
ĐẠI CƯƠNG KHÁNG SINH
23.1.1. Sơ lược lịch sử
Kỷ nguyên thuốc kháng sinh bắt đầu từ 1929, khi Alexander Fleming, bác
sỹ người Anh, tình cờ phát hiện thấy các sợi nấm Penicillium notatum tạo ra
vùng vô khuẩn trong đĩa môi trường nuôi cấy tụ cầu vàng. Ông cho rằng nấm
Penicillium có chứa chất diệt vi khuẩn và gọi chất đó là penicillin. Năm 1938,
nhóm nghiên cứu Florey và Chain (Mỹ) đã sản xuất thành công penicillin G và
đưa vào điều trị. Theo hướng nghiên cứu của Fleming và Florey-Chain các nhà
nghiên cứu tiếp sau đã tìm ra và đưa vào sử dụng rộng rãi các loại kháng sinh
như ngày nay.
23.1.2. Định nghĩa kháng sinh
"Kháng sinh là những hợp chất có nguồn gốc vi sinh, được sản xuất bằng
lên men các chủng vi nấm hoặc vi khuẩn, bán tổng hợp hoặc tổng hợp toàn phần
theo nguyên mẫu kháng sinh thiên nhiên; có tác dụng diệt hoặc kìm hãm sự phát
triển của vi khuẩn với nồng độ rất thấp".
23.1.3. Phân loại kháng sinh

Dựa vào cấu tạo hoá học và tương đương phổ tác dụng, người ta phân chia
các loại kháng sinh thành các nhóm sau:
1. Kháng sinh
-lactam, gồm:
- penicillin,
- Cephalosporin
- Monobactam
2. Kháng sinh aminoglycosid (aminosid)
3. Kháng sinh tetracyclin
4. Cloramphenicol và dẫn chất
5. Kháng sinh macrolid và streptogramin
6. Kháng sinh lincosamid
7. Kháng sinh rifamycin

8. Kháng sinh polypeptid
Quinolon: Là các chất tổng hợp hóa học, tác dụng diệt vi khuẩn ở nồng độ
rất thấp như các chất kháng sinh nguồn gốc vi sinh. Vì vậy có trường phái xếp
quinolon vào thuốc kháng sinh, nhưng trường phái khác chỉ xếp vào các chất
kháng khuẩn.
Ngoài ra còn có kháng sinh chống nấm, chống ung thư. Các loại kháng
sinh này trình bày ở các bài tương ứng.
Bảng 2-Ks I/dh
23.1.4. Đánh giá hoạt lực kháng sinh
Có hai kiểu tính hoạt lực của các chế phẩm kháng sinh:
1- Tính bằng đơn vị quốc tế (UI = Unité internationale), ví dụ:
- Penicillin G, thử trên một chủng tụ cầu vàng:
1UI = 0,6 g penicillin G natri tinh khiết, hay 1mg penicillin G natri
tương đương 1667 UI; 1UI = 0,627 g penicillin G kali tinh khiết.

- Spiramycin: 1mg spiramycin dược dụng tương ứng 3200 UI.
2- Tính bằng đơn vị khối lượng (mg, g…): Nhiều kháng sinh thiên nhiên và bán
tổng hợp, ví dụ: Amoxicillin, lincomycin hydroclorid v.v…
23.1.5. Nguyên tắc sử dụng thuốc kháng sinh
Lạm dụng / dùng KS không đủ liều tạo ra vi khuẩn kháng thuốc, hậu qủa:
- Liều dùng thuốc kháng sinh phải tăng,
- Hiệu qủa điều trị không chắc chắn.
Vì vậy, khi sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị và dự phòng nhiễm
khuẩn cần tuân thủ một số nguyên tắc như sau:
1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm vi khuẩn.
Căn cứ để xác định bệnh nhiễm khuẩn:
- Các triệu chứng lâm sàng: Đau viêm kèm sốt nhiệt độ 38-39o C
(phân biệt với sốt virus thường có nhiệt độ 40-41o C).

- Nếu có điều kiện thì nuôi cấy bệnh phẩm làm kháng sinh đồ.
2. Chọn đúng kháng sinh nhạy đặc hiệu và dạng bào chế phù hợp.
Căn cứ xác định:
- Hoàn cảnh và vị trí nhiễm khuẩn, các triệu chứng lâm sàng.
- Kết quả kháng sinh đồ cho phép lựa chọn thuốc chính xác.
3. Dùng đủ liều và hết đợt điều trị.
- Nhiễm khuẩn hông thường bắt đầu liều tấn công, sau đó rút xuống liều
duy trì.
- Nhiễm khuẩn sinh độc tố (thương hàn...) phải bắt đầu bằng liều thấp, sau
đó nâng dần tới liều hiệu qủa.
- Đợt điều trị nhiễm khuẩn phải kéo dài trong 1 số ngày; thậm chí hàng
tháng dùng thuốc liên tục. Không được dừng điều trị khi thấy hết triệu chứng.
4. Phối hợp các kháng sinh hợp lý.

