intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Hóa học và công nghệ chế biến than

Chia sẻ: Chu Trường | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:96

225
lượt xem
56
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguồn nguyên liệu than đá, cấu tạo và thành phần hóa học của than, cấu tạo và thành phần hóa học của than là những nội dung chính trong 3 chương của giáo trình "Hóa học và công nghệ chế biến than". Mời các bạn cùng tham khảo để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Hóa học và công nghệ chế biến than

  1. BỘ CÔNG THƯ ƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SAO ĐỎ ******* GI¸O TR×NH HÓA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THAN Dùng cho sinh viên Đại học chính quy Ngành: Công nghệ kỹ thuật Hóa học (Tài liệu lưu hành nội bộ) 1
  2. NĂM 2015 2
  3. MỤC LỤC   3
  4. MỞ ĐẦU Năng lượng trong thế  kỷ  21  đang là vấn đề  nóng hổi trên toàn cầu. Khi   nguồn nhiên liệu dầu khí và khí đốt được dự  báo sẽ cạn kiệt trong vòng 50 đến 60   năm tới, dẫn đến giá dầu, khí ngày một tăng cao và do đó làm cho nhiều nghành sản   xuất phụ  thuộc nhiều vào nguồn nhiên liệu này phải gặp rất nhiều khó khăn, đặc  biệt là các quốc gia nhập khẩu dầu, khí. Việt Nam nằm trong top những nước tiêu  thụ  năng lượng tương đối lớn so với khu vực và trên thế  giới. Nhu cầu điện ngày   càng lớn, khả năng cân đối tài chính để khai thác và chế biến 55 ÷ 58 triệu tấn than  sau năm 2015 là rất khó khăn. Nhu cầu than riêng cho ngành điện vào năm 2020 với  công suất các nhà máy điện than là 36 nghìn MW để  sản xuất 154,44 tỷ  kWh, sẽ  tiêu thụ  67,3 triệu tấn than. Năm 2030, công suất các nhà máy nhiệt điện than là  75.748,8 MW để sản xuất 391,980 tỷ kWh, tiêu thụ tới 171 triệu tấn than. Than đá là một loại nhiên liệu hóa thạch rắn rất có ích trong các ngành công  nghiêp. Thành phần chính của than đá là cacbon, ngoài ra còn có các nguyên tố khác  như lưu huỳnh. Than đá, là sản phẩm của quá trình biến chất, là các lớp đá có màu  đen hoặc đen nâu có thể  đốt cháy được. Than đá là nguồn nhiên liệu sản xuất điện   năng lớn nhất thế  giới, cũng như  là nguồn thải khí carbon dioxide lớn nhất, được  xem là nguyên nhân hàng đầu gây nên hiện tượng  nóng lên toàn cầu. Than đá được  khai thác từ các mỏ than lộ thiên hoặc dưới lòng đất. Than đá sử  dụng nhiều trong sản xuất và đời sống. Trước đây, than dùng làm  nhiên liệu cho máy hơi nước, đầu máy xe lửa. Sau đó, than làm nhiên liệu cho nhà  máy nhiệt điện, ngành luyện kim. Gần đây than còn dùng cho ngành hóa học tạo ra  các sản phẩm như dược phẩm, chất dẻo, sợi nhân tạo. Than chì dùng làm điện cực.   Ngoài ra than còn được dùng nhiều trong việc sưởi  ấm từ  xa xưa nhưng khi cháy  chúng tỏa ra rất nhiều khí CO có thể gây ngộ độc nên cần sử dụng trong các lò sưởi   chuyên dụng có  ống khói dẫn ra ngoài cũng như  có các biện pháp an toàn khi sử  dụng chúng. Than có tính chất hấp thụ  các chất độc vì thế  người ta gọi là than hấp thụ  hoặc là than hoạt tính có khả  năng giữ  trên bề  mặt các chất khí, chất hơi, chất  tan trong dung dịch. Dùng nhiều trong việc máy lọc nước, làm trắng đường, mặt nạ  phòng độc... Từ than đá, con người có thể tạo ra hàng nghìn các hợp chất hữu cơ trung gian,  là một nguyên liệu vô cùng quan trọng trong công nghiệp tổng hợp hữu cơ. Hóa học và công nghệ chế biến than là một môn khoa học nghiên cứu về bản   chất, nguồn gốc, thành phần cấu tạo và tính chất của than đá và các sản phẩm khi  chế biến chúng. Trong giáo trình chuyên ngành này được trình bày những nội dung   rất cơ  bản và hết sức cần thiết để  cung cấp cho sinh viên hệ  đại học, cao đẳng  4
  5. ngành công nghệ  kỹ  thuật hóa học làm tài liệu học tập và tham khảo giúp ích cho  quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và công tác sau này. 5
  6. Chương 1. NGUỒN NGUYÊN LIỆU THAN ĐÁ 1.1. Nguồn gốc quá trình hình thành than 1.1.1. Khái niệm than đá Than đá là một loại nhiên liệu hóa thạch được hình thành ở  các hệ  sinh thái  đầm lầy nơi xác thực vật được nước và bùn lưu giữ  không bị  ôxi hóa và phân hủy   bởi sinh vật (biodegradation). Thành phần chính của than đá là cacbon, ngoài ra còn   có các nguyên tố khác như lưu huỳnh. Than đá, là sản phẩm của quá trình biến chất,  là các lớp đá có màu đen hoặc đen nâu có thể đốt cháy được. Than đá là nguồn nhiên  liệu  sản  xuất  điện   năng   lớn   nhất  thế   giới,   cũng  như   là   nguồn   thải   khí  carbon  dioxide lớn nhất, được xem là nguyên nhân hàng đầu gây nên hiện tượng nóng lên   toàn cầu. Than đá được khai thác từ  các mỏ than lộ thiên hoặc dưới lòng đất (hầm   lò). Thành phần của than đá chủ  yếu là cacbon cùng với một số các yếu tố khác,  chủ yếu là hydro, lưu huỳnh, oxy và nitơ. Trong suốt lịch sử, than đã được sử  dụng như là một nguồn tài nguyên năng lượng,   chủ  yếu là đốt để  sản xuất điện hoặc nhiệt và cũng được sử  dụng cho mục đích   công nghiệp, chẳng hạn như  các kim loại tinh chế. Một nhiên liệu hóa thạch, các  loại than khi cây cối chết được chuyển thành than bùn, lần lượt được chuyển đổi  thành than non, sau đó là than bitum, và cuối cùng là than đá. Điều này liên quan đến   các quá trình sinh học và địa chất diễn ra trong một thời gian dài. Các cơ quan thông   tin năng lượng ước tính than dự trữ tại 948 × 109 tấn (860 Gt). Một ước tính cho tài  nguyên là 18000 Gt. 1.1.2. Giả thuyết về nguồn gốc thực vật Than hình thành từ  sự  cacbon hóa cây cối, thực vật. Khi chết, cacbon trong   mô của chúng thường tái lưu chuyển vào môi trường khi chúng bị  phân hủy. Sự  cacbon hóa xảy ra khi vật chất thực vật chết chịu tác động của nhiệt và áp suất  trong hàng triệu năm. Những hạng than khác nhau được hình thành do sự  phối hợp   khác nhau về thời gian, nhiệt độ và áp suất tác động lên vật chất thực vật.  Hầu hết than đá trên thế  giới được hình thành trong kỷ cacbon từ  286 tới 360   triệu năm trước. Trong thời kỳ này, những khu vực rộng lớn trên bề  mặt Trái Đất  được bao phủ  bởi rừng già ẩm  ướt. Cây chết ngã xuống đầm lầy không phân hủy  hoàn toàn mà tích tụ  thành những lớp than bùn dày, ẩm ướt. Sau đó, khi đầm lầy bị  biển tràn ngập, than bùn bị vùi dưới những lớp trầm tích. Qua những thời kỳ lâu dài,   trầm tích phân rã thêm và dần khô và cứng thành than nâu hay linhit. Khi có thêm  6
  7. những lớp trầm tích mới, nhiệt và áp suất tăng cao, biến linhit thành than bitum (hắc  ín, nhựa đường). Trong vài trường hợp, áp suất gia tăng biến than bitum thành than  antraxit (hay than gầy). Than là một nguồn năng lượng không tái tạo được, vì phải mất hàng triệu năm để  hình thành. Năng lượng trong than xuất phát từ năng lượng đã được lưu trữ trong các loài  thực vật khổng lồ đã sống hàng trăm triệu năm trước đây trong khu rừng đầm lầy, ngay cả  trước khi khủng long xuất hiện. Khi những loài thực vật khổng lồ chết, chúng tích tụ hình  thành lớp ở phía dưới các đầm lầy. Nước và bụi bẩn bắt đầu chồng chất lên trên đỉnh của   cây đã chết vẫn còn. Qua hàng triệu năm dưới sự tác động của áp suất và nhiệt độ cao sâu   trong lòng đất làm biến đổi hóa học và vật lý và đẩy ra oxy hình thành các mỏ than. Cách đây từ 300 đến 350 triệu năm hình thành nên kỷ Cacbon. Một đặc điểm   nổi bật của trầm tích của vỏ quả đất trong kỷ  này là những tầng chứa than đá rất  phổ  biến được hình thành  ở  nhiều nơi trên thế  giới như  Tây Âu, Bắc Mỹ, Nga,   Trung Quốc, v.v… Đây là lần đầu tiên hình thành những mỏ lớn than đá có ý nghĩa  kinh tế trong lịch sử Trái Đất. Những tầng chứa than này là nguồn năng lượng chủ  yếu cho phát triển công nghiệp  ở  thế  kỷ  19 và ngày nay cũng vẫn còn có ý nghĩa   kinh tế quan trọng. Trong kỷ Carbon, ở những khu vực nhiệt đới, xích đạo phổ biến các lớp trầm   tích biển nông với sự xen kẽ với những lớp tướng đầm hồ, tam giác châu chứa các  vỉa than. Các nhịp trầm tích như vậy lặp đi lặp lại nhiều lần, có khi đạt tới bề dày hàng   nhiều nghìn mét. Điều này chứng tỏ trong  Carbon   ở những nơi này đã có nhiều đợt  biển ngập và biển rút, khi biển rút điều kiện đầm hồ, tam giác châu hình thành và là  nơi phát triển những khu rừng phong phú thực vật trong môi trường đầm lầy. Khi đó vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ chưa phát triển, do đó gỗ của những thân cây   chết được tích lũy và qua thời gian lâu dài vẫn không bị phân hủy nên chất đống lại rồi bị  chôn vùi dưới những lớp trầm tích mới. Đó chính là nguồn tạo than đá trong trầm tích hệ  Carbon. 7
  8.      Hình 1.1. Sự hình thành các lớp trầm tích 8
  9.      Hình 1.2. Sự hình thành các lớp than 9
  10. * Sự phát triển rầm rộ của thực vật: Đầu kỷ   Carbon   thực vật tiếp tục những dạng từ  Devon muộn, nhưng sau đó   nhanh chóng trở  nên phong phú và đa dạng. Lần đầu tiên trong Paleozoi, thực vật   trên cạn  Carbon   phát triển rầm rộ và hình thành những khu rừng thực sự, bao gồm  nhiều dạng thân mộc – Dương xỉ, Thạch tùng, Mộc tặc, v.v… Trước hết, nhóm Cây vẩy của ngành Thạch tùng phát triển rất phong phú, thân  cây có thể cao tới 30­40 m với đường kính gốc đạt tới vài mét. Thân của nhóm thực  vật này có những vết sẹo gốc lá sắp xếp hình vẩy, từ  đó mà có tên thực vật là Cây   vẩy (Lepidophyta – gốc chữ Hy Lạp, lepidos là vẩy, phyta là thực vật). Thân cây không phân cành mà chỉ hình thành một túm nhánh phân đôi  ở  ngọn   tạo thành một cái tán. Do sống trong điều kiện đầm lầy nên chúng có bộ  rễ  phân   nhánh dấu cộng tạo thành hệ  rễ  mang tên riêng là stigmaria. Các giống điển hình  của nhóm Cây vẩy này là Lepidodendron, Sigillaria. Cùng với thực vật Cây vẩy, Dương xỉ   thân đốt   và Dương xỉ  có hạt cũng rất  phát triển. Khác với Dương xỉ hiện tại, chúng là những cây cao to, ví dụ  các giống  Neuropteris, Spheopteris. Ngoài ra còn có nhiều thực vật   Thân đốt   (Mộc tặc) như  Sphenophyllum, Calamites và thực vật hạt trần cổ xưa như Cordaites. Trong các khu rừng  ở kỷ   Carbon   vai trò đầu tiên thuộc thực vật Cây vẩy, sau  đó là thực vật  Thân đốt   (Calamites, Annularia), ngoài ra còn có Dương xỉ có hạt và   các đại biểu mới xuất hiện của Tuế (Taeniopteris). Về phân bố địa lý, cũng giống như   ở Devon thực vật  ở   kỷ  Carbon   sớm mang  tính chất đồng nhất trên thế giới và phản ánh điều kiện khí hậu ấm áp. Theo nhà cổ  thực vật Nga Krishtofovish, từ   kỷ  Carbon   trung bắt đầu sự  phân hóa thành các khu  hệ và tỉnh địa lý thực vật thích ứng với những điều kiện khí hậu khác nhau. Khu hệ thực vật nhiệt đới bao trùm Bắc Mỹ, Trung Âu và Nam Âu qua Trung   Quốc phát triển đầy đủ  các dạng đặc trưng nhất của thực vật  kỷ  Carbon   như  Cây  vẩy (Lepidodendron, Sigillaria), Dương xỉ có hạt (Neuropteris, Alethopteris), Dương  xỉ thân mộc (Cordaites). Hệ thực vật này gồm những cây cao to không có vòng gỗ  hàng năm, chứng tỏ không có sự xen kẽ mùa nóng mùa lạnh; cây có lá lớn. Khu hệ Tungusk hay Angara bao trùm Bắc Nga và Bắc Á, thể hiện tính chất ôn   đới hoặc thậm chí khí hậu lạnh. Thực vật Cây vẩy mất vai trò chủ  chốt và nhường   chỗ   cho   Cordaitales.   Trong   khu   hệ   này   cũng   có   mặt   Dương   xỉ   như   Pecopteris,   Gangamopteris và Dương xỉ có hạt (Neuropteris). Cây có vòng gỗ  hàng năm chứng  tỏ có sự xen kẽ giữa mùa nóng và mùa lạnh. Khu hệ  Gondwana gồm Nam Mỹ, Nam Phi và Australia, cũng gọi là “khu hệ  Glossopteris” theo tên dạng thực vật phổ biến của Gondwana – Glossopteris. Trong   thành phần thực vật của khu hệ  này vắng mặt Cây vẩy, Dương xỉ  thân mộc và   10
  11. những dạng khác đặc trưng cho khu hệ nhiệt đới. Trong khi đó, Cordaitales đóng vai  trò quan trọng cùng với một số Dương xỉ lá nhỏ. Hình 1.3. Rừng thực vật khổng lồ cổ đại * Hoạt động kiến tạo và cổ địa lý: Hoạt động kiến tạo trong  Carbon   khá sôi động, đó là kỷ của hoạt động tạo núi  Varisci (Hercyni) do sự   xô húc   các mảng ở bán cầu bắc hiện nay.  Đó là sự   xô húc   Siberia với rìa đông Châu Âu của mảng Laurussia để tạo dãy núi  Ural. Kết quả là sự hình thành lục địa Laurasia ở bán cầu bắc, đối trọng với Gondwana   ở bán cầu nam. Sự  gắn kết các mảng  ở Đông Á phức tạp hơn, Siberia nằm ở vĩ độ  trung bình (cũng gọi là Angara); Trung Quốc gồm hai khối – Hoa Bắc và Hoa Nam  trong kỷ   Carbon   cùng nằm ở bán cầu bắc, gần xích đạo có lẽ cũng gắn kết với nhau   thành một khối (Cathaysia). Song song với những sự  kiện vừa nêu là sự   xô húc   của  Laurasia với Gondwana tạo nên dãy núi Hercynid ở Tây Âu và dãy Appalach ở Bắc Mỹ. Đó là xu hướng chung của chuyển động hội tụ  hai khối lục địa bắc và nam   trong tiến trình thành tạo siêu lục địa Pangea. Tất cả những hoạt động kiến tạo sôi   động này và vị  trí của của các lục địa trong từng thời kỳ  đều đã được minh chứng  bằng những tư liệu cổ từ. Từ kỷ Devon hai mảng lục địa Baltica và Laurentia đã gắn liền nhau thành một  lục   địa   thống   nhất,   như   vậy   ở   bán   cầu   bắc   có   hai   lục   địa   lớn   là   Laurussia  (Euramerica) và Siberia cùng với một vài khối nhỏ như Kazakhstania và Hoa Bắc (có  thể còn cả Cathaysia), còn ở phía nam vẫn là lục địa khổng lồ Gondwana.  Về đại dương, ngoài đại dương Panthalassa (Toàn Đại Dương) cũng xuất hiện  các   đại  dương   Paleotethys   và   Pleionic.   Trong   kỷ   Carbon   các   hoạt   động   kiến  tạo  diễn ra do sự di chuyển hội tụ của các lục địa trên đây. 11
  12. Hoạt  động tạo núi Varisci  là  một quá  trình  kiến  tạo lớn diễn ra  vào  cuối  nguyên đại Paleozoi, bắt đầu từ  cuối kỷ  Devon qua suốt kỷ   Carbon   cho đến cuối  Permi, gồm đến hàng chục pha, nhưng có ba pha được nhắc đến nhiều là pha Sudet  diễn ra  ở  kỷ   Carbon   sớm, pha Asturi –  Carbon   muộn và pha Ural diễn ra  ở  Permi.  Ảnh hưởng của tạo núi Varisci rộng lớn, qua hàng chục pha hoạt động tạo núi này   đã tạo nên những vùng núi uốn nếp lớn trên thế  giới, gọi là vùng núi uốn nếp  Hercynid (cũng gọi là Variscid, nhưng trong tiếng Việt nên viết Hercynid để  tránh  sự nhầm lẫn với gọi tên khoáng vật ngọc variscit). Trước hết là ở Tây Âu như  bán   đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha), Pháp, Đức, Italia, vùng Balcan và Tây Bắc  Châu Phi. Ở Nga là dãy núi Ural và vùng Pamir và Viễn Đông, ở Trung Á, Mông Cổ,  Thiên Sơn và Bắc Trung Quốc.  Ở Bắc Mỹ hoạt động tạo núi Varisci được gọi tên  là tạo núi  Alleghen   hay tạo núi Appalach, tạo nên dãy núi Appalach chạy dọc theo   rìa phía đông bắc Hoa kỳ. Tạo  núi  Varisci  ở   Tây  Âu,   Tây Bắc   Phi  và   Đông Bắc  Mỹ  là   hệ   quả  của   chuyển   động   hội   tụ   và  xô   húc   của   hai   mảng   Gondwana   và   Laurussia.   Trong  kỷ    Carbon   muộn   diễn   ra   sự   xô   húc   của   Kazakhstania   với   Siberia,   rồi   sau   đó   là  xô    húc   của Nội Mông với Siberia. Pha tạo núi Urali do sự   xô húc   của phần tây nam  mảng Siberia và mảng Kazakhstania. Kết quả  của những hoạt động địa chất trên   đây dẫn đến diện tích của lục địa tăng lên gấp bội, đồng thời các lục địa cũng được   nâng cao hơn. Nếu  ở   Carbon   sớm diện tích các vùng biển nông thềm lục địa khá   rộng, thì sang  kỷ Carbon   muộn với xu thế nâng của các lục địa nên nhiều phần của  đại dương bị  thu hẹp bớt, trở  thành những biển rìa. Điều này được minh chứng  bằng sự phổ biến những bất chỉnh hợp trong các tầng đá tuổi kỷ Carbon. Cuối cùng,  tất   cả   những   chuyển   động   tạo   núi   Varisci   dẫn   đến   sự   hình   thành   siêu   lục  địa  Pangea   vào cuối nguyên đại Paleozoi, làm thay đổi bộ mặt của thế giới – toàn bộ  thế giới chỉ còn một lục địa bao gồm tất cả các lục địa ta biết ngày nay, bao quanh  siêu lục địa  Pangea   là đại dương không bị chia cắt mà là một đại dương thống nhất   – “Toàn Đại Dương” tức là Panthalassa. Trong thiên nhiên than nằm thành từng vỉa giữa  các lớp khoáng thạch, giả  thuyết được chấp nhận nhiều nhất về nguồn gốc của than đá là: Do sự  vận động của các tầng địa chất,  thực vật được vùi lấp sâu trong lòng   đất cùng với sự  hoạt động của vi khuẩn, nhiệt độ  và áp suất cao đã biến đổi sâu  sắc xác thực vật thành than sau hàn trăm triệu năm. 1.1.3. Quá trình hình thành các loại than 12
  13. A. Than bùn Mặc dù than bùn được sử dụng như một nguồn năng lượng, nó thường không  được coi là một than. Nó là vật liệu tiền thân từ  đó than có nguồn gốc và quá trình  mà than bùn được hình thành được nghiên cứu trong các đầm lầy hiện ở nhiều nơi   trên thế giới (ví dụ, trong Okefenokee Swamp of Georgia, Mỹ, và dọc theo bờ biển   phía tây nam của New Guinea). Sự  hình thành của than bùn được điều khiển bởi  một số  yếu tố  bao gồm: (1) sự  phát triển tiến hóa của đời sống thực vật, (2) các  điều kiện khí hậu (đủ  ấm để  duy trì tăng trưởng thực vật và đủ  ẩm cho phép phân  hủy một phần của nguyên liệu thực vật và bảo tồn những than bùn) và (3) những   điều kiện vật chất của khu vực (vị  trí địa lý của nó tương đối so với nước biển  hoặc các cơ quan khác của nước, tỷ lệ sụt lún hoặc nâng     lên, và v.v..). Vùng khí hậu  nóng ẩm được cho sản xuất băng rộng của than      sáng. Khí hậu ôn đới mát, mặt khác,  được cho là để sản xuất than vụn với tương đối ít than sáng. Ban đầu, các khu vực mà một tương lai  vỉa than có thể  được phát triển phải  được nâng lên để tăng trưởng thực vật có thể được thiết lập. Khu vực gần bãi biển  hoặc các khu vực thấp trũng ven suối  ở  đủ   ẩm cho than bùn để  tạo thành, nhưng  đầm lầy cao (một số đầm lầy và vùng đồng hoang) có thể  sản xuất than bùn nếu  lượng mưa hàng năm vượt quá bốc hơi hàng năm và ít thấm hoặc thoát xảy ra. Dải  than bùn dày cần thiết cho sự hình thành than đá phát triển tại các địa điểm nơi các   điều kiện sau: chậm, liên tục sụt lún; sự  hiện diện của các cấu trúc tự  nhiên như  con đê, bờ biển, quán bar mà cung cấp cho bảo vệ khỏi tình trạng ngập úng thường   xuyên; và một nguồn cung cấp hạn chế   đếntrầm tích đó sẽ  làm gián đoạn hình  thành than bùn. Ở  những khu vực nước có thể  trở  nên khá trì trệ  (trừ  một số  con   sông đi qua đầm lầy), và nguyên liệu thực vật có thể  tiếp tục tích lũy. Vi sinh vật  tấn công các nguyên liệu thực vật và chuyển đổi nó để  than bùn.  Rất gần với bề  mặt nơi oxy là vẫn có sẵn (aerobic, hoặc oxy hóa, điều kiện), sự phân hủy của vật  liệu nhà máy sản xuất các sản phẩm chủ yếu là ở dạng khí và chất lỏng. Tuy nhiên,  với độ sâu tăng, điều kiện ngày càng trở nên yếm khí (giảm), và nấm mốc và địa y  phát triển. Quá trình hình thành than bùn­sinh hóa. Nấm không được tìm thấy dưới  khoảng 0,5 mét (khoảng 18 inch), và hầu hết các hình thức sống của vi khuẩn đã   được loại trừ  ở  độ  sâu dưới 10 mét (khoảng 30 phút). Nếu một trong hai tỷ lệ sụt  lún hoặc tỷ lệ của dòng trầm tích tăng mới, than bùn sẽ được chôn cất và ngay sau   đó các coalification quá trình địa hóa coalification­bắt đầu. Các chu kỳ có thể  được  lặp đi lặp lại nhiều lần, trong đó chiếm vỉa than nhiều tìm thấy trong một số  lưu   vực trầm tích. 13
  14. Một số  đặc điểm than được xác định bởi sự  kiện xảy ra trong quá trình hình   thành than bùn­ví dụ, tài liệu sử  dụng hàng ngày trong than là do vụ  cháy đã xảy ra   trong thời kỳ khô hạn trong khi than bùn vẫn còn hình thành. Ba yếu tố  vật lý lớn­thời gian, tăng nhi   ệt   độ, và tăng  áp – có thể   ảnh hưởng  đến quá trình chuyển hóa than. Trong thí nghiệm than chuẩn bị  nhân tạo được ảnh  hưởng bởi thời gian thử nghiệm, nhưng trong tự nhiên chiều dài của thời gian là dài   hơn đáng kể  và hiệu quả  tổng thể  của thời gian vẫn còn chưa xác định.  Low­rank       nâu) ở lưu vực sông Moscow đã được gửi trong thời gian Cacbon nhưng   than (than không được chôn sâu sắc và không bao giờ đạt đến một cấp bậc cao hơn. Lời giải  thích được chấp nhận rộng rãi nhất là sự  chuyển hóa than diễn ra để  đáp ứng với   nhiệt độ ngày càng tăng. Nói chung, nhiệt độ tăng theo chiều sâu. Địa nhiệt gradient  này trung bình khoảng 30°C (85°F) cho mỗi cây số, nhưng các dãy gradient từ  dưới   10°C (50°F) cho mỗi cây số  trong vùng trải lún rất nhanh chóng cho hơn 100°C  (212°F) cho mỗi cây số trong lĩnh vực hoạt động địa chất. Đo độ dày lớp phủ  trầm  tích và hàng ngũ than tương ứng cho thấy rằng nhiệt độ thấp hơn 200°C (390°F) là  đủ để sản xuất than antraxit xếp hạng. Hiệu quả của việc gia tăng áp lực do độ sâu  chôn cất không được xem là gây sự chuyển hóa than.  Trong thực tế, gia tăng áp lực  quá tải có thể  có tác dụng ngược lại nếu các hợp chất dễ bay hơi như khí methane  mà phải thoát ra ngoài trong sự chuyển hóa than được giữ lại.  Áp lực lớn trong lòng  đất có thể ảnh hưởng đến độ xốp và độ ẩm của than. Than có thể được phân loại theo nhiều cách. Một chế độ phân loại là theo loại  than; Các đề án phân loại than hữu ích nhất và được áp dụng rộng rãi đều dựa vào  mức độ mà than đã trải qua sự  chuyển hóa.  Mức độ khác nhau như  của sự chuyển   hóa than thường được gọi là bậc than (hoặc lớp). Ngoài những giá trị khoa học của  các hệ  thống phân loại của loại này, việc xác định cấp bậc có một số   ứng dụng   thực tế. Nhiều tài sản than được một phần được xác định theo cấp bậc, bao gồm cả  lượng nhiệt sản sinh trong quá trình đốt cháy, số lượng sản phẩm khí phát hành trên   hệ   thống   sưởi,   và   sự   phù   hợp   của   các   loại   than   cho   hóa   lỏng   hoặc   để   sản  xuất than      cốc. Than có chứa cả  hai giai đoạn hữu cơ  và vô cơ. Sau này gồm có các khoáng  chất như thạch anh và các loại đất sét có thể đã được đưa vào bởi nước chảy (hoặc  hoạt   động   gió)   hoặc   các   khoáng   chất   như pyrit và   marcasite   hình   thành   tại   chỗ  (authigenic). Một số  hình thành trong các mô thực vật sống, và những người khác   được hình thành sau quá trình hình thành than bùn hoặc than non.  Một số  khoáng  pyrite (và marcasite) có mặt trong spheroids kích cỡ micromét gọi framboid (đặt tên  cho hình quả mâm xôi như họ) mà hình thành khá sớm. Framboid là rất khó khăn để  loại bỏ bởi quá trình than làm sạch thông thường. 14
  15. Bằng cách tương tự  để  hạn khoáng      sản, nhà thực vật học người Anh  Marie  Stopes C. đề xuất trong năm 1935, hạn maceral để mô tả các thành phần hữu cơ có  trong than. Các từ  có nguồn gốc từ  tiếng Latinh macerare, có nghĩa là "hành xác".   (Tên khoáng sản thường kết thúc bằng "­ite." Sự tương ứng kết thúc cho macerals là   "­inite.") Maceral danh pháp đã được áp dụng khác nhau bởi một số petrologists than  của châu Âu người nghiên cứu đánh bóng khối than bằng cách sử  dụng phản ánh  ánh sáng kính hiển vi (thuật ngữ  của họ được dựa trên hình thái học, mối quan hệ  thực vật, và dạng hiện) và bởi một số petrologists Bắc Mỹ, những người đã nghiên  cứu lát rất mỏng (phần mỏng) than sử dụng kính hiển vi truyền ánh sáng. Hệ thống  danh pháp khác nhau đã được sử dụng. B. Kiểu than đá khác Than có thể được phân loại trên cơ sở của sự xuất hiện của họ vĩ mô (thường   được   gọi   là   loại   đá   than, lithotype,   hoặc   kohlentype). Bốn   loại   chính   được   công  nhận: Vitrain (Glanzkohle hoặc Charbon brillant), được   đặc   trưng   bởi   một   ánh   đen  óng mượt và sáng tác chủ yếu của vitrinite nhóm maceral, trong đó có nguồn gốc từ  các mô gỗ của những cây lớn. Vitrain là giòn và có xu hướng phá vỡ thành các mảnh  góc cạnh; Vitrain có lẽ  đã được hình thành trong điều kiện bề  mặt hơi khô hơn   lithotypes clarain và durain. Khi bị chôn vùi vào sâu trong đất, chúng bị ứ đọng nước   làm ngăn chặn sự phân hủy hoàn toàn của các mô thực vật thân gỗ. Clarain (Glanzstreifenkohle hoặc Charbon   bán brillant), trong   đó   có   sự   xuất  hiện giữa những người vitrain và durain và được đặc trưng bằng cách xen laminae  màu đen và sáng (thường ít hơn 1 mm dày). Các lớp sáng được cấu tạo chủ yếu của  maceral   vitrinite   và   các   lớp   màu   nhạt   của   người   kia   maceral   nhóm,   liptinite   và   inertinite. Clarain trưng bày một ánh mượt ít rực rỡ hơn của vitrain. Nó dường như  có nguồn gốc trong điều kiện mà xen kẽ  giữa  những người trong  đó durain và  vitrain được hình thành. Durain (Mattkohle hoặc Charbon mat), được đặc trưng bởi một khó khăn, kết  cấu dạng hạt và sáng tác của nhóm maceral liptinite và inertinite cũng như số lượng  tương đối lớn các khoáng chất vô cơ. Durain xảy ra trong lớp hơn 3­10 mm (khoảng   0,1­0,4   inch)   dày,   mặc   dù   lớp   hơn   10   cm   (khoảng   4   inch)   dày   đã   được   công  nhận. Durains thường xỉn đen xám màu tối. Durain được cho là đã được hình thành  trong   các   mỏ   than   bùn   dưới   mực   nước,   nơi   chỉ   có   các   thành   phần   liptinite   và   inertinite chống phân hủy và nơi có khoáng sản được tích lũy từ vô cơ lắng. Fusain (Faserkohle hoặc Charbon fibreux), mà thường được tìm thấy trong ống  kính mượt và dạng sợi rất mỏng, chỉ vài mm dày và dài cm. Hầu hết fusain là cực  15
  16. kỳ  mềm mại và dễ  dàng sụp đổ  vào một, bột sootlike tốt là đất tay.  Fusain được  cấu tạo chủ  yếu của fusinite (mô thực vật thân gỗ  thành than) và semifusinite từ  inertinite   nhóm   maceral,   đó   là   giàu   carbon   và   phản   chiếu   cao. Nó   gần   giống       củi, cả về mặt hóa học và vật lý, và được tin là đã được hình thành trong   như than các mỏ  than bùn cuốn bởi cháy rừng, bởi hoạt động của nấm tạo ra nhiệt độ  cao,   hoặc do quá trình oxy hóa dưới bề mặt của than. 1.2. Trữ lượng than trên thế giới Trữ lượng than trên thế giới và các nguồn tài nguyên rất khó đánh giá.  Mặc dù  một số những khó khăn xuất phát từ việc thiếu các dữ liệu chính xác cho từng quốc  gia, hai vấn đề cơ bản làm cho những ước tính này khó khăn và chủ  quan. Các vấn  đề  liên quan đến sự  khác biệt đầu tiên trong định nghĩa của các thuật ngữ  như trữ  lượng đã được kiểm chứng  (thường chỉ  có những số  lượng mà là thu hồi) và các   nguồn tài nguyên địa chất (thường tổng số tiền mặt than, có hoặc không thể  phục  hồi hiện nay). Các khoản dự phòng được chứng minh cho bất kỳ hàng hóa nên cung cấp một  ước tính hợp lý chính xác của số  tiền đó có thể  được thu hồi theo điều kiện vận   hành và kinh tế  hiện tại. Mỏ  than bao gồm một lớp than phải có độ  dày tối thiểu  (khoảng 0,6 mét; 2 feet) và được chôn dưới một độ  sâu tối đa (khoảng 2.000 mét;  6.600 feet) bên dưới bề mặt trái đất. Những giá trị  của độ  dày và chiều sâu không  cố  định mà thay đổi với chất lượng than, nhu cầu, sự  dễ dàng mà đá nằm phủ  có  thể  được loại bỏ (trong khai thác bề  mặt) hoặc một trục chìm để  đạt các vỉa than   (trong khai thác khoáng sản dưới lòng đất). Sự phát triển của các kỹ thuật khai thác  mỏ mới có thể làm tăng lượng than có thể được chiết xuất so với số tiền mà không   thể được gỡ bỏ.  Vấn đề thứ hai, trong đó liên quan đến việc tính toán trữ lượng, là tỷ lệ mà tại  đó một mặt hàng được tiêu thụ. Khi xem xét các dự  trữ  trên toàn thế giới của than,   số  năm than rằng sẽ có sẵn có thể  quan trọng hơn tổng lượng tài nguyên than.  So  với mức tiêu thụ  hiện nay, trữ  lượng than trên thế  giới nên kéo dài quá 300­500   năm. Một số  lượng lớn than thêm là hiện diện trong trái đất nhưng không thể  thu   hồi được tại thời điểm này. Những tài nguyên này, đôi khi được gọi là "tài nguyên  địa chất", thậm chí còn khó khăn hơn để ước tính, nhưng họ được cho là lớn hơn số  tiền dự trữ đã được chứng minh nhiều như 15 lần. Bảng 1.1. Trữ lượng than trên thế giới Antraxit và  Subbituminous và than  Trữ  Toàn bộ Quốc gia / khu vực bitum non lượng Đơn vị: triệu tấn % 16
  17. Canada 3471 3.107 6,578 0.7 Mexico 860 351 1.211 0.1 Hoa Kỳ 111.338 135.305 246.643 27.1 Tổng số Bắc Mỹ 115.669 138.763 254.432 28.0 Brazil ­ 10.113 10.113 1.1 Colombia 6.230 381 6611 0.7 Các quốc gia khác tại  1,471 1,698 3.169 0.3 Trung và Nam Mỹ Nam và Trung Mỹ 7701 12.192 19.893 2.2 Bulgaria 4 2,183 2.187 0.2 Cộng hòa Séc 2.094 3.458 5552 0.6 nước Đức 183 6556 6739 0.7 Hy Lạp ­ 3.900 3.900 0.4 Hungary 198 3159 3,357 0.4 Kazakhstan 28.151 3128 31.279 3.4 Ba Lan 14.000 ­ 14.000 15 Romania 22 472 494 0.1 Nga 49.088 107.922 157.010 17.3 Thổ Nhĩ Kỳ 278 3,908 4,186 0.5 Ukraina 16.274 17.879 34.153 3.8 Vương quốc Anh 220 ­ 220 ­ Các nước châu Âu và Á­ 1.744 22.274 24.018 2.6 Âu khác Châu Âu và Á­Âu 112.256 174.839 287.095 31.6 Nam Phi 48.750 ­ 48.750 5.4 Các nước châu Phi khác 910 174 1.084 0.1 Tổng   số   châu   Phi   và  51.502 174 51.676 5.6 Trung Đông Úc 38.600 39.900 78.500 8.6 Trung Quốc 62.200 52.300 114.500 12,6 17
  18. Ấn Độ 90.085 2.360 92.445 10.2 Indonesia 740 4,228 4968 0.5 Pakistan ­ 3.050 3.050 0.3 nước Thái Lan ­ 1,354 1,354 0.1 Việt Nam 150 ­ 150 ­ Khác các nước châu Á­ 97 215 312 ­ Thái Bình Dương Tổng   số   châu   Á­Thái  193.256 105.243 298.499 32.8 Bình Dương Tổng số thế giới 478.771 430.293 909.064 100,0 Gần 80 phần trăm tài nguyên than thu hồi trên thế  giới được điều khiển bởi  bảy quốc gia: Hoa Kỳ  (khoảng 27 phần trăm),  Nga (khoảng 17 phần trăm), Trung  Quốc (khoảng 13 phần trăm), Ấn Độ (khoảng 10 phần trăm), Nam Phi (khoảng 5  phần trăm), Ukraine (khoảng 4 phần trăm), và Kazakhstan (khoảng 3 phần trăm). Toàn   th ế   gi ới   hi ện   tiêu   th ụ   kho ả ng   4   t ỷ   t ấ n   than   hàng   năm.   M ộ t   s ố  ngành s ử  d ụ ng than làm nguyên li ệ u đầ u vào nh ư : s ả n điệ n, thép và kim lo ạ i,  xi măng và các lo ạ i ch ất đ ố t hóa l ỏ ng. Than đóng vai trò chính trong s ản xu ất   ra đi ệ n (than đá và than non), các s ả n ph ẩ m thép và kim lo ại (than c ốc). Than đóng vai trò sống còn với sản xuất điện và vai trò này sẽ còn được duy trì   trong tương lai. Khoảng 39% lượng điện sản xuất ra trên toàn thế giới là từ  nguồn  nguyên liệu này và tỷ  lệ  này sẽ vẫn được duy trì trong tương lai (dự  báo cho đến  năm 2030). Lượng tiêu thụ than cũng được dự báo sẽ tăng ở mức từ 0.9% đến 1.5%  từ nay cho đến năm 2030.  Tiêu thụ  về than cho nhu cầu trong các lò hơi sẽ tăng khoảng 1.5%/năm trong  khi than non, được sử dụng trong sản xuất điện, tăng với mức 1%/năm. Cầu về than   cốc, loại than được sử  dụng trong công nghiệp thép và kim loại được dự  báo tăng  với tốc độ 0.9%. Thị trường than lớn nhất là châu Á, chiếm khoảng 54% lượng tiêu   thụ toàn thế giới, trong đó nhu cầu chủ yếu đến từ  Trung Quốc. Một số nước khác  không có nguồn nhiên liệu tự  nhiên phải nhập khẩu than cho các nhu cầu về  năng  lượng và công nghiệp như Nhật Bản, Đài Bắc và Hàn Quốc.  1.3. Tình hình ngành công nghiệp than ở Việt Nam Vi ệ t Nam n ằ m trong top nh ững n ướ c tiêu th ụ  năng l ượ ng t ươ ng đố i lớ n  so v ớ i khu v ự c và trên th ế  gi ới. Nhu c ầu  đi ệ n ngày càng l ớ n, kh ả  năng cân   đ ố i tài chính đ ể  khai thác và ch ế  bi ến 55 ÷ 58 tri ệ u t ấn than sau năm 2015 là   rấ t khó khăn. Nhu c ầu than riêng cho ngành điệ n vào năm 2020 v ớ i công su ấ t  18
  19. các nhà máy đi ệ n than là 36 nghìn MW đ ể  s ả n xu ấ t 154,44 t ỷ  kWh, s ẽ  tiêu   th ụ  67,3 tri ệu t ấn than. Năm 2030, công su ấ t các nhà máy nhi ệ t điệ n than là  75.748,8 MW đ ể  s ả n xu ấ t 391,980 t ỷ kWh, tiêu th ụ  t ớ i 171 tri ệu t ấn than. Than   là   ngu ồ n   nhiên   li ệ u   chi ến   l ượ c   ph ụ c   v ụ   cho   các   ngành   kinh   t ế  công nghi ệ p.  Tr ữ  l ượ ng  than Vi ệt  Nam  ở   m ức   đ ộ  trung bình.   Hi ện t ạ i ch ỉ  m ỏ   than   Qu ảng   Ninh   đang   khai   thác   hi ệu   qu ả .  Than   cám   3,   cám   4   chi ếm  36,92% t ổng l ượ ng than khai thác.  M ỏ  than đ ồ ng b ằ ng Sông H ồ ng m ới đang  th ự c   hi ệ n   khai   thác   th ử   nghi ệ m.   Hàng   năm   tậ p   đoàn   Than   và   Khoáng   s ả n  Vi ệt   Nam   khai   thác   kho ả ng   40   tri ệu   t ấn   than   ph ục   v ụ   trong   n ướ c   và   xu ấ t  kh ẩ u. 19
  20. Bảng 1.2. Trữ lượng than Đông bắc Cân đối cung cầu về  than của kinh tế  Việt Nam sẽ  thiếu hụt nghiêm trọng  trong những năm sắp tới. Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than từ  Indonexia, Úc... Các  doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với các vấn đề rất phức tạp như sau : ­ Giá thành than sản xuất trong nước ngày càng giảm và giá thành cao, phối   trộn và tận dụng than có chất lượng thấp để sản xuất. Điều đó dẫn đễn những thay  đổi về công nghệ đốt và sử dụng than. ­ Than nhập khẩu có tính chất khác hoàn toàn với than antraxit Quảng Ninh do   đó các hệ thống tồn chứa, phân phối, nghiền, đốt, thải tro xỉ... đều phải được đánh  giá mức độ tương thích khi sử dụng than nhập khẩu. Không chỉ những nước không thể khai thác than mới phải nhập khẩu mà ngay   cả  các quốc gia khai thác lớn nhất thế  giới cũng phải nhập than. Nhu cầu nhập   khẩu phục vụ  cho dự  trữ  hay những nguồn than có chất lượng. Than sẽ vẫn đóng   vai trò quan trọng, đặc biệt tại các khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Tăng trưởng   của thị trường than dành cho đốt lò hơi và than cốc sẽ mạnh nhất tại châu Á, nơi mà   nhu cầu về điện, sản xuất thép, sản xuất xe hơi và nhu cầu dân sinh tăng cao theo   mức sống ngày càng được cải thiện.  Than là nguyên liệu chính để  làm chất đốt  trong các nhà máy nhiệt điện  ở  Việt Nam. Tình hình năng lượng điện ở  Việt Nam   được thống kê như sau: Bảng 1.3. Nhu cầu than trong nước 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2