intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài thuyết trình: Lý thuyết danh mục đầu tư

Chia sẻ: Dsfcf Dsfcf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

241
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài thuyết trình: Lý thuyết danh mục đầu tư trình bày về rủi ro và tỉ suất sinh lợi, đa dạng hóa và lý thuyết danh mục đầu tư, một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro không hệ thống, cách xác định lợi nhuận và rủi ro danh mục đầu tư trong thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài thuyết trình: Lý thuyết danh mục đầu tư

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH LÝ THUYẾT DANH MỤC ĐẦU TƯ Th ực hiện : Nhóm 03 Lớp : CHKT K22 – Đêm 3 GVHD : TS. Diệp Gia Luật Tp . HCM, tháng 12/2012 2
  2. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 PHẦN I: RỦI RO VÀ TỈ SUẤT SINH LỢI 1. Tổng quan chung Trong suốt những thập niên vừa qua, một thuận lợi lớn nhất trong lĩnh vực đầu tư đã và đang được thừa nhận rằng việc thiết lập một danh mục đầu tư tối ưu là một vấn đề không chỉ đơn giản là s ự kết hợp của nhiều đầu tư riêng lẻ mà còn có cả những đặc trưng rủi ro – tỷ suất sinh lợi mong đợi. Đặc biệt, điều đó đã chỉ ra rằng chúng ta cần phải xem xét mối quan hệ giữa những phương thức đầu tư nếu chúng ta đang xây dựng một danh mục tối ưu mà danh mục đó sẽ đáp ứng những mục tiêu đầu tư của chúng ta. Điều quan trọng là sự thừa nhận trong việc thiết lập danh mục đã được giải thích trong lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư. 2. Định nghĩa rủi ro Rủi ro là những điều không chắc chắn của những kết quả trong tương lai hay là những khả năng của kết quả bất lợi. Rủi ro còn được định nghĩa là sự sai biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Hoạt động đầu tư thường gắn liền với tình trạng không chắc chắn vì kết quả thu được có thể rơi vào các tình huống khác nhau. Các nhà kinh tế tài chính phân biệt giữa khái niệm “bất trắc” và khái niệm “rủi ro”. Bất trắc là khi có nhiều tình huống khác nhau có thể xảy ra, nhưng ta không thể biết được xác suất xảy ra các tình huống này. Hãy lấy dịch cúm gà ở châu Á vào cuối năm 2003 và đầu 2004 làm ví dụ. Việc đầu tư vào một nhà hàng đặc sản gà sẽ cho kết quả tốt nếu tình huống xảy ra là không xảy ra dịch cúm gà, nhưng có thể sẽ mất trắng nếu dịch cúm gà xảy ra. Tuy nhiên, ta nói đây là tình trạng bất trắc vì không thể dựa vào số liệu lịch sử hay các phương pháp ngoại suy khác để ước lượng xác suất xảy ra cúm gà trong một khoảng thời gian nhất định là bao nhiêu. Ngược lại, ta đề cập đến rủi ro khi có thể ước lượng được xác suất xảy ra các tình huống khác nhau. Ví dụ, lợi nhuận của một cửa hàng kem trong mùa hè tới sẽ tùy thuộc vào việc thời tiết lúc đó sẽ như thế nào. Dựa vào số liệu lịch sử, ta có thể tính xác suất cho các khoảng nhiệt độ bình quân khác nhau vào mùa hè. Trong tài chính, ta thường cho rằng các hoạt động đầu tư là “rủi ro” vì có thể ước tính được xác suất xảy ra các tình huống khác nhau dựa vào số liệu lịch sử, giống như ví dụ về nhiệt độ mùa hè. Tuy nhiên, ta luôn cần lưu ý rằng ước lượng rủi ro dựa vào thông tin quá khứ có thể không đúng bởi vì các con số quá khứ có thể thay đổi trong tương lai. 3. Phân loại rủi ro Rủi ro có thể được loại bỏ hoàn toàn bằng đa dạng hóa gọi là rủi ro không hệ thống hay còn gọi là rủi ro có thể đa dạng hóa được ( unsystematic risk) Cũng có 1 vài rủi ro mà chúng ta không thể nào tránh được dù có đa dạng hóa thế nào đi nữa. Rủi ro như vậy gọi là rủi ro thị trường hay rủi ro hệ thống hay ( systematic risk) Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro hệ thống 1
  3. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 - Thay đổi trong lãi suất. - Thay đổi trong sức mua ( lạm phát) - Những thay đổi trong kỳ vọng của nhà đầu tư về triển vọng của nền kinh tế. Một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro không hệ thống: - Năng lực và ra quyết định - Đình công - Nguồn cung ứng vật liệu - Những quy định của chính phủ về kiểm soát môi trường - Những tác động của cạnh tranh nước ngoài - Mức độ sử dụng đòn bẩy kinh tế 4. Thái độ rủi ro Sự lựa chọn giữa hai tài sản có cùng tỷ suất sinh lợi, nhà đầu tư sẽ chọn tài sản có mức độ rủi ro thấp hơn. Lý thuyết danh mục đầu tư cũng giả định rằng về cơ bản những nhà đầu tư luôn từ chối rủi ro. Bằng chứng là hầu hết các nhà đầu tư không thích rủi ro thì họ luôn theo đuổi những hình thức bảo hiểm khác nhau, bao gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm xe hơi, bảo hiểm sức khỏe. Về cơ bản, mua bảo hiểm là khoản phí tổn được trả để phòng ngừa cho những biến cố không chắc chắn trong tương lai. Khi chúng ta mua bảo hiểm, điều đó ngụ ý rằng chúng ta đang sẵn lòng trả chi phí biết trước cho chính sách bảo hiểm đã được thỏa thuận ở hiện tại để trách những chi phí tiềm ẩn lớn hơn trong tương lai, chẳng hạn như chi phí cho một tai nạn xe hơi hay một bệnh nghiêm trọng nào đó. Thêm một bằng chứng của thái độ rủi ro là s ự khác biệt trong lợi tức mong đợi (tỷ suất sinh lợi mong đợi) đối với các loại trái phiếu khác nhau, giả sử có sự khác biệt về mức độ rủi ro tín dụng. Đặc biệt, lợi tức mong đợi trên trái phiếu chúng ta đang sở hữu tăng từ AAA đến AA đến A, và hơn thế nữa – điều đó chỉ ra rằng, nhà đầu tư luôn yêu cầu một tỷ suất sinh lợi cao hơn để có thể chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn. Điều này không ám chỉ rằng mọi người đều từ chối rủi ro hay các nhà đầu tư hoàn toàn từ chối rủi ro đối với tất cả các cam kết tài chính. Và sự thật là không một ai mua bảo hiểm cho tất cả mọi thứ quanh mình. Thậm chí một vài người không mua bảo hiểm cho bất kỳ điều gì, đó có thể là một s ự lựa chọn hay bởi vì họ không có khả năng theo đuổi nó. Thêm vào đó, một vài cá nhân mua bảo hiểm liên quan đến một vài rủi ro như: tai nạn ô tô hay bệnh tật, nhưng họ cũng mua vé số và chơi game, đánh bạc tại các casino, nơi được biết đến như những khoản sinh lợi mong đợi tiêu cực, chúng ta có thể hiểu những sự tham gia đó là sự sẵn lòng chi trả cho tình trạng bị kích động bao hàm cả rủi ro. Việc kết hợp thái độ ưa thích hay không ưa thích rủi ro có thể được giải thích bởi thái độ quan tâm đến rủi ro phụ thuộc vào lượng tiền hiện có. Friedman và Savage đã nghiên cứu và cho rằng đây là trường hợp con người thích mạo hiểm cho những khoản tiền nhỏ (như vé số) nhưng lại mua bảo hiểm để bảo vệ cho chính họ chống lại những thất thoát to lớn tiềm ẩn như 2
  4. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 hỏa hoạn hoặc tai nạn. Trong khi có nhiều thái độ ứng xử khác nhau, thì giả định cơ bản của chúng ta cho rằng hầu hết các nhà đầu tư đều chuyển một khoản tiền lớn để phát triển danh mục đầu tư mà vẫn từ chối rủi ro. Vì vậy, chúng ta mong đợi một mối quan hệ đồng thuận giữa tỷ suất sinh lợi mong đợi và rủi ro mong đợi. Đặc biệt, đây cũng là điều mà nhìn chung chúng ta luôn tìm kiếm trong tương lai. 5. Lợi nhuận, rủi ro và mức bù rủi ro Một dự án đầu tư có chi phí 1 triệu đồng và chịu rủi ro như sau: sau một năm, nếu tình huống tốt xảy ra với xác suất 60%, dự án sẽ tạo nguồn thu ròng là 1,2 triệu đồng; còn nếu tình huống xấu xảy ra với xác suất 40%, dự án sẽ chỉ tạo ra 0,9 triệu đồng. Lợi nhuận của dự án trong tình huống tốt: πG = (1,2 – 1,0) = 0,2 tr.đ Lợi nhuận của dự án trong tình huống xấu: πB = (0,9 – 1,0) = -0,1 tr.đ Tiêu chí đầu tiên để nhà đầu tư đánh giá dự án này là lợi nhuận kỳ vọng, được tính như s au: E(π) = π = pGπG + pBπB = 0,6*(0,2) + 0,4*(-0,1) = 0,08 tr.đ Tuy nhiên, nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến việc dự án cho lợi nhuận kỳ vọng là bao nhiêu, mà còn muốn tìm hiểu về mức độ rủi ro của nó. Thước đo rủi ro của dự án là mức độ biến thiên của lợi nhuận so với giá trị kỳ vọng. Đó là phương sai của lợi nhuận. Độ lệch chuẩn của lợi nhuận (σπ) bằng 0,147 tr.đ. Liệu mức lợi nhuận kỳ vọng 80.000đ có đủ để chấp nhận mức rủi ro biểu thị bởi độ lệch chuẩn 147.000 đ? Để trả lời câu hỏi này, ta phải so sánh với những dự án khác. Giả sử thay vì đầu tư vào dự án trên, nhà đầu tư có thể gửi khoản tiền 1 triệu đồng vào một ngân hàng với lãi suất 5%/năm. Đây là khoản đầu tư an toàn vì có bảo hiểm tiền gửi. Lợi nhuận thu được là 50.000 đồng. So sánh lợi nhuận kỳ vọng của hai dự án, ta thấy khi chấp nhận dự án rủi ro, nhà đầu tư mong đợi được hưởng thêm một khoản lợi nhuận kỳ vọng là: 80.000 – 50.000 = 30.000 đồng so với trường hợp đầu tư vào dự án an toàn. Nói một cách khác, nhà đầu tư được hưởng một khoản bù rủi ro là 30.000 đồng khi đầu tư vào dự án rủi ro. Ta cũng có thể tính giá trị kỳ vọng và phương sai cho suất sinh lợi của dự án như s au. Suất sinh lợi của dự án trong tình huống tốt: rG = (1,2 – 1,0)/1,0 = 20% Suất sinh lợi của dự án trong tình huống xấu: rB = (0,9 – 1,0)/1,0 = -10% Suất sinh lợi kỳ vọng: 3
  5. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 E(r) = r = p GrG + p BrB = 0,6*(20%) + 0,4*(-10%) = 8% Phương sai của suất sinh lợi: Var(r) = σ2 = p G[rG – E(rG)]2 + p B[RB – E(r)]2 = 0,6*(20% – 8%)2 + 0,4*(-10% – 8%)2 = 2,16% 6. Rủi ro, suất sinh lợi và đường đẳng dụng Việc nhà đầu tư yêu cầu một mức bù rủi ro dương tức là nhà đầu tư ngại rủi ro. Còn nếu mức bù rủi ro bằng không, nhà đầu tư được gọi là trung tính về rủi ro; còn nếu mức bù rủi ro nhỏ hơn không (nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền ra để được hưởng rủi ro), thì nhà đầu tư được gọi là thích rủi ro. Ta có thể thấy trên thực tế hầu hết các nhà đầu tư ghét rủi ro. Như vậy, suất sinh lợi kỳ vọng càng cao thì độ thỏa dụng của nhà đầu tư càng lớn; nhưng phương sai (hay độ lệch chuẩn) của suất sinh lợi càng cao thì độ thỏa dụng của nhà đầu tư càng nhỏ. Ta có thể biểu diễn phương trình độ thỏa dụng của nhà đầu tư theo dạng thông dụng s au: 1 E(r) U = E(r) – A σ2 (1 ) (A = 1,2) U3 2 U2 U1 Hình 1 biểu diễn đường đẳng dụng của nhà đầu tư trên trục tọa độ suất sinh lợi kỳ vọng và độ lệch chuẩn. Dọc theo đường đẳng dụng U1, khi độ lệch chuẩn tăng lên thì nhà đầu tư cũng yêu cầu s uất sinh lợi kỳ vọng cao hơn để đảm σ bảo độ thỏa dụng không đổi. Lấy vi phân hai Hình 1: Đường đẳng dụng vế của hàm thỏa dụng ta có: ∂U ∂U ∂U / ∂σ dU = dE (r) + d σ = 0 ⇒ dE (r) = - = A σ (2) ∂E(r) ∂σ ∂U / ∂E(r) dσ 4
  6. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 Đường đẳng dụng có dạng lõm thông thường: khi độ lệch chuẩn tăng thêm 1 đơn vị, rồi 1 đơn vị, thì để giữ độ thỏa dụng không đổi, nhà đầu tư yêu cầu mức tăng thêm của s uất sinh lợi kỳ vọng ngày một cao hơn. Theo hướng tây-bắc, độ thỏa dụng của nhà đầu tư sẽ tăng lên: U3 > U2 > U1. 7. Những phương pháp ước lượng rủi ro  Bằng cách giả định tỷ suất sinh lợi được phân phối chuẩn, Mark owitz đã đo lường rủi ro thông qua phương sai hay độ lệch chuẩn. Để bắt đầu, tất cả mọi định nghĩa rủi ro về cơ bản đều xuất phát từ phân phối xác suất của tỷ suất sinh lợi. Sự phân phối này nói lên khả năng tỷ suất sinh lợi sẽ nằm giữa 1 và 1,01%, khả năng tỷ suất sinh lợi nằm giữa 1,01 và 1,02%... Ví dụ hình 1.1 mô tả sự phân phối thực nghiệm tỷ suất sinh lợi hàng tháng của quỹ Fidelity Magellan, trên cơ sở từ tháng 1/1973 đến tháng 9/1994. Theo sự phân phối này thì 26% khả năng tỷ suất s inh lợi hàng tháng của quỹ Magellan nằm trong khoảng 2,5 đến 7,5%. Sự phân phối tỷ suất sinh lợi diễn tả những khả năng của tất cả các kết quả. Đây là một kết quả phức tạp và đầy chi tiết. Điều đó có thể trả lời cho tất cả các câu hỏi về tỷ suất sinh lợi và xác suất. Sự phân phối này có thể là một dự báo hoặc một bảng tóm tắt tỷ suất sinh lợi đã xảy ra. Về mặt khái niệm nó áp dụng cho mọi loại quỹ đầu tư: cổ phiếu, trái phiếu, hoặc những quỹ đầu tư khác. Không may, xét về tổng thể, sự phân phối tỷ suất sinh lợi quá phức tạp và chi tiết. Vì vậy tất cả các sự lựa chọn phương pháp đo lường rủi ro của chúng ta sẽ cố gắng nắm bắt theo từng con số về những yếu tố cần thiết của rủi ro, điều này sẽ được trình bày một cách chi tiết hơn trong phân phối đầy đủ. Do đơn giản hóa nên định nghĩa về rủi ro ít nhất cũng có một số thiếu sót. Những phương pháp đo lường khác nhau cũng có những thiếu sót trên cơ sở những khó khăn của việc ước lượng chính xác. Như chúng ta sẽ thảo luận sau này, bằng cách giả định một phân phối chuẩn, chúng ta có thể tính toán tất cả các phương pháp đo lường rủi ro này bằng phương pháp tịnh tiến toán học giá trị trung bình và phương sai. Nhưng trước tiên chúng ta s ẽ thảo luận về khả năng này mà không cần đến giả định đó. 5
  7. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 Hình 2: Quỹ Magellan tháng 1/1973 đến tháng 9/1994 Xác suất 45% 40% 35% 30% 25% 10% 15% 10% 5% –25% –20% –15% –10% –5% 0% 5% 10% 15% 20% T ỷ suất sinh lợi  Đ Độ lệch chuẩn là phương pháp đo lường độ rộng của sự phân tán so với giá trị trung bình. Như vậy một trong những phương pháp ước lượng rủi ro được biết đến nhiều nhất là phương sai, hay độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi mong đợi. Nó là một ước lượng bằng thống kê của s ự phân tán tỷ suất sinh lợi xung quanh giá trị mong đợi, nhờ đó một phương sai hoặc độ lệch chuẩn lớn hơn sẽ biểu thị độ phân tán lớn hơn. Ý kiến này được hiểu là sự phân tán của tỷ suất sinh lợi mong đợi càng cao thì tỷ suất s inh lợi không chắc chắn trong tương lai càng cao. Một phương pháp ước lượng rủi ro khác là phạm vi tỷ suất sinh lợi. Phạm vi tỷ suất sinh lợi cho rằng một phạm vi lớn hơn của tỷ suất sinh lợi mong đợi, từ tỷ suất s inh lợi thấp nhất đến tỷ suất sinh lợi cao nhất, nghĩa là s ự không chắc chắn lớn hơn và rủi ro tùy thuộc vào tỷ suất sinh lợi mong đợi tương lai. Thông thường những nhà đầu tư quan tâm đến độ lệch chuẩn như là khả năng dễ thay đổi. Phương sai bằng bình phương độ lệch chuẩn. Ví dụ theo quỹ Magellan thì độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi hàng tháng là 6,3% và giá trị trung bình là 1,6%. Nếu tỷ suất sinh lợi này được phân phối chuẩn thì 2/3 tỷ suất s inh lợi nằm trong khoảng 6,3% của giá trị trung bình, tức là nằm giữa khoảng –4,7% và 7,9%. Thực ra 73% tỷ suất sinh lợi của quỹ Magellan nằm trong dãy đó, hơi gần với kết quả phân phối chuẩn. Giá trị trung bình hàng năm của quỹ Magellan và độ lệch chuẩn tương ứng là 19,2% và 21,8%. Khoảng 2/3 tỷ suất sinh lợi hàng năm của quỹ này nằm khoảng –2,6 đến 41%. Khi độ lệch chuẩn giảm thì dãy tỷ suất s inh lợi sẽ hẹp lại. 6
  8. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22  Độ lệch chuẩn đo lường sự k hông chắc chắn của tỷ suất sinh lợi Harry Markowitz đã định nghĩa về rủi ro như là độ lệch chuẩn và độ lệch chuẩn là tiêu chuẩn mà các tổ chức đầu tư áp dụng phổ biến từ lúc đó. Chúng ta s ẽ sử dụng độ lệch chuẩn trong cuốn sách này. Vì nó dễ hiểu và khá rõ ràng trong thống kê. Đặc biệt nó là một công cụ hữu hiệu để hình thành những danh mục đầu tư. Chỉ cần biết độ lệch chuẩn và tương quan giữa những tài sản thì chúng ta có thể tính toán được độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư. Độ lệch chuẩn có khuynh hướng tương đối ổn định theo thời gian (đặc biệt khi so sánh với giá trị trung bình của tỷ suất s inh lợi và những thước đo quan trọng khác của sự phân phối) và những nhà kinh tế tài chính đã phát triển những công cụ rất mạnh để dự báo chính xác độ lệch chuẩn. Nhưng trước khi chúng ta thảo luận chi tiết về độ lệch chuẩn, chúng ta nên thảo luận một số định nghĩa thay thế. Quan điểm phê bình độ lệch chuẩn cho thấy độ lệch chuẩn là tiêu chuẩn đánh giá khả năng của tỷ suất s inh lợi cả trên và dưới giá trị trung bình. Hầu hết các nhà đầu tư đều định nghĩa về rủi ro như sự liên quan tỷ suất s inh lợi thấp hoặc âm (mặc dù những nhà bán khống có quan điểm đối lập). Điều này đã làm phát s inh một tiêu chuẩn đánh giá rủi ro khác. Bán phương sai hoặc rủi ro sụt giá.  Bán phương sai tương tự với phương sai nhưng chỉ sử dụng tỷ suất sinh lợi dưới giá trị trung bình. Nếu như tỷ suất sinh lợi cân xứng, nghĩa là tỷ suất s inh lợi đó gần như bằng nhau và bằng x% trên hoặc dưới giá trị trung bình, thì bán phương sai chính xác bằng ½ phương sai. Nhiều tác giả phân biệt định nghĩa về rủi ro sụt giá. Một cách định nghĩa về rủi ro sụt giá là bằng căn bậc hai của bán phương sai, tương tự với mối quan hệ giữa độ lệch chuẩn và phương sai. Từ tháng 1/1973 đến tháng 9/1994, quỹ Magellan đã có bán phương sai thực hiện là 21,6 bằng 55% phương sai 39,5. Theo như hình 1.1 thì sự phân phối hơi lệch về bên trái (tỷ suất sinh lợi âm) hơn là lệch về bên phải (tỷ suất sinh lợi dương), và vì vậy bán phương sai hơi lệch hơn nửa của phương sai. Một biến thể của định nghĩa này là bán phương sai mục tiêu, là tổng quát hóa của bán phương sai được tập trung vào tỷ suất s inh lợi dưới mục tiêu, thay vì chỉ nằm dưới giá trị trung bình.  Rủi ro sụt giá chỉ tập trung hoàn toàn vào tỷ suất sinh lợi k hông mong đợi Rủi ro sụt giá chỉ tập trung hoàn toàn vào tỷ suất sinh lợi không mong đợi. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề về rủi ro sụt giá. Thứ nhất, định nghĩa về rủi ro s ụt giá không rõ ràng như định nghĩa về độ lệch chuẩn hoặc phương sai, và chúng cũng không có giá trị về mặt thống kê. Thứ hai, xét về mặt tính toán nó chính là một thách thức cho việc xây dựng danh mục đầu tư quy mô lớn. Bán phương sai kết hợp từ những tài sản cho đến danh mục đầu tư là rất khó thực hiện tốt. Thứ ba, nếu tỷ suất sinh lợi đầu tư là tương đối cân xứng thì hầu hết các định nghĩa về rủi ro sụt giá đơn giản là tỷ lệ với độ lệch chuẩn hoặc 7
  9. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 phương sai vì thế nó không chứa đựng thêm thông tin nào cả. Tỷ suất s inh lợi năng động (liên quan đến danh mục chuẩn) sẽ đối xứng. Nếu tỷ suất s inh lợi đầu tư không cân xứng thì lại càng có nhiều vấn đề về dự báo rủi ro s ụt giá. Tính không cân xứng của tỷ suất sinh lợi không ổn định với thời gian và vì thế rất khó dự báo. Rủi ro sụt giá đã thực hiện có thể không phải là một dự báo tốt về rủi ro sụt giá trong tương lai. Hơn thế nữa, chúng ta ước lượng rủi ro sụt giá với chỉ một nửa dữ liệu và vì thế chúng ta đánh mất đi sự chính xác về mặt thống kê. Vấn đề này càng nghiêm trọng hơn đối với bán phương sai mục tiêu, vì nó thường tập trung nhiều hơn vào những khả năng ở phần “đuôi” của sự phân phối này.  Khả năng thâm hụt là khả năng mà tỷ suất sinh lợi sẽ nằm dưới con số mục tiêu nào đó Khả năng thâm hụt là một định nghĩa khác về rủi ro và là một định nghĩa có lẽ có liên quan đến một khái niệm thuộc về trực giác rủi ro là gì. Ví dụ khả năng thua lỗ của quỹ Magellan hàng tháng vượt quá 10% là 3,4%. Khả năng thâm hụt có thuận lợi là gần tương tự với định nghĩa theo trực giác về rủi ro. Tuy nhiên nó phải đương đầu với những vấn đề như với rủi ro sụt giá: sự mơ hồ, khó hiểu về mặt thống kê, khó dự báo và phụ thuộc vào ý thích của nhà đầu tư cá nhân. Dự báo là một vấn đề đặc biệt gai góc và nổi bật khi mục tiêu thâm hụt trở nên thấp hơn. Trong trường hợp cực đoan, dự báo khả năng đối với thâm hụt rất lớn nó bị ảnh hưởng bởi chỉ một hoặc hai quan sát. Trong khi khả năng thâm hụt chọn một tỷ suất sinh lợi mục tiêu và tính xác suất tỷ suất sinh lợi thấp hơn mức đó thì giá trị có rủi ro chọn một xác suất mục tiêu, ví dụ: 1% hoặc 5% là khả năng tỷ suất s inh lợi thấp nhất và chuyển xác suất này thành tỷ suất s inh lợi tương ứng. Đối với quỹ Magellan, chỉ có ít nhất 1% của tất cả các tỷ suất sinh lợi vượt quá mức lỗ 20,8%. Cứ 1000$ đầu tư của quỹ thì giá trị có rủi ro là 208$.  Giá trị có rủi ro tương đương với k hả năng thâm hụt Giá trị có rủi ro quan hệ mật thiết với khả năng thâm hụt và cùng có những thuận lợi và bất lợi. Phân phối chuẩn phù hợp với phần nào trong thảo luận về số liệu thống kê rủi ro? Phân phối chuẩn là giả thiết chuẩn về nghiên cứu đầu tư mang tính học thuật và là một phân phối xuyên suốt khoa học thống kê. Nó hoàn toàn được định nghĩa bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng tỷ suất s inh lợi đầu tư không theo đúng với phân phối chuẩn, nhưng thay vào đó chúng có những phân phối rộng hơn, tức là, khả năng của những kết quả đặc biệt đối với đầu tư thực lớn hơn một phân phối chuẩn thể hiện.  Việc chọn lựa cách định nghĩa rủi ro thì tách biệt với việc chọn lựa cách thể hiện về rủi ro 8
  10. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 Tất cả những định nghĩa về rủi ro ở trên đều đã cố gắng nắm bắt được rủi ro vốn có trong phân phối “thực” của tỷ suất sinh lợi. Một hướng tiếp cận khác sẽ giả sử tỷ suất sinh lợi được phân phối chuẩn. Lúc đó giá trị trung bình và độ lệch chuẩn đúng với những con số thống kê khác: rủi ro sụt giá, bán phương sai, khả năng thâm hụt và giá trị có rủi ro. Một cách tiếp cận như vậy có lẽ đánh giá thiết thực các số liệu định lượng mà các nhà đầu tư cá nhân quan tâm nhất bằng cách sử dụng các ước lượng chính xác nhất và một s ố giả thiết hợp lý. Tổng quát hơn, điều này cho thấy rằng việc chọn lựa cách định nghĩa rủi ro thì tách biệt với việc chọn lựa cách thể hiện về rủi ro. Bất kỳ cách nào dựa vào phân phối chuẩn sẽ thúc đẩy chúng ta tập trung vào độ lệch chuẩn ở mức tài sản mà chúng ta có thể tính gộp vào mức độ rủi ro danh mục đầu tư. Lúc đó việc thể hiện con số cuối cùng độ lệch chuẩn hoặc theo phép biến đổi về toán học nào đó của độ lệch chuẩn là một vấn đề tùy theo ý thích cá nhân hơn là s ự ảnh hưởng việc chọn lựa danh mục đầu tư. Mặc dù có nhiều phương pháp ước lượng rủi ro tiềm năng, chúng ta sẽ sử dụng phương sai hoặc độ lệch chuẩn của tỷ suất s inh lợi bởi vì (1) phương pháp ước lượng này là một phần trực giác, (2) nó là một phương pháp ước lượng rủi ro được nhận định đúng và rộng, và (3) nó được dùng trong hầu hết lý thuyết mô hình định giá tài sản. 8. Tỷ suất sinh lợi  Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.  Các nhà đầu tư xem mỗi khoản đầu tư khác nhau được đại diện cho một s ự phân phối xác suất của tỷ suất s inh lợi mong đợi lên một vài thời kỳ nắm giữ.  Các nhà đầu tư luôn tối đa hóa lợi ích mong đợi trong một thời kỳ nhất định.  Các nhà đầu tư đánh giá rủi ro của danh mục dựa trên cơ sở phương sai của tỷ suất sinh lợi mong đợi.  Các nhà đầu tư căn cứ trên những quyết định độc lập của tỷ suất sinh lợi và rủi ro mong đợi, vì vậy đường cong hữu dụng của họ là một phương trình của tỷ suất sinh lợi mong đợi và phương sai (hoặc độ lệch chuẩn) của tỷ suất sinh lợi.  Với một mức độ rủi ro cho trước, các nhà đầu tư ưa thích tỷ suất sinh lợi cao hơn là một tỷ suất sinh lợi thấp. Tương tự, với một mức độ tỷ suất sinh lợi mong đợi cho trước, các nhà đầu tư lại thích ít rủi ro hơn là nhiều rủi ro. Tỷ suất sinh lợi mong đợi đối với một khoản đầu tư cụ thể được tính toán như trong bảng 3. Tỷ suất sinh lợi mong đợi đối với một tài sản rủi ro cụ thể với tập hợp tỷ suất s inh lợi tiềm năng và một giả định các khả năng bằng nhau được sử dụng trong ví dụ có thể là 11%. Tỷ suất sinh lợi mong đợi đối với một danh mục của những khoản đầu tư đơn giản là giá trị trung bình theo tỷ trọng của tỷ suất s inh lợi mong đợi đối với những khoản đầu tư cụ 9
  11. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 thể trong danh mục. Tỷ trọng này là sự cân đối tổng giá trị đối với các khoản đầu tư. Bảng 3: Tính toán tỷ suất s inh lợi với tài sản rủi ro cụ thể Tỷ suất sinh lợi mong đợi Khả năng Tỷ suất sinh lợi (% ) (% ) 0,25 0,08 0,0200 0,25 0,10 0,0250 0,25 0,12 0,0300 0,25 0,14 0,0350 E(R) = 0,1100 10
  12. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 PHẦN II: ĐA DẠNG HÓA VÀ LÝ THUYẾT DANH MỤC ĐẦU TƯ 1. Khái niệm về đa dạng hóa danh mục đầu tư  Đa dạng hoá danh mục đầu tư là việc kết hợp đầu tư vào nhiều loại chứng khoán mà các chứng khoán này không có tương quan cùng chiều với nhau một cách hoàn hảo, nhờ vậy biến động giảm lợi nhuận của chứng khoán này có thể được bù đắp bằng biến động tăng lợi nhuận của chứng khoán khác nhằm giảm bớt rủi ro khi đầu tư tài sản. Ngoài ra người ta còn đa dạng hoá nhằm cắt giảm rủi ro bằng cách đầu tư vào thị trường chứng khoán quốc tế thay vì chỉ tập trung đầu tư vào thị trường chứng khoán của một quốc gia nào đó.  Đa dạng hóa danh mục đầu tư còn được hiểu là một khái niệm bỏ vốn đầu tư vào các chứng khoán có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau trên thị trường, xây dựng lên một cơ cấu tài sản hợp lý để có thể phân tán rủi ro hay hạn chế tối đa rủi ro đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán tuy không hoàn toàn xoá bỏ hết rủi ro, nhưng nó có thể làm giảm bớt mức rủi ro theo một nguyên tắc đầu tư "không nên để tất cả trứng vào cùng một rổ".  Cụ thể hơn, giả sử bạn đang xem xét đầu tư vào một đảo quốc, ở đó có hai mùa mưa và nắng, và có hai công ty hoạt động: một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh áo đi mưa và một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh kem chống nắng. Hệ số tương quan lợi nhuận của hai công ty này là r1,2 = - 1, vì sáu tháng mùa nắng công ty sản xuất kem chống nắng thu được lợi nhuận cao trong khi công ty sản xuất áo đi mưa không có lợi nhuận. Ngược lại, sáu tháng mùa mưa, công ty sản xuất áo đi mưa thu được lợi nhuận cao trong khi công ty sản xuất kem chống nắng không có lợi nhuận. Là nhà đầu tư khôn ngoan, thay vì dồn toàn bộ vốn đầu tư vào một trong hai công ty, bạn nên đầu tư vào một danh mục gồm 50% cổ phiếu công ty sản xuất kem chống nắng và 50% cổ phiếu công ty sản xuất áo đi mưa. Như vậy, quanh năm dù mùa mưa hay mùa nắng bạn đều có cơ hội kiếm được lợi nhuận từ danh mục đầu tư trên. 2. Lý thuyết về danh mục đầu tư Một danh mục đầu tư tốt nhất là danh mục tối ưu về mặt số lượng và chủng loại chứng khoán, tức là danh mục có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. Nhà đầu tư cần nghiên cứu các loại chứng khoán khác nhau, so sánh kỳ vọng lợi nhuận và chọn loại chứng khoán có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. Điều này phụ thuộc vào nhận định riêng của nhà đầu tư, đòi hỏi nhà đầu tư phải luôn động não, khả năng tư duy, ý chí và bản lĩnh khi phân tích và đưa ra quyết định. 2.1 Xác định đường tập hợp các cơ hội đầu tư vào các tài sản rủi ro Tài sản phi rủi ro là những tài sản có độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi nhuận bằng 0. Thường là tín phiếu kho bạc hay tín phiếu do chính phủ phát hành Tài sản rủi ro: 1, 2, …, N.  Tài sản i có suất sinh lợi kỳ vọng: ri  Suất sinh lợi của tài sản i có phương sai: ii = i 2 11
  13. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22  Đồng phương sai (tích sai) giữa suất sinh lợi của tài sản i và j: ij  Tỷ lệ đầu tư vào các tài sản: w 1, w 2 , …, w N .  w1   r1    11  12 ...  1N  w  r    22 ...  2 N  W  ; R  ; Δ   2 2 21  ...   ...   ... ... ... ...         wN   rN   1N  2 N ...  NN   w1  N w  Tổng của các trọng số là 100%:  wi = 1 1 ... 1  2  = 1 TW = 1 i1  ...     wN   w1  N w  Suất sinh lợi kỳ vọng của danh mục:  w r = r1 i i r2 ... rN    = RT W = rP 2  ...  i1    wN  Phương sai của s uất s inh lợi của danh mục:   11  12 ...  1 N   w1  N N   22 ...  2 N  w   ij wi w j = w1 w2 ... wN   21   2 = WTW = 2 P i1 j 1  ... ... ... ...   ...       1 N  2 N ...  NN   wN  Đối với mỗi suất sinh lợi kỳ vọng nhất định theo yêu cầu, nhà đầu tư muốn xây dựng một danh mục sao cho phương sai của s uất s inh lợi có giá trị nhỏ nhất. Vậy, nhà đầu tư muốn tối thiểu hóa  P = WTW trên cơ sở thỏa mãn các ràng buộc: 2 1 TW = 1 (1) và R T W = rP (2) Ta có phương trình Lagrangian sau đây: 1 T L= W W + (1 – 1 TW) + ( rP – R T W) (3) 2  L 4  W  ΔW   1  R  0   L Điều kiện cần của tối thiểu hóa:   1  1T W  0 5  L T   rP  R W  0 6   12
  14. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 Từ (4), ta có các tỷ trọng tài sản tối ưu: W* =  -1 1 +  -1 R (7) Thế (7) vào (5) và (6) ta được hệ phương trình với hai ẩn số là  và : (1T Δ -11)  (1T Δ -1R )  1   T -1 ( R Δ 1)  ( R T Δ -1R )  r P  Đặt A = 1 T -1 1 ; B = 1 T-1 R = R T -11; C = R T -1 R ; và D = AC – B2 . Ta có:  A  B   1 C  Br P Ar P  B    và   B  C  r P D D Phương trình phương sai của suất s inh lợi danh mục đầu tư: 2 T T -1 -1  P = W W = W  ( 1 +   R ) =  WT1 + WT R =  +  rP Phương trình đường tập hợp các cơ hội đầu tư: 2 ArP2  2 BrP  C P = (8) D 0.20 Đường tập hợp các cơ hội đầu tư (IOS) 0.18 Suaá sin h lôï kyø ng Danh mục ArP2 2BrP C voï có min 2 0.16   P D i rP B/A 0.14 t 0.12 0.10 1/2 (1/A) 0.20 0.24 0.28 0.32 0.36 0.40 Ñoä ch chu aå leä n P 13
  15. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 2.2 Xây dựng danh mục đầu tư với các tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro Tài sản phi rủi ro có suất s inh lợi rf . Tỷ lệ đầu tư vào tài sản phi rủi ro: w0 Tỷ lệ đầu tư vào các tài sản rủi ro: w 1 , w 2 , …, w N w 0 + w 1 + w2 + … + w N = 1 hay w 0 + 1 TW = 1 hay w 0 = 1 – 1 TW Suất sinh lợi kỳ vọng của danh mục: T rP = rf w 0 + R T W = rf (1 – 1 W) + R T W T rP = rf + ( R – rf 1) W (9) Đối với mỗi suất s inh lợi kỳ vọng nhất định theo yêu cầu, nhà đầu tư muốn xây dựng một danh mục s ao cho phương sai của suất s inh lợi có giá trị nhỏ nhất. Vậy, nhà đầu tư muốn tối thiểu hóa  P = WTW trên cơ sở thỏa mãn ràng buộc (9). 2 Phương trình Lagrangian: 1 T L= W W + [ rP – rf – ( R – rf 1)TW] (10) 2 Điều kiện cần của tối thiểu hóa: L  ΔW   (R  r f 1)  0 (11) W Các tỷ trọng tài sản rủi ro tối ưu: W* =  -1 ( R – rf 1) (12) Thế (7) vào (9): T -1 rP = rf + ( R – rf 1)  ( R – rf 1) T -1 T -1 T -1 rP – rf = [( R  R ) + (1  1) rf2 – 2( R  1)rf ] = (A rf2 – 2Br f + C) Vậy: rP  r f   2 (13) Ar  2 Brf  C f Phương trình phương sai của suất s inh lợi danh mục đầu tư: 2 T T -1  P = W W = W  [ ( R – rf 1)] =  WT( R – rf 1) =  ( rP – rf ) (14) Đường thị trường vốn: 14
  16. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 Thế (13) và (14) rồi rút gọn, ta được: rP  r f P  (15) Ar 2  2Brf  C f Đường thị trường vốn (CML) là một tia đi từ vị trí của tài sản phi rủi ro và tiếp xúc với đường IOS tại một danh mục có tên gọi là danh mục tiếp xúc T. 2.3 Xác định danh mục đầu tư tiếp xúc T T vừa nằm trên CML vừa nằm trên IOS. T không chứa tài sản phi rủi ro nên ta có 1 TWt = 1 và Wt =  -1 ( R – rf 1) [từ phương trình (12)]   1 T -1 ( R – rf 1) = 1  (1T -1 R – rf 1 T-1 1) =1   = (B – Arf )-1 Vậy, Wt = (B – Arf )-1  -1 ( R – rf 1) Suất sinh lợi kỳ vọng của danh mục T: C  Brf rt = R T W t = B  Arf Phương sai của s uất s inh lợi của danh mục T: rt  r ft  t2 = WtT Wt = B  Arf 2.4 Danh mục tối ưu Nhà đầu tư s ẽ chọn danh mục đầu tư tối ưu bằng cách đầu tư một phần tiền vào danh mục tiếp xúc T và phần còn lại vào tài sản phi rủi ro tùy theo sở thích của mình về sự đánh đổi giữa suất s inh lợi kỳ vọng và rủi ro 15
  17. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 U 0.21 0.19 T rt Danh mục tiếp xúc S uaá si nh lôï kyø ng voï 0.17 Danh mục tối ưu i P rP 0.15 t Đường tập hợp 0.13 các cơ hội đầu tư Đường thị trường vốn 0.11 rt rf rf t 0.09 0.0 0.1 0.2 P 0.3 t 0.4 0.5 Ñoäleäh chuaå c n 16
  18. Lý thuyết danh m ụcđầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 2.5 Cách xác định lợi nhuận và rủi ro danh mục đầu tư trên thực tế Phần trên đây đã khuyên nhà đầu tư nên đầu tư vào danh mục đầu tư. Thế nhưng khi đầu tư danh mục đầu tư gồm nhiều chứng khoán thì làm thế nào để xác định tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tư. Các phần trước đã trình bày qua cách xác định tỷ suất lợi nhuận và rủi ro của danh mục đầu tư. Tuy nhiên, đấy chỉ mới dừng lại ở mức độ lý thuyết. Thực tế không như vậy. Nhà đầu tư không được cho sẵn dữ liệu để thay vào công thức. Muốn có dữ liệu họ phải thu thập. Thế nhưng nhà đầu tư chỉ thu thập được dữ liệu nào được công bố mà thôi. Trên thị trường, nhà nhà đầu tư chỉ thu thập được thông tin quá khứ về giá của chứng khoán hàng ngày sau khi đã khớp lệnh chứ không thể thu thập được tỷ suất lợi nhuận của chứng khoán, cũng không ai cho nhà đầu tư biết độ lệch chuẩn và hệ số tương quan lợi nhuận giữa hai chứng khoán là bao nhiêu. Vậy làm thế nào để tính được tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng và độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư? *Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư RP =W1 *R1 + W2 *R2 Phương sai lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư Độ lệch chuẩn lợI nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư Trong đó: W: tỷ trọng đầu tư của danh mục R1: tỷ suất lợi nhuận trung bình của cổ phiếu 1 R2: tỷ suất lợi nhuận trung bình của cổ phiếu 2 3. Một số cách đa dạng hoá danh mục đầu tư  Đa dạng hoá chứng khoán: Nếu đầu tư tất cả vốn vào một loại cổ phiếu, mà tình hình kinh doanh của công ty đó không được tốt, thậm chí đi đến phá sản thì nhà đầu tư không những không thu được cổ tức, mà còn bị mất cả vốn. Vậy nên, đầu tư vào nhiều loại chứng khoán, cho dù có một vài loại chứng khoán trong số đó gặp rủi ro thì vẫn có thể thu được lợi từ những chứng khoán khác để bù đắp thiệt hại.  Đa dạng hóa tổ chức phát hành: Nếu danh mục đầu tư chỉ bao gồm toàn bộ trái phiếu chính phủ thì nhà đầu tư không cần phải đa dạng hoá chủ thể phát hành, bởi vì trái phiếu chính phủ gần như không có rủi ro. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư mua trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương hoặc cổ phiếu thì việc đa dạng hoá chủ thể phát hành là một vấn đề cần được cân nhắc, bởi các loại chứng khoán này luôn tiềm ẩn một số rủi ro nhất định. Ngoài ra, có thể đa dạng hoá theo lĩnh vực kinh doanh, nguồn thu hoặc đa dạng hoá 17
  19. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 theo vị trí địa lý. 4. Lợi ích của đa dạng hóa danh mục đầu tư  Một là mở rộng phạm vi đầu tư vào nhiều công ty, nhiều lĩnh vực không có nhiều sự liên kết với nhau, nhà đầu tư có thể kiềm chế bớt sự biến động giá cả với danh mục của mình do thực tế, rất hiếm khi xảy ra trường hợp: tất cả các ngành đi lên hay đi xuống với cùng một tốc độ và trong cùng một thời kỳ. Do đó, đa dạng hóa s ẽ đảm bảo sự hoạt động ổn định hơn, ít rủi ro hơn cho nhà đầu tư.  Hai là đa dạng hóa hầu như luôn luôn có lợi cho nhà đầu tư không ưa mạo hiểm do nó giảm rủi ro trừ khi lợi tức của những chứng khoán diễn biến theo nhau một cach hoàn hảo (rất hiếm xảy ra)  Ba là những lợi tức của hai chứng khoán càng không đi kèm với nhau nhiều thì lợi ích của việc đa dạng hóa càng nhiều hơn (giảm rủi ro) 5. Hạn chế của đa dạng hóa danh mục đầu tư  Đa dạng hoá danh mục đầu tư tùy thuộc vào khả năng tài chính của mỗi nhà đầu tư. Nếu khả năng tài chính hạn chế, nhà đầu tư chỉ nên tập trung vào một vài loại chứng khoán để vòng quay của đồng vốn linh hoạt hơn.  Cho dù danh mục đầu tư được đa dạng hóa đến đâu thì cũng không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ rủi ro. Nhà đầu tư có thể giảm thiểu được rủi ro gắn liền với các chứng khoán đơn lẻ (rủi ro không có tính hệ thống), thế nhưng luôn có rủi ro thuộc về bản chất của thị trường (rủi ro hệ thống). Rủi ro này có thể ảnh hưởng đến hầu hết chứng khoán và sự đa dạng dù ở mức độ nào cũng không thể ngăn chặn được chúng.  Nhiều nhà đầu tư có quan điểm sai lầm rằng, rủi ro tỷ lệ nghịch với số lượng cổ phiếu thêm vào danh mục đầu tư, trong khi trên thực tế điều này không hề đúng. Có những nghiên cứu cho thấy, nhà đầu tư chỉ có thể giảm rủi ro đến một điểm nhất định mà tại đó, việc đa dạng hoá hơn nữa không đem lại lợi ích gì. 18
  20. Lý thuyết danh m ục đầu tư Nhóm 03 – Đêm 3 – K22 PHẦN III: CUNG CẦU & ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TÀI CHÍNH I. Cung cầu tài sản tài chính 1. Khái niệm tài s ản tài chính Tài sản tài chính (công cụ tài chính) thuộc loại tài sản vô hình. Lợi ích trong tương lai của tài sản này là quyền được hưởng các khoản tiền lãi, hay lợi nhuận trong tương lai. Những người đồng ý thực hiện việc thanh toán các dòng tiền đó trong tương lai được gọi là người phát hành tài sản tài chính; những người sở hữu tài sản tài chính được gọi là nhà đầu tư. Người phát hành có thể là chính phủ, các tổ chức tài chính hay các doanh nghiệp. Người sở hữu tài sản tài chính có thể là tổ chức hay cá nhân. Tài sản tài chính được chia thành 2 loại: công cụ nợ và công cụ vốn. - Công cụ nợ ( dept intrument): là loại tài sản tài chính mang lại cho người nắm giữ nó quyền được hưởng dòng tiền cố định được ấn định trước. Ví dụ: Trái phiếu chính phủ, Kho bạc, các khoản cho vay, … Hay nói một cách khác, các công cụ nợ có các khoản lợi tức cố định. - Công cụ vốn: là loại công cụ mà buộc người phát hành phải trả cho người nắm giữ nó một số tiền dựa vào kết quả đầu tư (nếu có) sau khi đã thực hiện xong các nghĩa vụ đối với công cụ nợ (equity instrument). Công cụ vốn thường thấy nhất là cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường). Việc đầu tư vào công cụ tài chính bị ảnh hưởng bởi những rủi ro sau đây: - Rủi ro lạm phát (purchas ing risk, inflation risk): rủi ro liên quan đến sự trượt giá (mất giá) của cash flow kỳ vọng. - Rủi ro tín dụng (credit risk) hay rủi ro sai hẹn (default risk): là rủi ro mà người phát hành hay người mượn trể hạn giao ước - Rủi ro tỷ giá (foreign-exchange risk): là loại rủi ro xảy ra khi có sự chuyển đổi giá cả sẽ làm thay đổi một cách bất lợi, kết quả là làm giảm số tiền được nhận. Tài sản tài chính có 2 chức năng kinh tế chủ yếu: - Là công cụ để chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi đến những người cần vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình. - Bằng một phương thức chuyển vốn nào đó từ người có vốn sang người cần vốn đã làm phân bổ lại những rủi ro không thể tránh khỏi do dòng tiền mà tài sản hữu hình tạo ra giữa người gọi vốn và người cung cấp vốn. Như vậy, tài sản tài chính là việc giữ một giá trị, cho phép nhận một khoản tiền (hoặc có tính thanh khoản như tiền) trong tương lai, hoặc khi kỳ hạn chấm dứt, hoặc khi bán lại tài sản đó cho bên thứ 3 một cách trực tiếp hay thông qua trung gian. Tài sản tài chính vừa chứa đựng tính rủi ro nhưng cũng vừa hứa hẹn một khoản lợi nhuận, một khả năng sinh lợi hay một giá trị thặng dư. Hoạt động quản lý danh mục tài sản tài chính nhằm cân bằng giữa rủi ro và s inh lợi. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1