intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11”

Chia sẻ: Thanh Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:67

124
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1.1. Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính yếu trong trường THPT. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về sự chính xác tương đối, sự phụ thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học Ngữ văn luôn được quan tâm đặc biệt. “Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở THPT là trên cơ sở đã đạt được của chương trình Ngữ văn THCS, bồi dưỡng thêm một bước năng lực Ngữ văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc hiểu các văn bản...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11”

  1. Lời cảm ơn Tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Bích đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo c ủa Khoa Văn học, trường Đại học KHXH & NV và các thầy cô giáo c ủa Khoa S ư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã nhiệt tình gi ảng d ạy tôi trong su ốt 4 năm học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu, các th ầy cô và các em học sinh của trường THPT Kim Liên và THPT Cao Bá Quát (Hà N ội) đã ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và ti ến hành nghiên c ứu khóa luận. Tôi xin cảm ơn bố mẹ đã động viên, khích lệ tôi, tạo điều ki ện t ốt nhất để tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tôi xin cảm ơn những người bạn tốt đã tin tưởng, cùng tôi chia sẻ, vượt qua những khó khăn trong học tập và cuộc sống. Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2007 Tác giả Trương Thị Thùy Linh
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính yếu trong trường THPT. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về s ự chính xác tương đối, sự phụ thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học Ngữ văn luôn được quan tâm đặc biệt. “ Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở THPT là trên cơ sở đã đạt đ ược của chương trình Ngữ văn THCS, bồi dưỡng thêm một bước năng lực Ngữ văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc hiểu các văn bản thông dụng (văn, thơ, truyện), năng lực viết một số văn bản thông dụng…đồng th ời cung cấp một hệ thống tri thức về văn học dân tộc và văn h ọc th ế giới ” [1, tr.78]. Học sinh luôn tiếp xúc trước hết với văn bản và chính vì thế mà định hướng phương pháp đọc hiểu là vô cùng cần thiết. 1.2. Hoạt động đọc của học sinh hiện nay đã trở thành trọng tâm khi bình giá, phân tích, cắt nghĩa tác ph ẩm văn ch ương. Trong cu ốn Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông , A. Nhikônxki cho rằng “học sinh là độc giả tác phẩm văn học ” [41, tr.35]. Vấn đề đọc hiểu cũng đã được đề cập đến trong Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức lần 4 tại Bristane-Australia với tiêu đề “ Focus on Comprehension”. Mỗi nền văn học, mỗi thể loại, giai đoạn văn học khác nhau lại cần có những đặc trưng về kĩ năng đọc hiểu riêng. Ph ần Văn học nước ngoài trong SGK cũng là một phần quan trọng nhưng vốn không được giáo viên chú ý nhiều trong giảng dạy. D ạy bản dịch nh ư nguyên tác, không tính đến sự hỗ trợ của các yếu tố khác, đó chính là nguyên nhân dẫn tới sự hiểu sai lệch nghiêm trọng. Nguyễn Thanh Hùng đã viết “Dạy đọc hiểu là nền tảng văn hóa cho người đọc” [25, tr.13]. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  3. Điều này đặc biệt đúng khi áp dụng vào giảng dạy các tác ph ẩm văn học nước ngoài. 1.3. Khi xét nội dung của tác phẩm cần tìm hiểu một cách tương đối kĩ về những kinh nghiệm văn hóa lịch sử, phát hiện được những mối tương đồng tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Từ trước đến nay trong nhà trường việc dạy văn học nước ngoài áp dụng qui trình và phương pháp như dạy văn học Việt Nam, trong khi đó v ề ph ương diện lí luận chúng ta coi tính dân tộc như một thuộc tính. Vi ệc dạy đ ọc hiểu để khám phá, để hiều đúng văn bản chính là một yêu cầu quan trọng trong quá trình giảng dạy phần văn học nước ngoài nói chung và các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11 nói riêng. 1.4. Bộ SGK lớp 10 Nâng cao vốn bao gồm 2 bài học “ Đọc hiểu văn bản văn học” và “Đọc hiểu văn bản trung đại” nhưng thiết nghĩ như thế vẫn chưa đủ để có thể giúp học sinh khái quát kiến thức và áp d ụng cho mọi loại văn bản, đặc biệt là văn bản văn học nước ngoài với nhi ều khó khăn và rào cản về ngôn ngữ, văn hóa. Các tác ph ẩm văn xuôi n ước ngoài SGK Ngữ văn 11, mỗi tác phẩm đều có rất nhiều vấn đ ề c ần chú ý, vì thế việc xây dựng được qui trình và phương pháp đọc hi ểu h ợp lí chính là chìa khóa để hiểu đúng và sâu những vấn đ ề c ốt lõi c ủa tác phẩm. Từ những lí do như trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của đề tài này là hình thành ph ương pháp và qui trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. Qua Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  4. đó, giáo viên có thể có cái nhìn bao quát về quá trình gi ảng d ạy đ ọc hi ểu đối với tác phẩm văn học nước ngoài; đồng thời học sinh có được phương pháp đọc hiểu cơ bản khi tiếp xúc với nh ững văn b ản này, nh ờ vậy tránh được những cách hiểu sai lệch vấn đề trọng tâm trong các tác phẩm. 3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy đọc hiểu - Khách thể nghiên cứu: Các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. - Phạm vi nghiên cứu + Chương trình SGK Ngữ văn 11 + Học sinh: Lớp 11A4 THPT Kim Liên-Hà Nội (Ban KHTN) Lớp 11A1 THPT Cao Bá Quát-Hà Nội (Ban cơ bản) + Giáo viên Ngữ văn trường THPT Kim Liên, THPT Cao Bá Quát 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Trong đề tài này, tôi tập trung hoàn thành những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu về lí thuyết phương pháp đọc hiểu văn bản văn học - Nghiên cứu về những đặc trưng của tác phẩm văn h ọc nước ngoài nói chung. Từ đó tôi đưa ra những đánh giá về th ực trạng dạy và học phần văn học nước ngoài hiện nay trong h ệ th ống các trường THPT. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  5. - Xây dựng được qui trình giảng dạy đọc hiểu các tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng 2 nhóm phương pháp: 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết. - Phương pháp nghiên cứu lí luận về đọc hiểu văn bản văn học. Với phương pháp này, tôi chủ yếu vận dụng các thao tác: nghiên cứu SGK Ngữ văn 10 (Nâng cao) và SGK Ngữ văn 11, nghiên c ứu tài liệu về đọc hiểu văn bản văn học… Các tài liệu trong quá trình nghiên cứu sẽ được phân tích, tổng hợp một cách có hệ thống. - Phương pháp nghiên cứu lí thuyết về văn học nước ngoài. Tôi sẽ tìm hiểu đặc trưng của các tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào SGK nói chung và tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK 11 nói riêng để giáo viên và học sinh có cái nhìn bao quát, toàn di ện khi ti ến hành đọc hiểu văn bản văn học nước ngoài. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Tôi dự kiến tiến hành dự một số giờ học về văn học nước ngoài ở lớp 11 của 2 trường THPT Cao Bá Quát và THPT Kim Liên để có thể rút ra những nhận xét thực t ế, khách quan v ề giảng dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. - Phương pháp phỏng vấn: Với đối tượng là giáo viên Ngữ văn của trường THPT Kim Liên, tôi sẽ tiến hành phỏng vấn (khoảng 10 giáo viên) để tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi, ph ương pháp áp d ụng khi dạy học tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  6. - Phương pháp điều tra bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu của tôi sẽ bao gồm cả bảng hỏi đối với 10 giáo viên của trường THPT Kim Liên. Bảng hỏi bao gồm những câu hỏi đã được chọn lựa kĩ lưỡng, sát đề tài nghiên cứu. - Phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu: + Những phần phỏng vấn tôi ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ , tổng h ợp và sau đó hỏi ý kiến chính những giáo viên được phỏng v ấn đ ể xác đ ịnh được những ý kiến chung nhất, đánh giá xác đáng nhất về th ực trạng liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời tôi cũng tham khảo ý kiến của các giảng viên, chuyên gia trong ngành giáo dục. + Những số liệu điều tra bảng hỏi sẽ được tổng hợp, tính tỉ lệ phần trăm, tính số liệu cụ thể để làm minh chứng cho những kết luận đưa ra. Như vậy, đề tài nghiên cứu sẽ có được những nhận xét xác đáng về thực trạng việc dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11 với mục đích cuối cùng là tôi có thể xây dựng được qui trình giảng dạy đọc hiểu những tác phẩm này sao cho có hiệu quả cao nhất. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận về đọc hiểu và phương pháp đọc hiểu. Chương 2: Thực trạng giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài ở trường THPT. Chương 3: Đề xuất qui trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước ngoài SGK Ngữ văn 11. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  7. Chương I CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỌC HIỂU VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC HIỂU Cái mới trong nội dung môn Ngữ văn là vấn đề đọc hiểu. Đ ọc hiểu là khái niệm cơ bản của môn học có nội dung mới. Trước kia ta xem đọc là phương pháp trong giảng văn mà thôi và lại th ường nh ấn mạnh một cách cường điệu phương pháp đọc diễn cảm. Hiểu vi ệc đọc văn như thế chưa thấy hết được hoạt động đọc văn là con đường duy nhất để học sinh tự mình cảm nhận cái hay cái đẹp của hình th ức tồn tại của văn bản nghệ thuật; từ đó tiến tới hiểu nội dung tư tưởng khái quát về nhân tâm thế sự. Có thể nói rằng, đọc hiểu là mục đích cu ối cùng của các giai đoạn đọc và mức độ đọc. Đọc hiểu là hoạt động truy tìm và giải mã ý nghĩa c ủa văn b ản. Ý nghĩa ấy hình thành và sáng tỏ dần nh ờ sự soi chi ếu t ổng h ợp, khái quát hóa từ ý nghĩa tồn tại trong hình thức hóa ngh ệ thuật của tác ph ẩm, t ừ ý đồ sáng tạo, quan niệm nghệ thuật của nhà văn và ý nghĩa phái sinh thông qua khả năng tiếp nhận của người đọc. Đọc hiểu tuân theo lôgic khoa học, đã làm giảm đi tính chất “mơ h ồ, đa nghĩa” c ủa tác ph ẩm văn chương để sự giao tiếp nghệ thuật đi tới chiều hướng thỏa thuận nào đó. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  8. Cũng có thể nói, đọc hiểu là hoạt động cơ bản của học sinh đem tích hợp các tầng ý nghĩa của văn bản. Tùy theo loại văn bản mà ng ười đọc cần tích hợp những tri thức đọc hiểu nào. VD: Muốn đọc hiểu VHDG thì người học sinh phải được trang bị tri th ức đọc hiểu v ề thi pháp VHDG, tri thức về văn hóa dân gian, tri thức về folklore, tri thức về môi trường diễn xướng. Không có những tri thức đó không th ể đọc hi ểu được những văn bản còn nhiều điều mù mờ về thời điểm sáng tác, về tác giả, về dị bản, về vùng miền lưu truyền đối với các thể loại VHDG. 1.1. Quan điểm về đọc tác phẩm văn chương Đọc không chỉ là hoạt động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính tr ực giác và khái quát trong nếm trải của con người. Vì th ế chúng ta th ấy xuất hiện kinh nghiệm đọc và sự biến đổi cách thức và chất lượng người đọc. Đọc còn hoạt động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa từng người. Chúng ta cần phải bàn đến tính vật chất của hoạt động đ ọc. Người ta không chỉ đọc văn bản mà còn đọc sách, chẳng những đọc sách mà còn những tác phẩm văn chương. Tuy rằng văn bản, sách và tác phẩm văn chương đều mang tính hoàn chỉnh về cấu trúc nhưng độ dài ngắn, dung lượng và ý nghĩa, chức năng, bản chất, tác dụng của chúng là hết sức khác nhau. Vì vậy, cách thức đọc chúng, phương pháp và biện pháp đọc chúng không hoàn toàn đồng nhất. Theo Nguyễn Thanh Hùng, đọc tác phẩm văn chương là giải quyết vấn đề thế giới quan của các cấu trúc tồn tại trong tác phẩm, trước hết là cấu trúc ngôn ngữ, thứ đến là cấu trúc hình tượng thẩm mĩ, sau nữa là cấu trúc thẩm mĩ [25, tr.58]. Trong cấu trúc ngôn ngữ, người Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  9. đọc được tìm hiểu để nắm bắt các loại thông tin, tư tưởng hi ện th ực đời sống và tư tưởng thẩm mĩ.Tư tưởng hiện thực trong tác phẩm gợi ra sự đa dạng trong kinh nghiệm sống của từng độc giả. Đây là bức tranh đời sống vừa quen vừa lạ. Quen để chia sẻ thừa nhận. Lạ để trao đổi và suy nghĩ. Tầng lớp xuất hiện và vị trí xuất hiện của người đọc có ảnh hưởng nhiều đến mối quan hệ giữa quen và lạ trong thông tin hiện th ực đời sống mà cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm tạo ra. Có thể nói rằng, ngay từ cấu trúc cụ thể, ngôn ngữ, tư tưởng và định hướng tư tưởng sáng tạo đã có mặt, góp phần quy ết định giá trị đích thực của tác phẩm. Cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương là sự tồn tại tất yếu với những nhà văn lớn, với những nghệ sĩ tài năng. Tuy trừu tượng và tiềm ẩn nhưng cấu trúc ý nghĩa của tác ph ẩm văn ch ương được nhận ra và đánh giá trên nền tảng của cấu trúc ngôn ng ữ, c ấu trúc hình tượng thẩm mĩ. Cần lưu ý rằng, sự lĩnh hội tác phẩm văn chương thông qua hoạt động đọc bao giờ cũng xen lẫn vào nó thiên h ướng chủ quan, không th ể loại trừ “cái tôi” của người đọc ra ngoài quá trình tiếp nhận. Cũng theo những nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hùng, cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương là cấu trúc mở, là “ kết cấu vẫy gọi” (Appelestructur) bao gồm sự tham gia sáng tạo của mọi người. Vì vậy, ý nghĩa n ội dung tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn chương là kết quả của sự đ ồng thuận và nhượng bộ tỉnh táo hai chiều giữa nhà văn và ng ười đọc v ề cấu trúc hình tượng thẩm mĩ. Nói tóm lại, đọc tác phẩm văn chương là một quá trình phát hiện và khám phá nội dung ý nghĩa xã h ội, con ng ười, th ời đ ại trong c ấu trúc hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm đan xen giữa hoạt động nh ận th ức, Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  10. đánh giá và thưởng thức giá trị đích thực tồn tại trong hình th ức NT đ ộc đáo của tác phẩm. 1.2. Những thành tựu nghiên cứu hoạt động đọc tác ph ẩm văn chương Trong lịch sử nhân loại, khi nào xuất hiện văn bản kí tự d ưới hình thức cố định thì bắt đầu có hoạt động đọc. Đọc là quá trình chuy ển hóa nội dung ý nghĩa từ ghi khắc sang âm thanh lời nói, âm vang trong óc. Có thể ghi nhận ý kiến của thánh Paul trong kinh C ựu ước và Tân ước, c ủa Mạnh Tử, của Đào Tiềm, Bô-đơ-le hay Asmus…[25, tr.57] Trong tài liệu dịch, trước hết phải kể đến công trình “ Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông” của A. Nhikônxki. Ngay từ những dòng đầu tiên khi bàn đến hoạt động học của học sinh và ông đã dành phần lớn trang lược thuật những quan niệm trong nhà trường Nga về vấn đề đọc. Những luận điểm quan trọng trong công trình đ ược tác giả nhấn mạnh thuộc về vị trí của học sinh trong gi ảng d ạy h ọc t ập môn văn và thuộc về bản chất lao động trong đọc văn. Sách kh ẳng đ ịnh “học sinh là độc giả tác phẩm văn học” [41, tr.15] Trình bày hệ thống các phương pháp và biện pháp dạy học, giáo trình “Phương pháp luận dạy văn học” do Ia. Rez chủ biên đã đặt phương pháp học tập sáng tạo ở vị trí hàng đầu như là phương pháp đặc biệt đối với văn học, với tư cách là một môn học nh ằm “ phát triển cảm thụ NT, hình thành những thể nghiệm, những khuynh hướng và năng khiều NT cho học sinh bằng phương diện NT ” [26, tr.38]. Quan niệm phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là một quá trình sáng tạo, tác giả còn trình bày các biện pháp bộc lộ và thúc đ ẩy s ự đ ồng sáng t ạo của người đọc, trong đó đọc diễn cảm được xem là “ biện pháp hoạt Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  11. động đặc thù nhằm tăng cường sự đồng sáng tạo của người đọc, tạo điều kiện cho sự đồng thể nghiệm và phát triển trí tưởng tượng của người đọc” [26, tr.39] Thực chất của quá trình đọc văn là quá trình phát hiện và tổng hợp những tầng lớp ý nghĩa đã được nhà văn mã hóa trong một hệ thống kí hiệu ngôn ngữ NT. Mỗi giai đoạn của quá trình ấy lại đặt ra những nhiệm vụ nhất định cần phải giải quyết. Vì vậy hoạt động đọc sẽ được vận dụng dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, linh hoạt, h ơn m ột cách duy nhất nào đó. Một số bài viết và công trình về đọc văn ở Việt Nam xuất hiện từ những năm 80 một cách có hệ thống, như vậy là đã có sự quan tâm và những lí giải về nhiều phương diện hoạt động đọc văn. Nếu trước kia xem đọc văn chỉ là phương pháp thì bây giờ người ta xem nó là một hoạt động. Cơ sở lí luận của đọc văn, nội dung bản chất của đọc văn, khả năng vận dụng đọc văn vào nghiên cứu phê bình văn h ọc đ ến gi ảng d ạy học tập văn học đều được đề cập tới. Càng ngày nh ững người quan tâm nghiên cứu vấn đề đọc văn càng nhận ra mối quan hệ biện chứng của quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương. Đọc văn vừa là ti ền đ ề c ơ bản, vừa là kết quả xác thực của việc hiểu văn. Có đ ọc m ới hi ểu và có hiểu thì mới đọc tiếp được tác phẩm văn ch ương mà không làm tiêu tan những giá trị và ý nghĩa của nó.Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hùng đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của tác giả đến vấn đề phức tạp này: nhìn nhận trí tưởng tượng, khả năng liên t ưởng nh ư là chìa khóa mở ra thế giới NT phong phú, sinh động c ủa tác ph ẩm văn chương đồng thời năng lực liên tưởng, tưởng tượng thông qua ngôn ngữ NT là dấu hiệu chất lượng của đọc văn. Tác giả viết: “ Sự phát triển của quá trình đọc được vận động trong hoạt động liên t ưởng, t ưởng Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  12. tượng và giải thích nghệ thuật”. Theo tác giả, việc đọc hiểu văn bản góp phần hình thành và củng cố, phát triển năng lực nắm v ững và s ử dụng tiếng Việt thành thạo. Đồng thời “ năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với việc phát triển nhân cách , bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua việc đọc”, hơn nữa việc đọc còn là “phương tiện tinh thần nhiều loại khác nhau về quan điểm, thái độ, kinh nghiệm, tri thức”. [28, tr.14] Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuy ết tiếp nhận, trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn chương”, Nguyễn Thanh Hùng đã trả đọc về vị trí xứng đáng của nó trong quá trình khám phá chiều sâu của tác phẩm văn chương. “ Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn – một thứ văn bản được kiến tạo bằng thời gian ” [26, 16]. Thông qua quá trình đọc văn với những yêu cầu riêng của một hoạt động tinh th ần d ựa trên một đối tượng thẩm mĩ, mục đích tiếp nhận là hiểu đ ược tác ph ẩm văn chương. Cũng theo đó mà tác giả này đã khẳng định: “ Đọc văn chương- một con người mới ra đời, đọc văn chương là lao động khoa học, đọc văn chương là cách phát huy trực cảm, đọc văn chương là hoạt động ngôn ngữ trong môi trường văn hóa thẩm mĩ, đọc văn chương là quá trình sáng tạo, đọc văn chương là quá trình tiếp nhận nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm” [26, tr.18] Phan Trọng Luận cũng đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động đọc trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”: “Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm giác được bằng mắt bằng tai từ ngữ, hình ảnh, chi tiết… ” và “trong khi đọc, những tín hiệu ngôn ngữ, những hình ảnh cuộc sống trong bài thơ hiện lên tuần tự sáng rõ dần ”. Tác giả cũng chỉ rõ vai trò của liên tưởng Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  13. tưởng, tưởng tượng đối với hiệu quả cảm thụ của quá trình đọc sách: “Đọc sách là liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng. Sức hoạt động của liên tưởng càng mạnh bao nhiêu thì sức cảm thụ càng sâu, càng nhạy bén bấy nhiêu” [33, tr.57] Đọc văn không những được vận dụng trong nhà trường mà còn được ứng dụng rộng rãi trong giao tiếp văn hóa, trong tiếp nhận văn học, trong việc trao đổi thông tin tri thức và đời sống tinh thần nhân loại. Những trang sách kì diệu đã từng tỏa sáng tuổi thơ cơ cực, tăm tối của M. Gorki. Ông nói “Mỗi cuốn sách đều là bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con ng ười ”. Đọc sách trước hết là lao động trí tuệ mang lại niềm vui thanh khiết nhất của tâm h ồn, là s ự tự giải phóng cá nhân ra khỏi những trói buộc của hoàn cảnh để trí tuệ hóa và nhân đạo hóa con người ngày càng cao hơn. 1.3. Đọc hiểu tác phẩm văn chương Có thể nói rằng đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ m ới xu ất hi ện trong bối cảnh của sự gia tăng khối lượng tri th ức nhân lo ại theo c ấp s ố nhân. Có hàng trăm nghìn kiểu văn bản và sách cần đ ọc. M ỗi ng ười c ần tìm ra một phương pháp đọc riêng cho mình để hiểu sâu về vấn đ ề quan tâm, biết cách chọn thông tin phục vụ cho nhu cầu bản thân. Chính vì điều này mà môn Ngữ văn trong nhà trường có một vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen, phương pháp, nhận thức về hoạt động đọc, cụ thể là hoạt động đọc hiểu. Môn Ngữ văn trong nhà trường THPT không còn giới h ạn trong những văn bản nghệ thuật hư cấu mà mở rộng từ các thể loại văn học sang các phương thức biểu đạt, tự sự, miêu tả, lập luận,… nh ư đoạn trích tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn. Đọc những tác phẩm như thế có th ể Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  14. chưa hiểu được ngay. Nội dung tác phẩm cần phải được hiểu dần dần, rồi từng bước tiến tới hiểu kĩ, hiểu trọn vẹn. 1.3.1. Quan điểm về “hiểu” trong đọc hiểu tác phẩm văn chương Hiểu là nắm vững nội dung và ý nghĩa của văn bản. Hi ểu đối v ới việc đọc các văn bản không hư cấu là th ế nhưng hi ểu trong đ ọc văn chương với tư cách là văn bản hư cấu, tác phẩm NT ngôn từ thì không chỉ có thế mà là thấu đạt được những nội dung biểu hiện và ẩn tàng mà nhà văn cần nói, đáng nói và muốn nói với người đọc- nh ững người sẵn sàng chờ đón và chia sẻ. Năng lực đọc hiểu, một năng lực bao gồm các năng lực cảm nhận, lí giải, thưởng thức, ghi nhớ và đọc nhanh mà năng lực lí giải là quan trọng nhất. Đọc- hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học, tránh sự áp đặt từ bên ngoài kể cả từ th ầy cô, ngăn chặn được sự suy giảm năng lực đọc của học sinh trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ biến…Điều này rất phù hợp với qui luật tiếp nhận văn học và qui luật phát tri ển t ư duy cũng như sự hình thành nhân cách. [7, tr.20] Vấn đề đọc hiểu văn chương không hề đơn giản chút nào. Nh ững ý kiến khác nhau có rất nhiều. Đã từng tồn tại kiểu đọc văn ch ỉ bi ết đến “cái biểu đạt”, tương đương với hình thức mà bỏ qua “ cái được biểu đạt”, tức là những lớp nội dung tạo nên ch ỉnh th ể t ư tưởng NT được sáng tạo trong tác phẩm. Bôđơle, một tác giả phương Tây cũng lại cho rằng tác phẩm là “một cuộc phiêu lưu của tâm hồn” bởi vậy người đọc cũng chỉ cần kể lại những ấn tượng của mình khi đọc tác phẩm mà thôi. Phải từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, d ưới ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận và tâm lí h ọc hoạt động cũng nh ư Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  15. những quan niệm mới về tác phẩm văn chương, đọc hiểu văn chương đã được phân tích, mổ xẻ để có được khái niệm đúng đắn. Bản chất của hoạt động đọc hiểu văn bản là quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng của văn bản. Đọc không phải ch ỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc, quá trình tri giác và nhuần thấm tín hiệu để giải mã ngôn ngữ, mã ngh ệ thuật, văn hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa v ốn có của tác phẩm. Đọc là chúng ta đón đầu những gì mình đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi quay lại về với những gì đọc qua để kiểm chứng và đi tìm hợp sức của tác giả để tác ph ẩm được tái t ạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng. Độc giả là người đồng sáng tạo với nhà văn, có khác chăng là nhà văn đi từ tư tưởng đến ngôn ngữ, còn người đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư tưởng, để rồi có những sáng tạo, phát hiện và cảm nhận mà chính người viết cũng không th ể ngờ tới. Theo Valentine Asmus, “Không thể hiểu được bất cứ một tác phẩm nào, dù nó có rõ ràng đến mấy, dù sức mạnh gợi cảm và gây ấn tượng của nó lớn lao đến mấy, nếu bản thân người đọc không tự mình dám gánh ch ịu mọi được mất, dấn thân trong ý thức của mình theo con đường tác giả đã vạch ra trong tác phẩm?” [29, tr.54] Nếu như đọc là sự tiếp xúc văn bản về mặt ngôn từ, câu chữ trực tiếp thì hiểu được coi là sự tiếp xúc văn bản về mặt bên trong, tức là những nội dung tiềm ẩn. Hiểu tức là nắm vững và vận dụng được. Hiểu tức là biết kĩ và làm tốt. Hiểu một đối tượng không ch ỉ d ừng ở quan sát, nắm bắt cái bề ngoài. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  16. Muốn đọc hiểu tác phẩm văn chương người đọc phải được trang bị tri thức nhiểu loại. Các Mác từng nói “ Nếu anh muốn thưởng thức nghệ thuật, trước hết anh phải là người được giáo dục về nghệ thuật ”. Tri thức để hiểu cấu trúc ngôn ngữ là đời sống xã hội, là ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Tri thức để hiểu cấu trúc hình tượng thẩm mĩ là thể loại, là thi pháp, là phương thức trình bày NT, và tri th ức t ối c ần thiết đ ể hi ểu c ấu trúc tư tưởng là quan niệm nghệ thuật về con người, là th ế giới quan, là triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức…Quan trọng hơn cả, hiểu tác phẩm văn chương là phát hiện ra và đánh giá mối quan hệ hữu cơ giữa các tầng cấu trúc của tác phẩm: nội dung sự kiện, nội dung hình t ượng, nội dung quan niệm của tác giả. Tri thức cần có để đọc hiểu mối quan hệ phức tạp đa dạng ấy trong tác phẩm văn chương là “ tính mơ hồ và đa “tác phẩm mở”, là “tâm lí học miền sâu” (Psychoanalise), là “vô thức và huyền thoại”, là “lí thuyết tiếp nhận”, là “mĩ học” và “lí thuyết giao tiếp”… 1.3.2. Các yếu tố quan trọng trong đọc hiểu tác phẩm văn chương Đọc hiểu văn bản cần chú ý đến 3 yếu tố quan trọng: ngôn ngữ, cấu trúc hình tượng nghệ thuật và cấu trúc tư tưởng tác phẩm. a. Ngôn ngữ Ngôn ngữ là chất liệu, là hiện tượng của đời sống mang ý nghĩa phổ biến và ý nghĩa sáng tạo của cá nhân, tạo nên nét khác biệt rõ nét về phong cách tác giả. Khởi thủy của tác phẩm NT, trong đó có văn học bao giờ cũng là tiếng nói giữa con người mang sắc thái tình cảm. Ngôn ngữ không chỉ là chất liệu, không phải chỉ là phương tiện mà còn là “ kí hiệu của tình cảm” [25, tr.61]. Nghệ thuật chính là kết quả của việc sử dụng , khai thác hình thức cấu trúc ngôn ngữ. Đó là sự nắm bắt quy luật Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  17. hình thức đời sống tự nhiên nào đấy ví dụ quy luật nhịp điệu trong s ự sinh tồn bao gồm sự lặp lại, trùng điệp, đối xứng, phi đối xứng, nhanh chậm, gấp gáp,…để biểu hiện các cung bậc khác nhau của tình c ảm. Nắm vững cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm là nắm vững hình th ức tái hiện cuộc sống. Đi qua nó ta đến với cấu trúc hình tượng ngh ệ thu ật của tác phẩm. b. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật Cấu trúc hình tượng của tác phẩm là tầng biểu hiện tình cảm thẩm mĩ của nhà văn và tác phẩm. Cấu trúc hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm giúp người đọc nhìn ra được một hiện th ực mới mẻ, hiện thực được sáng tạo bằng sự tổ chức lại quan hệ xã hội giữa con người trong một thế giới được xây dựng bởi KH-NT, thế giới NT, chi tiết NT thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Người đọc đối diện với một hiện thực khác thường, mới mẻ cần được khám phá và bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng . Do đó phân tích cấu trúc hình t ượng NT này không ch ỉ nên dừng lại ở bề mặt cốt truyện và tính cách nhân vật mà ph ải chú ý đến kết cấu nội tại tức là mối quan hệ qua lại giữa nhân vật và đi ểm sáng thẩm mĩ; giữa cảnh và tình; giữa bộ phận và toàn th ể; giữa hi ển ngôn và hàm ngôn; giữa chân thực và hư cấu; giữa cái dường nh ư và cái có thể; giữa cái hợp lí và cái phi lí…để nhìn ra d ấu ấn c ủa ý th ức và vô thức lặn sâu trong đời sống và nằm sau thế giới hình tượng. Cấu trúc này là kết quả của sự liên hệ mật thiết và hoàn thi ện dần kinh nghiệm sống và kinh nghiệm thẩm mĩ. Thế giới tình cảm và nhu cầu tâm lí của con người thật phong phú trong s ự bí ẩn c ủa nó. M ột trong những bí ẩn đó là tính không nhất quán và hàm chứa đầy mâu thuẫn ở con người, bên cạnh những khả năng đọc khác nhau c ủa nó. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  18. Cấu trúc hình tượng NT thường được tổ chức thành mối quan hệ vô cùng phức tạp giữa ý thức và vô thức, chúng th ường không m ạch l ạc tuyến tính thẳng băng, không thể đối chiếu với logic hiện thực cuộc sống và hợp với suy nghĩ kiểu lí trí đời th ường mà t ự nó là s ự t ổng h ợp khái quát và huyền ảo hóa đời sống mà ta gọi là tư duy hình tượng. Do vậy mà thế giới nghệ thuật mang đậm tính ảo giác huyễn tưởng làm cho tác phẩm văn chương mơ hồ, đa nghĩa không thể đoán trước. Từ hiện thực đời sống xã hội vô tình, vô lí nhờ cấu trúc hình tượng nghệ thuật, cuộc sống trong tác phẩm vận động để giải tỏa ước mơ và giải phóng tư tưởng của nhà văn. Cuộc sống trong tác ph ẩm sẽ trở nên hữu tình, hữu lí hơn cho một lí tưởng thẩm mĩ nh ất đ ịnh. Có th ể nói, từ cấu trúc ngôn ngữ đến cấu trúc hình tượng nghệ thuật là quá trình chuyển biến, hóa sinh từ nội dung hiện thực đến hình thức NT, từ vốn có đến tạo ra một đời sống khác để con người sống cuộc đời mới phong phú và tốt đẹp hơn. [25, tr.60] Đây là cấu trúc hấp dẫn và khó khăn nhất để nắm bắt sự chuy ển hóa, khái quát và tưởng tượng của nhà văn từ đời sống tự nhiên, phiến diện đến thế giới NT sinh động, đa dạng, giàu ý nghĩa. Vì vậy, đối với loại cấu trúc này người đọc chỉ có một cách đọc thông qua bản thân, t ự chiêm nghiệm mà tích lũy kinh nghiệm NT, mới có thể cảm nhận được sự tồn tại của cấu trúc này. c. Cấu trúc tư tưởng nghệ thuật Cấu trúc tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm không thể tách rời cấu trúc ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng nhưng lại vượt qua và lớn hơn ngôn ngữ và hình tượng để tác động sâu xa đến tâm h ồn con người. Cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ đã tổ hợp được tính hạn định của cấu trúc ngôn Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  19. ngữ và cấu trúc hình tượng, đã dung hòa được tính lịch sử và tính m ở của tác phẩm. Nó là loại cấu trúc không có hình thức xác đ ịnh c ụ th ể nhưng bằng cảm xúc trí tuệ và sự cảm nhiễm thẩm mĩ, người đọc có thể nhận ra dần về số mệnh con người, sứ mệnh lịch sử và th ời đ ại chứa trong tư tưởng của tác phẩm. 1.4. Qui trình cơ bản của đọc hiểu 1.4.1. Đọc kĩ - Đọc kĩ trước hết phải đọc thật nhiều lần. Đây là một kiểu đọc có tần số cao - Những hoạt động và thao tác của đọc kĩ là: + Đọc để giới hạn quang cảnh và bối cảnh xã hội và những vấn đề của nó. Người ta cần biết đến thao tác đọc phân loại và hệ thống hóa từ ngữ, hình ảnh để tái hiện không gian và thời gian. + Đọc để tìm vấn đề (tính có vấn đề) của con người qua việc xác lập đường dây sự kiện, tình huống, trạng thái trong quan hệ v ới nhân vật văn học. 1.4.2. Đọc sâu - Đọc để biểu hiện, làm bộc lộ mối liên hệ thông nhất nhiều m ặt của đời sống và nghệ thuật, của trí tuệ và tình cảm ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản. - Những hoạt động và thao tác đọc sâu tác phẩm là: + Đọc chậm, phát hiện những cái mới lạ của từ ngữ, hình ảnh, s ự kiện của thế giới suy tư và tâm tình nhân vật qua ngôn ngữ đối tho ại, độc thoại trong giao tiếp với môi trường sống của nhân vật và tác phẩm. + Đọc và thống kê những mối quan hệ giữa nhân vật với s ự ki ện, tình huống chính. Phân loại và hệ thống hóa nhân vật theo m ối quan h ệ Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
  20. đồng hướng và nghịch hướng theo kiểu hòa giải và xung đột để xác định nhân vật (tính cách hoặc trữ tình) trung tâm. + Đọc và sơ đồ hóa mạng lưới hệ thống giữa các yếu tố hình thức và nội dung, bộ phận và toàn thể, chi tiết và chỉnh th ể, gi ữa các t ầng chuyển hóa bố cục và kết cấu, bên ngoài và bên trong tác phẩm để tìm ra kiểu tư duy nghệ thuật và phương thức trình bày nghệ thuật của tác phẩm. + Đọc và tham khảo thời điểm sáng tác, chặng đường ngh ệ thuật, sự chuyển biến tư tưởng của nhà văn để xác định cảm h ứng sáng tác của nhà văn trong tác phẩm. + Đọc những hồi kí và ghi chép của tác giả về quá trình sáng tạo tác phẩm và đọc những bài nghiên cứu phê bình tác phẩm. + Đọc nhiều, thật nhiều lần để hóa giải những băn khoăn, ng ộ nhận về một số điểm sáng thẩm mĩ và chi tiết nghệ thuật chưa có l ời đáp phù hợp với văn cảnh và văn bản, với bối cảnh thời đại và lẽ sống. 1.4.3. Đọc sáng tạo - Đọc để bổ sung những nội dung mới, làm giàu có về ý nghĩa xã hội và ý vị nhân sinh của tác phẩm. Đọc biểu hiện s ự đánh giá và thưởng thức giá trị vĩnh hằng của tác phẩm. - Những hoạt động và thao tác đọc sáng tạo: + Đọc tái hiện lại chặng đời của hình tượng nhân vật trung tâm và khái quát sự vận động của hình tượng từ đầu cho đến hết. + Đọc nhận ra giá trị và ý nghĩa của kết thúc tác ph ẩm đ ối v ới đ ời sống. Phân tích và đánh giá ý nghĩa của kết thúc tác phẩm đối v ới đời sống. Phân tích và đánh giá ý nghĩa thời đại lịch sử, ý nghĩa xã hội, đ ạo đức và ý nghĩa nghệ thuật thẩm mĩ của hình t ượng đối v ới quá kh ứ, hiện tại và tương lai. Trương Thị Thùy Linh- K49 Sư phạm Ngữ văn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2