn không còn phải sử dụng nhiều sức như trước, giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, tăng năng lực sản xuất và hiệu quả của toàn bộ hệ thống vận chuyển III. Liên hệ ở một số doanh nghiệp tại Việt Nam Sự thay đổi công nghệ là một trong những yếu tố chính thúc đẩy cạnh tranh. Nó giữ vai trò quan trọng trong sự thay đổi cơ cấu công nghiệp và trong việc tạo ra những ngành công nghiệp mới. Việt nam đang diễn ra quá trình đổi mới khoa học công nghệ. Quá trìnhđó đã bao gồm nhiều mặt nhiều dạng hoạt động nhưng tập trung chú ý vào đổi mới công nghệ, nhập công nghệ mới, nắm bắt và đưa công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến và sáng tạo ra công nghệ, công nghệ mới bao gồm các thành phần chính. Thiết bị kĩ thuật phương pháp chế tạo sản phẩm sự am hiểu công nghệ mới, tổ chức, quản lý công nghệ mới quá trình đổi mới công nghệ được diễn ra rộng khắp, từ các doanh nghiệp, các công ty hợp tác xã các ngành các địa phương. Bước vào đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam được tổ chức sắp xếp lại và giảm đáng kể. Về công nghệ hết sức lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình đổi mới với sự cố gắng, lỗ lực tập trung đầu tư ứng dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất mà trực tiếp là việc đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ phù hợp, đã tạo được bước tiến mới nâng cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao chất lượng sản phẩm được cải tiến, là cơ sở để mở rộng thị trường hàng công nghiệp Việt Nam cả trong nước và ngoài nước. Nếu nhìn nhận về xu thế đổi mới công nghệ dưới góc độ hướng đi của các doanh nghiệp thì hai xu thế chủ yếu đang được chú trọng hiện nay ở Việt nam là ứng dụng công nghệ tự động hoá vào sản xuất và tăng cường kỹ thuật an toàn. Tự động hoá đã thực sự xâm nhập vào nước ta theo hai hướng rõ rệt. Một là các doanh nghiệp ở cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế – xã hội có nhu cầu nâng cấp trình độ hiện có, cải tiến trang thiết bị theo hướng hiện đại hơn.
  16. 1. Công ty thành công Công ty cơ khí Hà Nội, ngay từ năm 97 đã mạnh dạn nhanh chóng bắt tay vào triển khai dự án thử nghiệm công nghiệp hoá các máy gọt hiện có của công ty, dự án mang mã số KHCN – 05 – DA1 do tiến sĩ Trần Việt Hùng – giám đốc công ty làm chủ nhiệm. Bằng kinh nghiệm và năng lực hiện có cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài và trong nước, cán bộ công nhân viên công ty đã nghiên cứu thành công và đưa vào ứng dụng các kĩ thuật điều khiển số lập trình bằng máy CNC, kĩ thuật điều khiển logic, khả năng lập trình PLC kĩ thuật đo lường và vi tính hoá, kĩ thuật điều khiển truyền động điện số hoá. Dự án này đã hược hội đồng nghiệm thu cấp nhà nước đánh giá xuất sắc đạt được giải Ba giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam – Vi FOTEC 2000 và cũng chính nhờ dự án này mà đến nay, công ty đã hiện đại hoá được 30 thiết bị ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó có 6 lò nhiệt luyệnđược lắp đặt hệ thống PLC. Việc điều khiển tự động hóa quá trình nhiệt đã nâng cao chất lượng nhiệt luyện các sản phẩm cơ khí, giảm hàng sai hỏng do nhiệt luyện từ 4% xuống còn 1% . Việc thay thế các bộ phận điều khiển vô cấp bán dẫn đã làm giảm mức tổn thất điện năng từ 20% - 25% xuống dưới 6%. Đặc biệt có 2 thiết bị : máy doa 2B460 với kích thước bàn quay 1200mm được CNC có khả năng gia công các bề mặt khuôn mẫu lớn các cánh tua bin thuỷ lực … và máy tiện SUT66 CNC có khả năng gia công các trục pro. Bên cạnh đó doanh nghiệp tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao năng xuất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môt trường.Tăng cường công tác giáo dục, đầo tạo, bồi dưỡng, đầo tạo lại trình độ, tay nghề cho cán bộ công nhân viên, khuyến khích người lao động áp dụng khoa học kỹ thuật, phát huy sáng kiến, hợp lý hoá trong sản xuất. Nhờ vậy doanh nghiệp đã có những bước tiến vượt bậc và được mệnh danh là con chim đầu đàn của ngành cơ khí Việt Nam 2. Doanh nghiệp thất bại Việc đổi mới công nghệ không phải công ty nào cũng đạt được thành công bên cạnh đó còn có rất nhiều công ty tiến hành đổi mới thất bại mà đơn cử là nhà máydệt Nam Định. Nhà máy dệt Nam Định từng là nhà máy lớn nhất Đông Dương. Cung cấp rất nhiều vải vóc cho nhiều vùng tuy nhiên khi tiến hành đổi mới công nghệ nhà máy đã gặp thất bại do khi tiến hành đổi mới doanh nghiệp chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công nghệ luôn hàm chứa cả 4 yếu tố: kỹ thuật, con người, thông tin và tổ chức. Bốn yếu tố này có đồng bộ thì mới phát huy được tác dụng của công nghệ còn nếu chỉ chú trọng đến thiết bị thôi thì chưa thể coi là đổi mới công nghệ được. Thiết bị
  17. chỉ đem cho doanh nhiệp từ 40 – 50% năng lực sản xuất, thông tin về công nghệ thì sơ sài, con người thì không được đào tạođến nơi đến chốn, còn tổ chức quản lý, mua bán chuyển giao công nghệ thì quá lỏng lẻo, trong khicác yếu tố này nhiều lúc còn quan trọng hơn thiết bị. Vì không thấy được yếu tố phần mềm của công nghệ (thông tin, con người, tổ chức) cho nên, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến máy móc thiết bị phần cứng (thông qua nhập khẩu thiết bị hoặc mua thiết bị trong nước) hơn là đầu tư cho phần mềm công nghệ (đầu tư cho nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc thiết kế các sản phẩm mới). Vì vậy, hậu quả là doanh nghiệp đã gặp thất bại, bị thua lỗ nhiều so với thời kỳ trước khi đổi mới. Và bây giờ khi nhắc đến nhà máy dệt Nam Định nhiều người còn cảm tháy tiếc nuối về điều này. KẾT LUẬN Vấn đề đổi mới công nghệ và đa công nghệ mới vào sản xuất là một chiến lược quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh sản phẩm và sự phát triển của doanh nghiệp trên thị trường. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không còn con đờng nào khác ngoài việc luôn luôn đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Muốn vậy chỉ bằng cách đổi mới và đa công nghệ mới vào sản xuất thì doanh nghiệp mớicó thể có những sản phẩm đa dạng với chất lượng tuyệt hảo được thị trường hoan nghênh chấp nhận. Điều đó cũng đi đôi với việc tạo uy tín, thu lợi nhuận và giành được chiến thắng trong cạnh tranh cho doanh nghiệp.Nhưng nguyên tắc hiệu quả bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu tưrớc khi doanh nghiệp quyết định sử dụng chiến lược đổi mới công nghệ. Vì đây chính là chìa khoá quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong kỷ nguyên khoa học kỹ thuật này.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
21=>0