Đào tạo liên thông theo tín chỉ mấy vấn đề cần đặt ra
lượt xem 2
download
Bài viết Đào tạo liên thông theo tín chỉ mấy vấn đề cần đặt ra trình bày những thuận lợi và khó khăn của đào tạo liên thông và đào tạo theo tín chỉ; Đối tượng đào tạo liên thông; Đào tạo theo tín chỉ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đào tạo liên thông theo tín chỉ mấy vấn đề cần đặt ra
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO TÍN CHỈ MẤY VẤN ĐỀ CẦN ĐẶT RA Hà Hồng Vân1 - Nguyễn Trí Thành2 Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang Mở đầu Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC), lần đầu tiên được tổ chức tại trường Đại học (ĐH) Harvard, Hoa kỳ vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp Bắc Mỹ và thế giới. Đây là phương thức đào tạo theo triết lý “Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo”. Theo đánh giá của Tổ chức ngân hàng thế giới (World Bank), thì đào tạo theo HTTC, không chỉ có hiệu quả đối với các nước phát triển mà còn rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển. Ở nước ta có nghị quyết số 37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo ĐH, cao đẳng (CĐ), trung cấp chuyên nghiệp (TCCN)…”. Sau Nghị quyết số 37/2004/QH11 khóa XI là các quyết định số 37/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ; Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020… Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo HTTC, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở ngoài nước. Bên cạnh đó, trường ĐH Bách khoa Tp.HCM và ĐH Cần Thơ đã triển khai đào tạo theo HTTC từ nhiều năm nay và đã đạt được kết quả nhất định. Quyết định số 49/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ban hành Quy định tạm thời về đào tạo liên thông dạy nghề, TCCN, CĐ, ĐH và Quyết định số 06 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 02 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã mở ra một hướng đào tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế. 1 ThS, Hiệu trưởng 2 Trưởng phòng Đào tạo 113
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM 1. Những thuận lợi và khó khăn của đào tạo liên thông và đào tạo theo tín chỉ 1.1. Đào tạo liên thông Mô hình đào tạo liên thông (ĐTLT) đã được Bộ GD&ĐT thí điểm thực hiện từ năm 2002, đến nay cả nước đã có khoảng hơn 36 trường ĐH và trên 51 trường CĐ được phép đào tạo liên thông. Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện, mô hình này vẫn chưa được tổng kết đánh giá hiệu quả, trong khi những bất cập được nêu ra thì nhiều vô kể. Đào tạo liên thông là quá trình đào tạo cho phép sử dụng kết quả học tập đã có của người học để học tiếp ở trình độ cao hơn cùng ngành nghề hoặc khi chuyển sang ngành đào tạo, hình thức giáo dục và trình độ đào tạo khác. Quy định về đào tạo liên thông nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các trường xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức quá trình đào tạo và công nhận kết quả học tập, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của người học để quá trình đào tạo liên thông diễn ra thông suốt với chất lượng và hiệu quả cao. • Đối tượng đào tạo liên thông - Những người đã có bằng tốt nghiệp trung cấp (TC) hoặc bằng tốt nghiệp CĐ có nhu cầu học tập lên trình độ CĐ hoặc ĐH. + Đối với đào tạo liên thông từ trình độ TC lên trình độ CĐ hoặc từ trình độ CĐ lên trình độ ĐH, người tốt nghiệp loại khá trở lên được tham gia dự tuyển ngay sau khi tốt nghiệp; người tốt nghiệp loại trung bình phải có ít nhất 1 năm làm việc gắn với chuyên môn được đào tạo mới được tham gia dự tuyển. + Đối với đào tạo liên thông từ trình độ TC lên trình độ ĐH, người có bằng tốt nghiệp TC phải có ít nhất 3 năm làm việc gắn với chuyên môn được đào tạo mới được tham gia dự tuyển. - Những người đã tốt nghiệp ở nước ngoài có văn bằng tốt nghiệp trình độ TC hoặc CĐ được công nhận văn bằng theo quy định của Bộ GD&ĐT. Tuy nhiên, vấn đề liên thông ở nước ta có một số khó khăn: - Chương trình thiếu đồng bộ; 114
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ - Không cập nhật thường xuyên; - Nội dung chồng chéo; - Không đảm bảo tính kế thừa liên thông; - Mỗi trường có cơ chế tuyển sinh riêng do đó sinh viên muốn liên thông ở trường khác phải bổ sung kiến thức theo trường mình muốn liên thông. Quan trọng hơn là khâu tuyển sinh giống như 1 lần tuyển sinh nữa. 1.2. Đào tạo theo tín chỉ Hệ thống chuyển đổi tín chỉ là một hệ thống được sử dụng cho tất cả các thành phần (hay môn học) của một chương trình học. Tất cả số lượng tín chỉ gộp lại sẽ giúp cho sinh viên có được bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ hay một bằng cấp chuyên môn nào đó. Tín chỉ được sử dụng để đo lường khối lượng công việc của một sinh viên theo các hoạt động học tập đã được lên kế hoạch như lên lớp nghe giảng, tham dự seminar, hoặc tự học... Các tiêu chí này quyết định các đặc trưng cụ thể của các hệ thống tín chỉ khác nhau trong những khoá học gần giống nhau trên thế giới. • Thuận lợi khi đào tạo theo hệ thống tín chỉ - Việc chuyển đổi quy trình đào tạo theo niên chế sang HTTC là xu hướng chung của giáo dục ĐH Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, là một trong bảy bước đi quan trọng trong đổi mới giáo dục ĐH giai đoạn 2006-2020, đã được Chính phủ thể chế hóa bằng quyết định; - Giúp sinh viên hình dung và định lượng ra tất cả các yêu cầu đối với bản thân trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình học tập của mình trong nhà trường; - Tạo điều kiện cho sinh viên chủ động lên kế hoạch và thực hiện việc học tập dựa vào năng lực và điều kiện của mình, làm chủ thời gian và công việc; - Tăng cường tính mềm dẻo và linh hoạt của chương trình, giúp sinh viên không bị mất đi những mảng kiến thức và kỹ năng đã tích lũy nếu như việc học của họ bị gián đoạn; - Giúp sinh viên có thể chuyển đổi từ khoá học này sang khoá học khác trong cùng một hệ thống hay khác hệ thống. 115
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM Cũng cần nói thêm, học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và được kết cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học. Từng học phần phải được ký hiệu bằng một mã số riêng do trường quy định. Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp. • Những khó khăn khi triển khai hệ thống tín chỉ Đào tạo tín chỉ là phương thức đào tạo được xem là tiên tiến trên thế giới vì mục đích đào tạo của nó là hướng đến sinh viên, coi người học là trung tâm trong quá trình dạy - học và nó yêu cầu sự nỗ lực học lớn hơn của cả giáo viên và sinh viên. Tuy nhiên, việc triển khai HTTC sẽ gặp rất nhiều khó khăn về phía những người trực tiếp thực hiện: - Trước hết, đối với sinh viên, những người đến từ các trường phổ thông còn duy trì những khuôn mẫu cứng nhắc khi bước vào trường ĐH sẽ hết sức ngỡ ngàng về mọi mặt, HTTC tạo nên bước chuyển khá đột ngột, họ phải mất một thời gian để làm quen (sinh viên phải tăng thời gian tự học, phải coi những giờ tự học, tự chuẩn bị bài ở nhà là một phần của nội dung môn học, trong khi đó điểm đầu vào của sinh viên một số trường tương đối thấp). - Chương trình đào tạo chưa hợp lý về cấu trúc vi mô, giới hạn thời gian cho từng khóa học; - Các mô hình đào tạo liên thông giữa các chương trình, các trường trong nước và quốc tế đến nay vẫn chưa có hoặc chưa phát triển mạnh. Chất lượng đào tạo hệ ĐH không chính quy còn có hạn chế. Một số bộ môn do quy mô đào tạo hàng năm lớn hơn nhiều so với trước đây, nên chưa dành nhiều thời gian vào các hoạt động nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, nhất là giáo viên trẻ; 116
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ - Chưa có số liệu thông tin phản hồi hoàn chỉnh từ nhà sử dụng sản phẩm đầu ra, chưa có khảo sát đáng kể nào để lấy ý kiến người học cho từng loại hình đào tạo, và do đó chưa có những đúc kết thực tiễn từ người dạy theo phương thức đào tạo đang hiện hành; - Người học chưa quen với mô hình đào tạo này do điều kiện chủ quan và khách quan của các trường và do các dịch vụ phục vụ cho mô hình này chưa đáp ứng kịp với yêu cầu; - Đội ngũ cố vấn học tập còn chưa chuyên nghiệp, chưa phát huy hết vai trò cố vấn cho người học; - Nhiều trường đã xây dựng chuẩn mực chung về chương trình và đánh giá kiểm tra nhưng sự công khai hóa đến sinh viên còn hạn chế; - Việc chuyển đổi cơ chế từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ đòi hỏi có sự tìm hiểu thấu đáo và cần có thời gian tiếp cận và hoàn thiện dần, thậm chí hàng chục năm. - Đối với giảng viên phải có thời gian để đầu tư nhiều hơn vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và các hoạt động khác mà HTTC đòi hỏi (người thầy phải giảm bớt thời gian thuyết giảng, tăng thời gian thảo luận, làm bài tập, tăng thời gian nghiên cứu, chuẩn bị bài ở nhà). Hơn nữa, HTTC làm cho mức độ tự do của giảng viên giảm nhiều vì họ phải được gắn với các giờ học và lớp học xác định phân bố trong suốt cả học kỳ, rất khó bố trí tập trung thời gian cho các hoạt động khác ở ngoài trường. Đồng thời việc đăng ký học phần cho học kỳ kế tiếp đòi hỏi phải có kịp thời kết quả đánh giá các học phần của kỳ trước, điều này cũng rất khó khăn với những trường có nhiều môn học phải thỉnh giảng; - Về các tổ chức sinh hoạt tập thể trong cộng đồng sinh viên có hai loại lớp học: lớp khóa học gồm các sinh viên đăng ký vào học cùng ngành đào tạo ở năm đầu tiên, lớp học phần gồm các sinh viên cùng học một học phần. Lớp khóa học giữ cố định trong cả khóa học, nơi hình thành các tổ chức đoàn thể của sinh viên. Lớp học phần thường là tạm thời, nơi thông báo các thông tin về học tập và tổ chức các sinh hoạt học tập liên quan đến học phần. Sự cá thể hóa cao độ quá trình học tập sẽ dẫn đến nhiều khó khăn trong tổ chức các hoạt động tập thể 117
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM và các phong trào chung như tổ chức Đoàn TN, Hội SV… đây chính là hạn chế đào tạo theo HTTC - Số lượng giảng viên và cán bộ công nhân viên ít lại thiếu kinh nghiệm giảng dạy cũng như trong công tác cố vấn học tập cũng sẽ là những hạn chế; - Cán bộ làm công tác quản lý, nhất là quản lý đào tạo thì qui chế đào tạo theo hệ thống tín chỉ gần như hoàn toàn mới lại chưa được huấn luyện. 2. Một số khuyến nghị Để có thể đạt được một sự thay đổi trôi chảy và vững chắc từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ và đào tạo liên thông, Bộ GD&ĐT cần cung cấp cho các trường: - Một kế hoạch rõ ràng về các bước phải thực hiện. - Một lộ trình chuyển đổi hợp lý để đạt được từng bước. - Những nguồn lực cần thiết (tiền bạc, việc đào tạo những cán bộ chuyên trách, cơ sở hạ tầng và thiết bị) - Cải cách việc đánh giá đội ngũ cán bộ khoa học và tạo ra một hệ thống khích lệ thích hợp để đáp ứng mục tiêu giáo dục của Việt Nam cả trước mắt và lâu dài. - Việc chuyển sang HTTC sẽ cho phép tiến đến xây dựng một chương trình đào tạo có thể so sánh được với các trường ĐH khác cũng đang áp dụng HTTC trên phạm vi quốc tế, điều này sẽ là thuận lợi rất lớn để đào tạo liên thông giữa các trường. Ở cấp độ căn bản nhất, điều này bao gồm: a. Thống nhất về số tín chỉ và môn học tiêu chuẩn: những tín chỉ và môn học này sẽ có thể chuyển đổi được giữa các trường đại học trong nước, cũng như với các trường trong phạm vi quốc tế. b. Các trường nên hợp tác nhau để xây dựng khung chương trình chung để tạo thuận lợi trong công tác liên thông đào tạo. Các trường ĐH lớn có nhiều kinh nghiệm nên hỗ trợ các trường mới thành lập về công tác này. Một chương trình đào tạo và cơ cấu tổ chức tập trung vào việc học tập. 118
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ c. Đặt ra tiêu chuẩn đánh giá tương tự nhau để đảm bảo chuẩn kiến thức cho sinh viên giữa các trường, giúp sinh viên trường này có thể dễ dàng học liên thông ở trường kia. d. Xây dựng một đội ngũ giáo viên vượt trội trong giảng dạy (qua đó củng cố uy tín của trường ĐH, CĐ và chất lượng đào tạo của nhà trường) và khen thưởng cho họ một cách tương xứng về mặt khối lượng công việc, thù lao và cơ hội thăng tiến. Các trường gần nhau nên trao đổi giảng viên để họ có cơ hội học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tổ chức các buổi tập huấn về phương pháp sư phạm, các buổi sinh hoạt chuyên đề với những người đang làm việc trong các lãnh vực khác nhau, nhằm nâng cao trình độ của giảng viên. e. Kết hợp những viện nghiên cứu độc lập với các trường ĐH để tạo ra những trung tâm nghiên cứu nhằm giúp giảng viên và sinh viên gắn bó với cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Trao đổi cán bộ chuyên viên giữa các viện nghiên cứu và các trường ĐH với nhiệm kỳ hai năm. Giao nhiệm vụ cho cả các viện nghiên cứu và các trường ĐH phải nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị cho những vấn đề của Việt Nam và của thế giới. Khuyến khích các giải pháp và cách tiếp cận đa ngành thông qua việc thành lập những nhóm chuyên viên đa ngành tại các viện nghiên cứu và những lớp học có các dự án xuyên ngành ở các trường ĐH. Thúc đẩy các tập đoàn, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ liên hệ với trường ĐH trong những dự án liên kết nhằm giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đặt ra, cũng như tạo cơ hội thực tập cho sinh viên và mời các giảng viên đến trình bày một vấn đề nào đó. f. Các trường có thể hợp tác mời chuyên gia quốc tế - những người có hiểu biết về Việt Nam và có kinh nghiệm sư phạm, để làm việc với các nhóm chuyên gia Việt Nam và đưa ra những tư vấn cụ thể trong từng bộ môn chuyên ngành, nhằm tạo một sự thống nhất khoa học về số môn học, tín chỉ và cơ chế liên thông. Thêm vào đó, các trường cũng có thể xem xét khả năng gửi các nhóm giảng viên và nhà quản lý ra nước ngoài để học tập về phương pháp, về việc quản lý và về những quan điểm triết lý quan trọng chi phối việc tổ chức một hệ thống giáo dục ĐH xuất sắc. 119
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng về việc Ban hành Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quyết định số 06 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 02 năm 2008 của Bộ trưởng về việc Ban hành Quy định đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học. 3. Chính phủ. Quyết định số 73/2005/QĐ-TTg về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết 37/2004/QH11 khoá XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục do Thủ tướng Chính phủ ban hành. 4. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ: Kinh nghiệm thế giới và thực tế ở Việt Nam. TS. Nguyễn Kim Dung Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐH Sư phạm TPHCM. 5. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ tạo động lực cho sự phát triển năng lực cá nhân của người học. PGS.TS. Phan Quang Thế, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên. 6. Chuyển sang học chế tín chỉ: cần thay đổi chương trình đào tạo và vai trò của giáo viên. Zjhra, Michelle; Bản dịch của TS. Phạm Thị Ly. 120
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tài liệu tham khảo cho hội thảo: Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ
310 p | 76 | 9
-
Nâng cao hiệu quả đào tạo Tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ ở các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay
7 p | 45 | 4
-
Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ từ cao đẳng lên đại học công nghệ kỹ thuật và sư phạm kỹ thuật
7 p | 10 | 3
-
Kiến nghị và đề xuất việc chuyển đổi đào liên thông theo hệ thống tín chỉ ở trường Đại học Hà Tĩnh
5 p | 7 | 2
-
Những thách thức và giải pháp trong đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ ở trường ĐH Sư phạm – ĐH Huế
6 p | 7 | 2
-
Những khó khăn và thách thức trong đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ tại trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai
5 p | 9 | 2
-
Một số nhận xét về thực trạng đào tạo liên thông và giải pháp thực hiện ở trường cao đẳng sư phạm
10 p | 6 | 2
-
Một số ý kiến về đảm bảo chất lượng đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ
6 p | 12 | 2
-
Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ tiềm năng và những rào cản cần vượt qua
11 p | 6 | 2
-
Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ ở nước ta quan điểm, nhận thức và giải pháp phát triển
13 p | 7 | 2
-
Đào tạo liên thông từ cao đẳng lên đại học theo hệ thống tín chỉ
8 p | 6 | 2
-
Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ từ góc nhìn bên ngoài giảng đường đại học
8 p | 7 | 2
-
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ bài toán khó giải cho các trường cao đẳng và đại học địa phương
10 p | 8 | 2
-
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ và vấn đề liên thông của văn bằng tú tài cộng hai năm của quốc tế sang cao đẳng Việt Nam
5 p | 10 | 2
-
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ mở ra cơ hội mới cho đào tạo liên thông
4 p | 10 | 2
-
Đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ ở bậc đại học - lịch sử, vai trò và vận dụng các phương pháp dạy học
10 p | 11 | 1
-
Đào tạo liên thông con đường vòng để đạt được trình độ cao hơn
7 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn