intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

28
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam" phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương Mại Việt Nam. Nghiên cứu phân tích các yếu tố vĩ mô lẫn vi mô của 20 NHTM trong giai đoạn từ 2010–2020. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam

  1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Chung1, Nguyễn Ngọc Như Tuyền2 1. Email: chungnh@tdmu.edu.vn. 2. Email: 2023402011026@student.tdmu.edu.vn TÓM TẮT Bài báo này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương Mại (NHTM) Việt Nam. Nghiên cứu phân tích các yếu tố vĩ mô lẫn vi mô của 20 NHTM trong giai đoạn từ 2010–2020. Bài nghiên cứu phân tích định lượng và sử dụng mô hình hồi quy Generalized Least Squares (GLS) cho dữ liệu bảng nhằm đánh giá các biến độc lập: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ (NPL), quy mô ngân hàng (SIZE), tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động (CIR), vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA) và tăng trưởng GDP hằng năm (GDP) tác động thế nào đến biến phụ thuộc lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả cho thấy các chỉ số ETA, NPL và CIR có mối quan hệ âm với hiệu quả hoạt động và quy mô ngân hàng có mối quan hệ dương với hiệu quả hoạt động. Ngoài ra, chưa có đủ bằng chứng khoa học về mối quan hệ giữa GDP và hiệu quả hoạt động. Từ đó nghiên cứu đề xuất một số giải pháp và kiến nghị giúp nâng cao hiệu quả hoạt động các NHTM Việt Nam. Từ khóa: Hiệu quả hoạt động, ngân hàng thương mại, ROE, FGLS. 1. GIỚI THIỆU Hệ thống tài chính là một trong những yếu tố cho thấy nền kinh tế của một quốc gia có hoạt động mạnh mẽ hay không. Khi nền kinh tế có dấu hiệu phát triển không bền vững chứng tỏ hệ thống tài chính quốc gia đó đang trục trặc, hoạt động kém hiệu quả (Javid, Badar & Zulfiquar, 2013). Bên cạnh đó, để hệ thống tài chính được xây dựng hoàn thiện thì hoạt động tài chính ngân hàng là một trong những yếu tố đóng vai trò rất quan trọng và cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Hiệu quả hoạt động là tiêu chí để đo lường mức độ hoạt động tích cực hay tiêu cực của một ngân hàng (Nguyễn Việt Hùng, 2008). Khi một ngân hàng phát triển bền vững và khả năng sinh lời ngày một tăng qua các năm chứng tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó tạo ra là rất lớn, khả năng sinh lời này sẽ cho thấy lợi nhuận kiếm được của ngân hàng đó có tốt hay không (Pandey, 1980). Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nước ngoài cùng những tổ chức phi ngân hàng khác thì việc nghiên cứu để tìm ra yếu tố nào có mức ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giúp các nhà quản trị tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến yếu kém của một ngân hàng. Từ đó nhà quản trị sẽ linh hoạt hơn trong việc tìm ra những giải pháp tốt nhất giúp ngân hàng phát triển hơn, đứng vững được trên thị trường cũng như là có thể chống chọi với những khó khăn trong tương lai. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG 2.1 Cơ sở lý thuyết 48
  2. Ngân hàng Thương mại Theo Peter S.Rose (2004) thì ngân hàng là một trung gian tài chính thực hiện nhiều nghiệp vụ tài chính nhất so với các tổ chức trung gian khác trong nền kinh tế. Ngân hàng là nơi cung cấp đa dạng các dịch vụ về tài chính bao gồm nhiều các dịch vụ về tín dụng, tiết kiệm và cả thanh toán. Theo Vũ Văn Thực (2013), NHTM chính là một tổ chức trung gian tài chính có nhiều hoạt động trong nền kinh tế với chức năng chính là huy động vốn để cho vay. Cũng theo một số tác giả khác thì NHTM là một tổ chức kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động trong ngân hàng về các lĩnh vực cung cấp tiền tệ, dịch vụ tài chính giữa khách hàng và ngân hàng hoặc ngược lại. Mỗi quốc gia đều có nền kinh tế khác nhau nên các hoạt đông ngân hàng được tổ chức và quy định cũng khác nhau, vì vậy để đáp ứng nhu cầu tài chính không giống nhau của mỗi nền kinh tế thị trường thì NHTM sẽ được tạo lập riêng những hoạt động dựa trên mục đích, tính chất và phải thỏa mãn trong viêc phát triển của nền kinh tế đó. Hiệu quả hoạt động Theo European Central Bank (2010), hiệu quả là khi một doanh nghiệp hoặc ngân hàng có khả năng tạo ra được lợi nhuận ổn định và lâu dài, khi đó lợi nhuận tạo ra đầu tiên được sử dụng dưới dạng dự phòng cho các khoản lỗ bất ngờ của doanh nghiệp và bổ sung thêm về vốn, tiếp tục đầu tư và tạo thêm lợi nhuận trong tương lai. Theo Nguyễn Khắc Minh (2004), trong cuốn “Từ điển Toán kinh tế, Thống kê, kinh tế lượng Anh - Việt” thì hiệu quả hoạt động chính là mức độ thành công khi một doanh nghiệp tiến hành phân bổ các nguồn đầu vào có thể sử dụng được và đạt được đầu ra mà doanh nghiệp đó sản xuất, đáp ứng được mục tiêu trước đó. Trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng, các yếu tố về hiệu quả hoạt động của NHTM được định nghĩa theo nhiều quan điểm, nhiều hướng nhìn khác nhau, vì hoạt động ngân hàng cũng là một trong những hoạt động kinh doanh, mong muốn nhằm phát sinh ra lợi nhuận một cách tối đa hóa với một mức độ rủi ro cho phép (Perter S.Rose). Vì thế nên hiệu quả hoạt động của ngân hàng coi như là khả năng sinh lời trong kinh doanh được tạo ra từ ngân hàng đó, đây là mục tiêu được quan tâm nhiều nhất bởi các ngân hàng vì chỉ khi mức độ tạo ra khả năng sinh lời cao sẽ tạo ra lợi nhuận cao, tăng khả năng cạnh tranh cũng như là thu hút vốn đầu tư và bảo toàn vốn cho ngân hàng. Từ những phân tích có thể hiểu hiệu quả là khi các doanh nghiệp cũng như ngân hàng đạt được mục tiêu sản xuất khi phân bổ giới hạn nguồn đầu vào và đạt chất lượng cao nhất từ đầu ra, đây sẽ là thể hiện mức độ thành công của các doanh nghiệp. Có nhiều nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng có không ít yếu tố để đánh giá hiệu quả hoạt động trong kinh doanh của ngân hàng qua từng giai đoạn. Vì hiệu quả là một phạm trù rất đa dạng, tùy theo từng nghiên cứu mà được nhìn nhận dưới góc độ khác nhau. Theo Nguyễn Việt Hùng (2008) thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đánh giá theo hai nhóm là hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: Hiệu quả tuyệt đối cho phép đánh giá dưới dạng cả chiều sâu lẫn chiều rộng, tuy nhiên cách đánh giá này sẽ không cho biết khả năng lãng phí hay sử dụng tiết kiệm đầu vào. Mặt khác đối với hiệu quả tương đối, cho phép thể hiện cả dưới dạng tĩnh, dạng động hoặc dạng cận biên, đây là phép đánh giá thuận tiện để so sánh theo không gian và thời gian giữa các ngân hàng có quy mô và thời kỳ khác nhau. 49
  3. Cũng theo những quan điểm về cách đánh giá hiệu quả thì bài nghiên cứu này sẽ sử dụng theo cách đánh giá khả năng biến các đầu vào thành đầu ra, sẽ được tính bằng: hiệu quả hoạt động = kết quả kinh tế - chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. 2.2 Phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động Theo Nguyễn Việt Hùng (2008), để đánh giá hiệu quả hoạt động, người ta thường đánh giá theo nhóm chỉ tiêu để phản ánh khả năng sinh lời, chỉ tiêu này sẽ phản ánh hết tính hiệu quả khi bỏ ra một đồng vốn kinh doanh, các chỉ tiêu được phản ánh như sau: tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), thu lãi biên ròng (NIM), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE),... Mohammad Rahman và cộng sự (2015) đã sử dụng ba yếu tố đo về khả năng sinh lời là tỷ suất sinh lời về tài sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (NIM) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) để phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng của 25 ngân hàng ở Bangladesh trong khoảng thời gian từ năm 2006-2013. Vincent Okoth Ongore & Gemechu Berhanu Kusa (2013) cũng đã sử dụng ba yếu tố đo về khả năng sinh lời là tỷ suất sinh lời về tài sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (NIM) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) nghiên cứu và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của 37 ngân hàng thương mại thương mại ở Kenya diễn ra từ năm 2001 đến 2010. Võ Minh Long (2019) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam và đã sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) nhằm tìm xem nhân tố nào sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Đào Hồng Ngọc (2016) cũng đã sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) nhằm phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của 5 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014. Nguyễn Thị Nguyệt Dung và Nguyễn Mạnh Cường (2017) đã sử dụng tỷ suất sinh lời về tài sản (ROA), và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện hoạt động sáp nhập hợp nhất tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2018. Trong bài nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thông qua chỉ số ROE (Return On Equity), và những nghiên cứu trước cũng đã cho thấy đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống bảng chi tiêu vì nó phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng của ngân hàng. Chỉ số ROE sẽ được thu thập theo tiêu chí định lượng như sau: 𝐋ợ𝐢 𝐧𝐡𝐮ậ𝐧 𝐬𝐚𝐮 𝐭𝐡𝐮ế ROE = (1) 𝐕ố𝐧 𝐜𝐡ủ 𝐬ở 𝐡ữ𝐮 2.3 Nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng thương mại Có rất nhiều nghiên cứu trong nước cũng như ngoài nước đã nghiên cứu và bàn về những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Mỗi ngân hàng đều có hoạt động riêng và khó khăn khác nhau nên những nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cũng không giống nhau. Thông thường sẽ gồm hai nhóm là nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan. (1) Nhóm nhân tố chủ quan: Nhân tố chủ quan, hay còn gọi là nhóm nhân tố vi mô, đây là nhóm thể hiện năng lực bên trong của ngân hàng. 50
  4. Năng lực tài chính: Đây là yếu tố còn được thể hiện là quy mô ngân hàng, khi ngân hàng có nguồn vốn chủ sở hữu lớn sẽ ảnh hưởng tích cực nhiều đến quy mô kinh doanh của ngân hàng, khả năng huy động vốn và cung cấp tín dụng sẽ cao hơn. Từ đó việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng được nâng cao và tăng khả năng sinh lời. Tiếp đến khi có tiềm lực cao về vốn chủ sở hữu sẽ làm giảm thiểu rủi ro của một ngân hàng, nếu nợ xấu tăng cao sẽ có đủ nguồn vốn trích vào khoản dự phòng rủi ro, giảm thiểu và bù đắp được những tổn thất có thể xảy ra (Nguyễn Việt Hùng, 2008). Năng lực quản lý: Điều này phụ thuộc cơ cấu, tổ chức của bộ máy quản lý và cơ chế quản lý nhân viên có tính hữu hiệu. Năng lực này còn được thể hiện ở việc tìm kiếm mục tiêu thị trường, khả năng xây dựng và phát triển kế hoạch phù hợp cho từng mục tiêu đó, từ đó tăng khả năng thành công lên cao nhất và giảm thiếu chi phí hoạt động. Nghiên cứu Ayanda và cộng sự (2013) cũng cho thấy chi phí đầu tư cho nhân viên có ảnh hưởng cùng chiều đối với hiệu quả hoạt động ngân hàng. Chính sách và chiến lược hoạt động: Đây là một yếu tố quan trọng trong việc định hướng bước đi và phát triển cho ngân hàng. Đây sẽ tạo ra một khuôn khổ, một lối tư duy suy nghĩ phù hợp cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng. Để có thể đưa những chiến lược tối ưu nhất buộc các nhà chiến lược phải tìm hiểu, quan sát và khoanh vùng, xác định mục tiêu, môi trường tương lai,... Tất cả những điều này sẽ đưa ra được hướng đi chính xác nhất, giúp ngân hàng xác định được mục đích, đi chắc từng bước theo đó để thực hiện mục tiêu đã được đề ra. Nguồn nhân lực: Một ngân hàng có đội ngũ nhân viên có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi chuyên môn, có khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh, khả năng ứng phó linh động sẽ là một trợ giúp to lớn cho ngân hàng trong việc giữ chân khách hàng, mức độ tin cậy của khách hàng tăng cao, nhờ đó có thể giảm thiểu những rủi ro có đáng kể trong giao dịch với khách hàng, nhờ đó có thể giảm được chi phí hoạt động và giúp tăng doanh thu cho ngân hàng (Đào Hồng Ngọc, 2016). (2) Nhóm nhân tố khách quan: Nhân tố khách quan, hay còn gọi là nhóm nhân tố vĩ mô, đây là nhóm thể hiện năng lực bên ngoài của ngân hàng sẽ bao gồm môi trường kinh tế - chính trị - xã hội và môi trường pháp lý. Các nghiên cứu Sehrish Gul và cộng sự (2011), Trujillo-Ponce (2013) cũng cho thấy các biến vĩ mô có mối quan hệ cùng chiều và có tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4 Mô hình nghiên cứu Bài nghiên cứu đã dựa trên mô hình nghiên cứu trước đây của Võ Minh Long (2019); Đào Hồng Ngọc (2016); Nouaili, Abaoub & Ochi (2015),… nhằm sử dụng dữ liệu bảng để ước lượng và quan sát các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của 20 NHTM Việt Nam trong vòng 11 năm (2010-2020), nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và đưa ra mô hình hồi quy nghiên cứu kỳ vọng có dạng: ROEit = β0 + β1*NPLit + β2*CIRit + β3*ETAit + β4*GDPit + β5*SIZEi (2) Trong đó: β0 : là hệ số chặn mô hình βi : là hệ số tác động giữa biến phụ thuộc lên biến độc lập t : là ngân hàng thứ t (20 ngân hàng được chọn mẫu) i : là năm thứ i (i = 2010, 2011, 2012,… , 2019, 2020) Ɛ : là sai số của mô hình này 51
  5. Từ mô hình nghiên cứu, bảng dấu kỳ vọng của tác giả có dạng như sau: Bảng 1: Biến được sử dụng trong nghiên cứu và kỳ vọng của biến DẤU KỲ BIẾN MÔ TẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỌNG NPL Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay Nguyễn Việt Hùng (2008), Alexiou và Sofoklis (2009) (-) ETA Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản Staikouras và Wood (2004), Heffernan và Fu (2009) (+) Tỷ lệ chi phí hoạt động trên CIR Alexiou và Sofoklis (2009), Nguyễn Việt Hùng (2008) (-) thu nhập hoạt động GDP Tăng trưởng GDP hằng năm Albertazzi và Gambacorta (2009) (+) SIZE Quy mô ngân hàng Spathis et al (2002), Mamatzakis và Remoundos (2003) (+) Nguồn: Tác giả tổng hợp 3.2 Dữ liệu nghiên cứu Nghiên cứu dựa trên 20 NTHM Việt Nam, các số liệu về dữ liệu liên quan bao gồm số liệu về vi mô, vĩ mô được tác giả thu thập từ báo tài chính hợp nhất đã kiểm toán theo từng năm và trên các web lớn của thế giới như Worldbank. Các ngân hàng được nghiên cứu này sẽ đại diện cho nhóm các NHTM có quy mô lớn tại Việt Nam: BIDV, Viettinbank, Vietcombank, Techcombank, Agribank, MBBank, VPBank, Sacombank, PGBank, OCB, SHB, BVB, Eximbank, HDBank, KienLongBank, LienVietPostBank, NamABank, VIB, MSB. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Các bước đầu tiên nghiên cứu sẽ tiến hành thống kê mô tả để tóm tắt dữ liệu. Bảng 2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình Số quan Biến Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất sát SIZEit 220 0.0890877 0.0361779 0.0406 0.2554 NPLit 220 0.0219795 0.0137846 0.0001 0.0883 CIRit 220 0.491885 0.1467885 0.0412 0.8806 ETAit 220 32.64177 1.196918 29.7382 34.9887 GDPit 220 0.0600182 0.0113277 0.0291 0.0708 ROEit 220 0.107875 0.0745972 0.0008 0.6593 Nguồn: Kết xuất dữ liệu cửa tác giả từ phần mềm Stata 14 Tiếp tục phân tích hệ số tương quan, kết quả thu được: Bảng 3. Ma trận tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu Biến ROEit GDPit SIZEit CIRit NPLit ETAit ROEit 1.0000 GDPit -0.0067 1.0000 SIZEit 0.3713 -0.0504 1.0000 CIRit -0.6033 -0.0066 -0.2528 1.0000 NPLit -0.2704 -0.0538 -0.0929 0.2031 1.0000 ETAit -0.1992 -0.0419 -0.6789 -0.0275 0.0044 1.0000 Nguồn: Kết xuất dữ liệu của tác giả từ phần mềm Stata 14 Từ bảng 3 cho thấy, hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0.8 nên kết luận biến phụ thuộc ROEit không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng với các biến độc lập (Farrar và Glauber, 1967). 52
  6. Từ kết quả thu được ở bảng 4 cho thấy giá trị p-value của 3 phương pháp được ước lượng dưới đây đều bằng 0.0000 và đều nhỏ hơn 0.0001 chứng tỏ rằng ba phương pháp ước lượng này đều có ý nghĩa thống kê. Chỉ số R2 lần lượt của POOLED OLS, REM và FEM là 0.4422, 0.3195 và 0.3315 cho thấy rằng hiệu quả hoạt động của ngân hàng đã bị thay đổi và các biến độc lập đã giải thích được 44.22%, 31.95%, 33.15% giá trị thay đổi của biến phụ thuộc. Bảng 4: Kết quả ước lượng với mô hình Pooled OLS, REM, FEM Biến POOLED OLS REM FEM -0.107 -0.0894 -0.00365 GDPit (-0.32) (-0.28) (-0.01) 0.00860* 0.0107* 0.0242*** SIZEit (1.83) (1.95) (2.76) -0.275*** -0.271*** -0.284*** CIRit (-9.70) (-9.09) (-8.47) -0.801*** -0.625*** -0.339 NPLit (-2.83) (-2.19) (-1.11) -0.248 -0.288** -0.314*** ETAit (-1.65) (-1.90) (-1.97) 0.00864 -0.0642 -0.506* Cons (0.05) (-0.33) (-1.70) Số quan sát 220 220 220 Wald chi2(5) = F(5,195) = 19.34 F(5,195) = 19.34 132.38 Prob > chi2 = Prob > F = 0.0000 Prob > F = 0.0000 0.0000 𝑅2 = 0.4422 𝑅2 within = 0.3195 𝑅2 within = 0.3315 Nguồn: Kết xuất dữ liệu của tác giả từ phần mềm Stata 14 (Ghi chú: *, **, *** Các biến có ý nghĩa thống kê lần lượt tại mức 10%, 5%, 1%) Khi hồi quy bằng phương pháp OLS sẽ khó có thể giải thích được những tác động của hiệu quả lên từng ngân hàng. Vì thế nên nghiên cứu chỉ sẽ tiếp tục lựa chọn giữa hai mô hình tác động ngẫu nhiên REM hay tác động cố định FEM, để lựa chọn giữa hai mô hình này thì mô hình nào sẽ là mô hình phù hợp thì tác giả sẽ tiến hành kiểm định Hausman Test (Baltagi, 2008). Kết quả kiểm định cho thấy: giả thuyết H1 cho rằng có sự tương quan tác động giữa các biến giải thích, giả thuyết bị loại bỏ do kiểm định có giá trị Prob>chi2 = 0.0524 và lớn hơn α = 0.05 (David Lane, 2013). Nghiên cứu chấp nhận giả thuyết H0 cho rằng không có sự tương quan tác động giữa các biến giải thích, với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, mô hình phù hợp nhất được chọn sau khi kiểm định là mô hình tác động ngẫu nhiên REM, sẽ giải thích tốt hơn mô hình tác động cố định FEM. Sau khi chọn được mô hình phù hợp, nghiên cứu tiếp tục kiểm định xem mô hình REM có xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi và hiện tự tương quan hay không (Đào Duy Tùng, 2020), thì nghiên cứu sẽ tiếp tục sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát – Generalized Least Squares (GLS) (Takeaki Kariya & Hiroshi Kurata, 2004). Trước tiên, nghiên cứu tiến hành kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả cho thấy Prob > chibar2 = 0.0005 < α = 0.05 nên kết luận giả thuyết H0 (phương sai đồng nhất) bị bác bỏ, tức là có tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình với mức ý nghĩa là 5%. 53
  7. Sau đó với kiểm định hiện tự tương quan. Kết quả cho thấy Prob > F = 0.0448 < α = 0.05 nên kết luận giả thuyết H0 (không có hiện tượng tự tương quan) bị bác bỏ, có nghĩa là có xảy ra hiện tự tương quan trong mô hình. Sau khi thực hiện các kiểm định, mô hình hồi quy nghiên cứu vi phạm hiện tự tương quan và hiện tượng phương sai thay đổi. Do đó nghiên cứu sẽ thực hiện khắc phục bằng cách hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát Generalized Least Square (GLS). Kết quả thu được như sau: Bảng 5. Kết quả kiểm định bằng mô hình GLS Biến Hệ số Sai số chuẩn P-value NPLit -0.4051002*** 0.1565836 0.010 CIRit -0.2173671*** 0.0178603 0.000 ETAit -0.2993832*** 0.0996181 0.003 SIZEit 0.009564** 0.0043056 0.026 GDPit 0.1070914 0.1563855 0.493 Cons -0.0695249 0.1514337 0.646 Nguồn: Kết xuất dữ liệu của tác giả từ phần mềm Stata 14 (Ghi chú: *, **, *** Các biến có ý nghĩa thống kê lần lượt tại mức 10%, 5%, 1%) Dựa vào bảng 5 nghiên cứu thu được kết quả hồi quy từ mô hình FGLS như sau: có 4 biến có ý nghĩa thống kê là NPL, CIR, ETA, SIZE và 1 biến không có ý nghĩa là GDP. Đa phần các biến có ý nghĩa thống kê tại mức 1% và 5%, đặc biệt mạnh mẽ tại mức 1%. Do đó mô hình nghiên cứu sẽ có dạng phương trình ở mức 1% như sau: ROEit = - 0.4051002NPLit - 0.2173671CIRit - 0.2993832ETAit Tổng hợp các kết quả thu được phía trên, nghiên cứu kết luận: Thứ nhất, tỷ lệ tăng trưởng GDP trong mô hình nghiên cứu có giá trị P-value là 0.493, điều này chỉ ra rằng chỉ số này không có ý nghĩa thống kê và chưa có đủ bằng chứng khoa học cụ thể về mối quan hệ giữa GDP và ROE trong mô hình này. Kết quả này trái với mong muốn của tác giả. Thứ hai, tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động có ý nghĩa thống kê và mối tương quan ngược chiều đến hiệu quả hoạt động. Đây là nhân tố được giảm trừ trong tổng thu nhập hoạt động để tạo thành lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của NHTM (Duy Trung, 2020). Cho thấy rằng nếu chỉ số này giảm thì các ngân hàng đã kiểm soát tốt được chí phí đầu vào, giảm được nhiều chi phí trong quá trình hoạt động. Tỷ lệ chi phí hoạt động càng giảm thì hiệu quả hoạt động càng tăng, kết quả này trùng với kỳ vọng của tác giả, và cũng trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008), Alexiou và Sofoklis (2009). Thứ ba, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay có tác động ngược chiều đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cho thấy chỉ số này có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu chỉ số nợ xấu trong quá khứ cao sẽ khiến nợ xấu các ngân hàng dễ gia tăng trong hiện tại và có thể kéo dài trong tương lai (Nguyễn Thị Như Quỳnh, 2018), tuy kết quả ra cùng với kỳ vọng của tác giả nhưng các NHTM nên cần nhanh chóng có những chính sách thắt chặt hơn trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đảm bảo tốt nhất trong việc cho vay nhằm tránh nhiều hơn nữa về tình trạng nợ xấu. Kết quả của nghiên cứu này cũng trùng với kết quả của tác giả Gizaw và cộng sự (2015), Trujillo-Ponce (2013). 54
  8. Thứ tư, quy mô ngân hàng có mối tương quan cùng chiều với hiệu quả hoạt động, điều này trùng với kỳ vọng ban đầu của tác giả. Quy mô ngân hàng là một nhân tố quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt trong hoạt động của các nhóm ngân hàng quy mô lớn so với những nhóm có quy mô nhỏ hơn (Duy Trung, 2020). Trong nghiên cứu này, chỉ số quy mô đã tăng chứng tỏ ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính và nhân lực, sẽ dễ dàng hơn trong việc đa dạng hóa về lĩnh vực kinh doanh. Các ngân hàng có quy mô lớn sẽ dễ dàng cung cấp hơn về tính dụng cũng như là phi tín dụng, điều này giúp ngân hàng tạo ra được khả năng sinh lời tốt hơn. Các nghiên cứu trước cũng đưa ra kết quả này Sehrish Gul, Faiza Irshah và Khalid Zaman (2011), Alexiou và Sofoklis (2009). Thứ năm, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có mối tương quan ngược chiều với hiệu quả hoạt động. Đây là chỉ số dùng để khuyến khích đánh giá độ lành mạnh tài chính hay mức độ phù hợp vốn của NHTM (IMF, 2006). Ở kết quả nghiên cứu này chỉ số ETA đã giảm chứng tỏ lợi nhuận trên vốn của các NHTM có dấu hiệu giảm, có nguy cơ làm tăng rủi ro cho các cổ đông cũng như là chủ sở hữu ngân hàng. Nghiên cứu Trujillo-Ponce (2013), Dietrich và Wanzenried (2011) cũng trùng với kết quả bài nghiên cứu. 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển và hội nhập nền kinh tế thế giới, hiệu quả hoạt động của NHTM có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả cung cấp nguồn vốn của doanh nghiệp, tác động mạnh lên sự ổn định của nền kinh tế thị trường. Bài nghiên cứu cho thấy được các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM, từ đó có thể thấy tầm quan trọng về sự tác động của các yếu tố cũng như có được tầm quan trọng của việc đảm bảo hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Từ đó nghiên cứu xin đề xuất một số kiến nghị như sau: 5.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Qua những gì nghiên cứu thể hiện, NHNN cần có chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ kinh tế, nhằm khắc phục và hỗ trợ cho doanh nghiệp, khách hàng các nhân có nhu cầu về nguồn vốn phù hợp với sự thay đổi thị trường, trong từng thời kỳ khó khăn sẽ phần nào giúp ổn định và thúc đẩy tăng trưởng vĩ mô,… để giúp các NHTM giảm tối thiểu về tỷ lệ nợ xấu và giảm nhiều hơn các rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng, thanh khoản,... nhất là khi thị trường trong nước vừa trải qua đại dịch Covid-19, nền kinh tế đang không ổn định, mức lạm phát Việt Nam có thể tăng cao, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của NHTM. 5.2. Đối với hệ thống Ngân hàng Thương mại: Theo nghiên cứu cho thấy, NHTM cần phải điều chỉnh lại việc cho vay khách hàng, sử dụng nguồn vốn huy động được một cách đúng đắn. Nguồn vốn tăng cao sẽ giúp các NHTM thu được nhiều lợi nhuận hơn trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên không phải cứ cho vay nhiều là thu được lợi nhuận, nó tiềm ẩn rủi ro về khả năng nợ không thể thu hồi, tạo thành nợ xấu. Cũng trong bài nghiên cứu, nếu chỉ số này giảm thì hiệu quả hoạt động của NHTM sẽ tăng lên. Do đó, các NHTM nên có những chọn lọc trong việc cấp tín dụng để đảm bảo việc sử dụng nguốn vốn một cách đúng đắn có hiệu quả hơn. Trong bài nghiên cứu, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay có tác động tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, có thể khiến ngân hàng không thu về được lợi nhuận, nhất là trong tình hình đại dịch Covid- 19 như hiện nay, tỷ lệ nợ xấu đã và đang tăng cao. Cho nên, các NHTM cần phải các chính sách, biện pháp đảm bảo tốt nhất trong việc cho vay khách hàng, 55
  9. hạn chế tối đa các khả năng tạo thành nợ xấu, gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của hệ thống NHTM như miễn giảm lãi, tái cơ cấu nợ, giãn nợ,... Tiếp theo là tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động. Đây cũng là một tác động ngược chiều với hiệu quả hoạt động của NHTM. NHTM cần nên có những biện pháp để kiểm soát, sử dụng hợp lý nhất các chi đầu vào nhằm giảm chi phí trong hoạt động ngân hàng. Nếu chi phí hoạt động tăng cao mà thu nhập hoạt động lại không được như kỳ vọng, sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTM. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngoài nước: 1 Anbar, A., & Alper, D. (2011). Bank specific and macroeconomic determinants of commercial bank profitability: Empirical evidence from Turkey. Business and economics research journal, 2(2), 139-152. 2 Albertazzi, U., & Gambacorta, L. (2009). Bank profitability and the business cycle. Journal of Financial Stability, 5(4), 393-409. 3 Alexiou, C., & Sofoklis, V. (2009). Determinants of bank profitability: Evidence from the Greek banking sector. Economic annals, 54(182), 93-118. 4 Badar, M., Javid, A. Y., & Zulfiquar, S. (2013). Impact of macroeconomic forces on nonperforming loans: An empirical study of commercial banks in Pakistan. wseas Transactions on Business and Economics, 10(1), 40-48. 5 Dietrich, A., & Wanzenried, G. (2011). Determinants of bank profitability before and during the crisis: Evidence from Switzerland. Journal of international financial markets, institutions and money, 21(3), 307-327. 6 Farrar, D. E., & Glauber, R. R. (1967). Multicollinearity in regression analysis: the problem revisited. The Review of Economic and Statistics, 92-107. 7 Heffernan, S. A., & Fu, X. (2010). Determinants of financial performance in Chinese banking. Applied Financial Economics, 20(20), 1585-1600. 8 Nouaili, M. A., Abaoub, E., & Ochi, A. (2015). The determinants of banking performance in front of financial changes: Case of trade banks in Tunisia. International Journal of Economics and Financial Issues, 5(2). 9 Trujillo‐Ponce, A. (2013). What determines the profitability of banks? Evidence from Spain. Accounting & Finance, 53(2), 561-586. 10 Staikouras, C. K., & Wood, G. E. (2004). The determinants of European bank profitability. International Business & Economics Research Journal (IBER), 3(6). Trong nước: 11 Long, V. M. (2019). Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần. Tạp chí Tài Chính, 5/2019. 12 Minh, K. N. (2004). Từ điển toán kinh tế thống kê, kinh tế lượng Anh-Việt. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 13 Ngọc, H. Đ. (2016). Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011-2014. Đại học Tây Đô, Cần Thơ. 14 Quỳnh, N. T. N. (2018). Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Kinh tế và quản trị kinh doanh, 13(3), 261-274. 15 Thực, V. V. (2013). Tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (10 (20)), 17-21. 56
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2