Hiệu ứng tài sản
lượt xem 18
download
Trong kinh tế học, hiệu ứng tài sản (có tài liệu tiếng Việt gọi là hiệu ứng của cải, hiệu ứng thịnh vượng, ảnh hưởng của sự giàu có, v.v...) chỉ sự điều chỉnh tiêu dùng của cá nhân khi thấy giá trị tài sản (nhất là nhà ở, chứng khoán) của mình thay đổi. Người tiêu dùng có thể tiêu dùng nhiều hơn khi có nhiều tài sản hơn, và có thể tiêu dùng ít đi nếu tài sản bị giảm đi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hiệu ứng tài sản
- Hiệu ứng tài sản Trong kinh tế học, hiệu ứng tài sản (có tài liệu tiếng Việt gọi là hiệu ứng của c ải, hiệu ứng thịnh vượng, ảnh hưởng của sự giàu có, v.v...) chỉ sự đi ều chỉnh tiêu dùng c ủa cá nhân khi thấy giá trị tài sản (nhất là nhà ở, chứng khoán) của mình thay đổi. Người tiêu dùng có thể tiêu dùng nhiều hơn khi có nhiều tài sản hơn, và có thể tiêu dùng ít đi nếu tài sản bị giảm đi. Tuy liên quan đến hành vi tiêu dùng của cá nhân, song hi ện tượng hi ệu ứng tài s ản th ường được quan tâm hơn trong kinh tế học vĩ mô khi tranh luận về tác đ ộng c ủa các chính sách kinh tế và hiện tượng kinh tế tới tổng cầu. Các nghiên cứu thực nghiệm cho đến nay vẫn đưa ra kết quả không thống nhất v ề vi ệc hi ệu ứng tài sản có ý nghĩa thống kê (statistically significant) hay không. Tiêu dùng phô trương Tiêu dùng phô trương (một số tài liệu ở Việt Nam còn gọi là sự tiêu dùng nhằm thể hiện, sự tiêu dùng nhằm khoe khoang, sự tiêu thụ trưng phô) là một thuật ngữ kinh tế học để chỉ một loại hành vi tiêu dùng. Người ta tiêu dùng để cho m ọi người xung quanh th ấy mình ở đ ịa v ị xã hội nào đó, dù thực có địa vị xã đó hay không. Thuật ngữ này (ti ếng Anh: conspicuous consumption) do Thorstein Veblen (1857-1929) đặt ra vào năm 1899 trong tác phẩm The Theory of the Leisure Class[1]. Trong tác phẩm này, Veblen mô tả hành vi tiêu dùng c ủa tầng l ớp m ới giàu (Veblen gọi họ là leisure class trong tác phẩm của mình) cuối thế kỷ 19 nhờ công nghiệp hóa ở Hoa Kỳ. Nhiều nghiên cứu thống kê đã cho thấy tiêu dùng phô trương là có trong th ực t ế. Ch ẳng h ạn, Charles et al (2007)[2] cho thấy người gốc Phi và người gốc Mỹ Latinh ở Hoa Kỳ có xu h ướng dành một tỷ lệ lớn chi tiêu của mình cho những hàng hóa tr ưng di ện đ ược (nh ư ô tô, qu ần áo, đồ trang sức) hơn so với người da trắng có cùng mức sống. Grossman and Shapiro (1988) [3] tìm hiểu thấy có những người sẵn sàng mua hàng nhái (hàng gắn nhãn hi ệu n ổi ti ếng nh ưng không phải do hãng sở hữu nhãn hiệu đó sản xuất thực) hơn là mua hàng có cùng ch ất l ượng nhưng không gắn nhãn hiệu nổi tiếng chứng tỏ họ cần nhãn hi ệu để thỏa mãn nhu c ầu tr ưng phô. Nguyên nhân dẫn tới hành vi tiêu dùng phô trương được Veblen chỉ ra là: 1) sự ghen tỵ (envy) - người kém thành đạt muốn phô trương để che giấu sự kém thành đạt; và 2) sự kiêu hãnh (pride) - người ta muốn có danh tiếng thông qua phô tr ương đ ể cho công vi ệc c ủa mình suôn sẻ hơn. Các nhà kinh tế học ngày nay dùng lý thuyết trò ch ơi đ ể gi ải thích hành vi tiêu dùng này, chẳng hạn Friedman and Ostrov (2008)[4]. Các nhà kinh tế học và tâm lý học chỉ ra rằng hành vi tiêu dùng phô trương phụ thuộc vào kinh nghi ệm, nhận th ức và c ả ý th ức canh tranh của người tiêu dùng.[5] Liên quan đến hành vi tiêu dùng phô trương, Veblen còn gi ới thi ệu m ột khái ni ệm khác, gọi là hàng hóa Veblen. Đây là loại hàng hóa mà giá cả c ủa chúng càng cao thì càng h ấp d ẫn ng ười mua, bởi vì giá cả chính là thước đo của sự kiêu hãnh. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - một khái niệm kinh tế của chủ nghĩa tiền tệ - là tỷ lệ th ất nghiệp khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng dài hạn. Khái niệm này được đề xuất bởi Milton Friedman và Edmund Phelps vào năm 1968. Các gi ả thi ết c ủa kinh t ế h ọc c ổ đi ển đ ược áp KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
- dụng trong lý luận về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, đó là n ền kinh t ế ở tr ạng thái c ạnh tranh hoàn hảo, thị trường hàng hóa và thị trường lao động có khả năng đi ều ch ỉnh t ức th ời tr ước các biến động của giá cả. Trong thập niên 1960, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng h ợp đ ưa ra đ ường cong Phillips (sau này kinh tế học gọi tên rõ hơn là đường cong Phillips ngắn h ạn) đ ể ch ỉ t ương quan âm gi ữa thay đổi tỷ lệ thất nghiệp và và thay đổi tỷ lệ lạm phát. Trên c ơ sở này, h ọ cho r ằng có th ể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp nếu áp dụng các chính sách thúc đẩy tổng c ầu và chấp nhận l ạm phát gia tăng. Friedman và Phelps phản đối ý tưởng nói trên. Hai người l ập luận r ằng chính sách đánh đổi lạm phát lấy giảm thất nghiệp chỉ có giá trị trong ngắn hạn. Còn trong dài h ạn, nếu lạm phát tăng tốc thì tiền công thực tế tăng lên (tiền công danh nghĩa c ố đ ịnh theo h ợp đồng đã thành lập). Điều này có nghĩa là giá lao động tăng, nên doanh nghi ệp s ẽ gi ảm thuê mướn lao động. Tỷ lệ thất nghiệp chỉ nhất thời giảm đi, rồi sẽ quay trở lại. Nguyên nhân dẫn tới sự tồn tại của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cho là các quy đ ịnh v ề mức lương tối thiểu, sự không phù hợp giữa kỹ năng và công việc, v.v... KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
- Từ GDP đến GPI GDP (Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm trong nước) đã d ần d ần tr ở thành quen thuộc không chỉ với các nhà kinh tế, các nhà quản lý và đi ều hành t ừ Trung ương t ới địa phương, các doanh nghiệp mà cả với người dân n ước ta đ ược b ắt đ ầu t ừ Quy ết định của Thủ tướng Chính phủ số 183/TTg ngày 25/12/1992 về vi ệc Vi ệt Nam chính thức áp dụng Hệ thống Tài khoản quốc gia (SNA) trên phạm vi cả nước. GDP là một trong những chỉ tiêu quan trọng của SNA, là m ột trong những ch ỉ tiêu đ ược Qu ốc hội trong kỳ họp cuối năm thông qua cho kế hoạch phát tri ển KT-XH năm sau, và cũng là ch ỉ tiêu được coi như là quan trọng nhất cùng với các chỉ tiêu khác đ ể xem xét đánh giá tình hình phát triển KT-XH của đất nước sau một năm xây dựng và phát triển. GDP là giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng đ ược t ạo ra c ủa n ền kinh t ế trong m ột kho ảng thời gian nhất định thường là một năm. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng chỉ tiêu này ở m ỗi qu ốc gia và c ả th ế gi ới trong nhi ều năm đã qua và các năm sau được nhìn nhận dưới giác độ phát tri ển bền v ững thì GDP có nhi ều nhược điểm bởi không quan tâm đến môi trường, sinh thái nên tài nguyên đã b ị khai thác trong các hoạt động sản xuất để tạo ra sản phẩm và dịch vụ dẫn đến nhiều n ơi, nhiều lúc ch ỉ vì nhằm tăng trưởng (tăng GDP) nói chung, vì lợi nhuận nói riêng, mà đã khai thác vô t ội v ạ tài nguyên, không tính đến tác động đến môi trường, sinh thái, không tính đ ến vi ệc đ ầu t ư đ ể tái tạo lại những tài nguyên đã bị khai thác, hoặc hạn chế tối đa nh ững tác đ ộng tiêu c ực đ ến môi trường sinh thái; Theo SNA, phần khấu hao tài sản c ố đ ịnh (máy móc, thi ết b ị,...) vào tài khoản khấu hao, nhưng phần tài nguyên bị mất do khai thác và sử dụng trong quá trình ho ạt động sản xuất lại tính vào tài khoản thu nhập. Chính vì vậy, nhiều n ước, nhi ều t ổ ch ức qu ốc tế (trong đó có tổ chức thống kê Liên hợp quốc) đã nghiên c ứu đ ể tính m ột ch ỉ tiêu t ổng h ợp khác nhằm phản ảnh được sự tăng trưởng kinh tế một cách bền v ững do đã tính đ ầy đ ủ các chi phí về vốn sản xuất, vốn con người và vốn môi trường. Đó là ch ỉ tiêu GDP xanh (Green GDP). Chỉ tiêu GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần1 sau khi đã khấu trừ chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do các ho ạt đ ộng kinh t ế. Nh ư v ậy, ch ỉ tiêu GDP xanh sẽ phản ánh được thực chất phát triển kinh tế của một quốc gia trên cả ba mặt: KT, XH, môi trường. Chỉ tiêu GDP xanh đã chính thức được giới thiệu vào năm 1993 trong Dự th ảo h ướng dẫn “Gắn kết hạch toán môi trường và hạch toán kinh t ế”2 do Liên h ợp qu ốc xây d ựng nh ằm đưa ra một hệ thống gắn kết kinh tế và môi trường, gọi tắt là SEEA (System of intetrated Enviromental and Economic Accounting). GDP xanh cũng được tính theo ba phương pháp: Phương pháp sản xuất: GDP xanh = Tổng giá trị tăng thuần có tính đến yếu tố môi trường c ủa các ngành kinh t ế - Chi phí xử lý ô nhiễm môi trường do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình gây ra. Phương pháp thu nhập: GDP xanh = Tổng sản phẩm trong nước thuần - Chi phí b ảo v ệ môi tr ường và giá tr ị t ổn th ất, xuống cấp tài nguyên môi trường. Phương pháp tiêu dùng: KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
- GDP xanh = Tiêu dùng cuối cùng + Tích luỹ tài sản - Khấu hao tài sản - Chi phí bảo vệ môi trường và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi trường + Chênh l ệch xu ất, nh ập kh ẩu hàng hoá và dịch vụ. Nhiều nước đã tính thử nghiệm GDP xanh, cơ bản theo cách tính chỉ tiêu GDP xanh c ủa Liên hợp quốc đưa ra, tuy nhiên cũng tuỳ thuộc rất nhi ều vào thực trạng c ủa th ống kê t ừng n ước, đặc biệt là với các chỉ tiêu liên quan đến môi trường, mà ở đây đòi h ỏi có các thi ết b ị và đ ội ngũ cán bộ khoa học thường xuyên theo dõi việc khai thác sử dụng tài nguyên môi tr ường trong các hoạt động sản xuất cũng như các chất thải gây ô nhiễm môi tr ường. Thí d ụ, ở Nh ật Bản, tỷ lệ GDP xanh so với Tổng sản phẩm trong nước thuần (theo giá hiện hành), như sau: 1995: 98,8%. Còn ở Trung Quốc đã tính thử 1970: 91,5%; 1980: 97,9%; 1990: 98,8%; nghiệm cho năm 1992 (theo giá hiện hành), tỷ lệ là: 82,31%. Nước ta cũng bắt đầu nghiên cứu việc tính chỉ tiêu GDP xanh, nhưng m ới ở m ức đ ộ nh ư các đề tài nghiên cứư khoa học ở các cấp độ khác nhau, như: Đ ề tài ở Trung tâm Thông tin và D ự báo Kinh tế-xã hội quốc gia là đề tài Cấp Bộ, cũng liên quan đ ề tài này ở Vi ện Khoa h ọc Thống kê (Tổng cục Thống kê) là đề tài cấp Cơ sở... Chính vì vậy, kết qu ả các đ ề tài m ới dừng lại nêu vấn đề cần thiết, những vấn đề lý thuyết... còn chưa có một kết quả có tính định lượng chỉ tiêu GDP xanh một năm nào đó. Chỉ tiêu tiến bộ đích thực (GPI - Genuine Progress Indicator) Nếu như GDP xanh đã khắc phục một phần nào hạn chế về phạm vi tính c ủa ch ỉ tiêu GDP dưới giác độ phát triển bền vững, nhưng GDP xanh vẫn bao gồm những ho ạt đ ộng (đúng ra xã hội không mong muốn) và lại không bao gồm m ột số ho ạt đ ộng luôn c ần cho xã h ội và chắc chắn sẽ còn rất cần cho xã hội trong tương lai n ếu đ ược xem xét d ưới giác đ ộ ti ến b ộ của xã hội, sự thịnh vượng trong phạm vi quốc gia và cả thế gi ới, nghĩa là nh ững ph ạm vi mà chỉ tiêu GDP đang tính và chưa tính. Thật vậy, với phạm vi tính GDP hiện nay, thì có quá nhiều “nghịch lý” không th ể ch ấp nh ận dưới giác độ tiến bộ của xã hội. Chẳng hạn, những hoạt động cho việc theo dõi, hạn ch ế t ội phạm, các khoản chi về ly hôn, về lập gia đình mới (sau ly hôn) đều được tính vào giá tr ị s ản xuất (GO), được tính vào GDP; Phát triển ngành công nghi ệp sản xu ất vũ khí, xu ất kh ẩu vũ khí, tăng cường lực lượng vũ trang... cũng làm tăng GDP; Các ho ạt đ ộng kinh t ế gây ô nhi ễm và sau đó là các hoạt động khắc phục ô nhiễm đều được tính vào GDP (thí d ụ, sự ki ện nhà máy Vedan (Đồng Nai) sản xuất bột ngọt xả nước thải ra sông Thị Vải đã vi ph ạm Lu ật Môi trường nhiều năm qua, gây nhiều thiệt hại cho môi trường, sinh thái và nhiều ho ạt động kinh tế và đời sống của nhân dân như mọi người đã biết); Nhi ều hoạt động kinh t ế ph ải s ử d ụng tài nguyên (khai thác than, khoáng sản, dầu, khí, gỗ, n ước,...) có những tài nguyên không tái tạo được (than, quặng, dầu,...) có nghĩa là làm suy kiệt tài nguyên được tính làm tăng VA, nhưng lại không coi đó là các hoạt động làm giảm sút tài sản,...; GDP không tính đ ến s ự phân bổ thu nhập, vì có thể GDP tăng, nhưng người dân lại phải sống trong môi tr ường b ị ô nhi ễm (khí thải, bụi, tiếng ồn, nước không sạch,...), an ninh xã hội gi ảm, có nghĩa là sự “ti ến b ộ” trong cuộc sống không tăng mà lại còn giảm đi; GDP lại b ỏ qua các kho ản vay n ợ n ước ngoài để tiêu dùng (nhập siêu), các khoản tiêu dùng (tiêu dùng chính phủ và tiêu dùng cá nhân) cũng được tính vào GDP và nó trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc gia nhiều năm sau. Trong khi đó, nhiều hoạt động rất cần thiết cho mỗi gia đình, cho xã h ội lại không đ ược quan tâm đến, như: các công việc nội trợ, các hoạt động cộng đồng hoàn toàn t ự nguyện... không được tính vào GDP. Điều này có nhiều nguyên nhân thuộc ph ương pháp tính, ph ạm vi tính KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 4
- GDP, mà quan trọng hơn các hoạt động đó không được ti ền tệ hoá (làm sao tính đúng và đ ủ giá trị công sức các bà vợ ở nhà làm nội trợ và dạy dỗ con cái... bằng đơn vị tiền tệ). Do phạm vi tính GDP, cho nên nếu sử dụng chỉ tiêu đánh giá s ự ti ến b ộ c ủa m ột qu ốc gia trên thực tế là không đầy đủ, và có những bất cập vì nó không phản ảnh sự ti ến b ộ c ủa xã h ội, s ự lành mạnh của xã hội, sự lành mạnh của môi trường, sự đáp ứng các nhu c ầu v ề th ể chất và tinh thần của người dân để cuộc sống của họ có chất lượng hơn... B ằng vi ệc so sánh ở m ột số quốc gia, người ta thấy có xu hướng sự tăng lên theo GDP bình quân đầu người th ường cao hơn sự tăng lên về thịnh vượng kinh tế, về sự tiến bộ của xã hội. Chính vì vậy, cách đây gần hai chục năm, Liên hợp quốc đã có chương trình hoàn thi ện các ch ỉ tiêu đo lường sự tiến bộ của mỗi quốc gia. Tìm kiếm m ột ch ỉ tiêu có k ết h ợp v ới vi ệc b ảo v ệ môi trường, với việc nâng cao cuộc sống vật chất và tinh th ần c ủa ng ười dân đ ược c ải thi ện, có chất lượng cao hơn. Do đó, cách đây hơn chục năm, m ột trong nh ững thay th ế đ ầu tiên cho GDP trong đánh giá tiến bộ của xã hội là Chỉ tiêu ti ến b ộ đích th ực (Genuine Progress Indicator - GPI) được các tổ chức phi chính phủ, m ột số qu ốc gia nghiên c ứu áp d ụng và coi như là một chỉ tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển bền vững của quốc gia. GDI đã xem xét, bổ sung thêm hoặc loại bỏ (không tính) nếu so với phạm vi tính GDP gồm 20 phạm vi khác nhau, có thể gồm vào một số nhóm sau: Các công việc nội trợ, lao động tự nguyện và giáo dục cao sẽ được tính vào GPI (GDP không tính phạm vi hoạt động này); - Các chi phí kinh tế cho các hoạt động liên quan đến t ội phạm, nh ư: phí t ổn v ề pháp lu ật, t ổn hại về sức khoẻ về tài sản... GDP tính cả các tổn phí này, trong khi GPI không tính các chi phí phát sinh do tội phạm; - Các hoạt động sử dụng tài nguyên thiên nhiên có giá tr ị mai sau, nó không t ạo ra và càng không làm tăng thêm sự thịnh vượng hôm nay, mà thực chất là s ự “vay m ượn” th ế h ệ mai sau. GDP tính cả sự vay mượn này vào thu nhập hôm nay, còn GPI thì ng ược l ại không tính. Những suy giảm hoặc làm thoái hoá rừng, đất đai, và mất đi của các tài nguyên không th ể khôi phục được (khoáng sản, nhiên liệu trong lòng đất,...) thì đ ược coi là phí t ổn hi ện t ại khi tính GPI. - Hiện tượng ô nhiễm do các hoạt động sản xuất và chi phí khắc phục ô nhiễm này được tính như là lợi ích kép khi tính GDP. Còn GPI lại tr ừ các chi phí do ô nhi ễm (không khí, n ước,...) bằng những thiệt hại thực tế về sức khoẻ của con người và môi trường. - Thiệt hại môi trường lâu dài (sự nóng lên c ủa trái đất, các h ệ qu ả sau đó nh ư n ước bi ển dâng lên, diện tích đất bị thu hẹp, bão lụt, n ắng hạn tăng lên,...). Các chi phí cho vi ệc s ử d ụng năng lượng, hoá chất gây nên các hiện tượng môi trường trên đ ược coi là các chi phí khi tính GPI và phải loại trừ khi tính chỉ tiêu này; - Một nghịch lý ở các nước phát triển, các nước giàu, thời gian nhàn rỗi để chăm lo công vi ệc gia đình hoặc giải trí, nghỉ ngơi giảm thiểu so với thời gian làm việc. Đây là m ột thi ệt h ại, nhưng GDP đã bỏ qua thực tế thiệt hại này, nhưng khi tính GPI lại quan tâm v ấn đ ề này. Do vậy GPI sẽ tăng lên cùng với sự gia tăng thời gian nhàn rỗi (chú ý, không phải là tăng th ời gian thất nghiệp). GDP gộp cả các khoản tiền mà nhân dân phải chi cho vi ệc ngăn ngừa các b ất tr ắc ảnh h ưởng đến chất lượng cuộc sống, như: tiền bồi thường cho các rủi ro: khám s ức kho ẻ, s ửa ch ữa phương tiện do tại nạn, mua sắm các thiết bị kiểm tra ô nhiễm... Khi tính GPI các kho ản chi KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 5
- bảo đảm an toàn cho cuộc sống này được coi là phí tổn hơn là các phúc l ợi, do đó không n ằm trong GPI. - Thời gian sử dụng các mặt hàng tiêu dùng lâu bền và c ơ sở hạ tầng công c ộng: GDP tính l ẫn lộn giá trị mua sắm cơ bản của người tiêu dùng với tổng số ti ền chi tr ả đ ể mua chúng, GPI coi số tiền chi tiêu để mua sắm các khoản chính yếu là phí t ổn (nên không n ằm trong GDP), còn giá trị chi trả dịch vụ hàng năm khi sử dụng nó (phí c ầu, đ ường,...) l ại đ ược tính vào phúc lợi (nên lại nằm trong GDP); - Còn sự phụ thuộc vào tài sản nước ngoài do vay nợ, ho ặc n ợ trong cán cân thanh toán qu ốc tế), nếu tiền vay nợ nước ngoài được sử dụng cho đầu tư nhằm làm tăng sự th ịnh v ượng quốc gia thì được tính vào GPI, nhưng nếu để chi cho tiêu dùng thì không n ằm trong GPI (t ức là làm giảm GPI); Tóm lại, người ta hy vọng chỉ tiêu GPI sẽ bổ sung cho ch ỉ tiêu GDP nh ằm đánh giá s ự ti ến b ộ của xã hội ở mỗi quốc gia; GPI là một nhiệt độ kế để cung cấp các thông tin v ề sức kho ẻ c ủa nền kinh tế và trạng thái KT-XH của quốc gia thay đổi qua các năm, người dân c ủa qu ốc gia được hưởng một cuộc sống tiến bộ như thế nào không chỉ về vật chất và tinh thần, trong một môi trường ít ô nhiễm và xã hội bình an. Và thật ra, phạm vi, ph ương pháp tính GPI cũng còn cần được hoàn thiện hơn nữa, để có thể được nhiều nước chấp nhận và tính toán như m ột chỉ tiêu thống kê quốc gia. Chính vì thế OECD cũng như tổ chức thống kê Liên h ợp qu ốc vẫn tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh cách tính chỉ tiêu này. Ở nước ta, chỉ tiêu GPI và chỉ tiêu GDP xanh (trước mắt là chỉ tiêu GDP xanh) cũng c ần s ớm được nghiên cứu, cần được đầu tư thích đáng về con người, về ti ền, về tổ chức và c ơ ch ế... để có thể tính thử nghiệm hai chỉ tiêu này, tiến tới 5 năm m ột lần chúng ta có th ể công b ố ch ỉ tiêu GDP xanh và tiếp đó là chỉ tiêu GPI và trong tương lai hai ch ỉ tiêu này s ẽ l ần l ượt có th ể được ghi nhận trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, cùng với ngày càng hoàn thi ện h ơn việc tính GDP hàng quý, hàng năm./. (Theo tapchikinhtedubao) KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN - TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thương mại điện tử và ứng dụng trong marketing
12 p | 1049 | 362
-
QUẢN LÝ CHUỔI CUNG ỨNG - SCM là gì?
14 p | 850 | 309
-
Thuyết trình nhóm "Chiến lược sản xuất của công ty đa quốc gia"
23 p | 979 | 296
-
Quản trị chuỗi cung ứng (Phần 2)
7 p | 330 | 185
-
Quy định về việc quản lý tài sản doanh nghiệp
4 p | 535 | 168
-
Tên ý tưởng: Định vị sản phẩm, khẳng định thương hiệu, thâm nhập thị trường
9 p | 296 | 118
-
Quản trị thương hiệu
95 p | 252 | 74
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị thương hiệu
7 p | 211 | 52
-
Bài giảng Phân tích hoạt động kinh doanh: Chương 3 - GS.TS. Bùi Xuân Phong
44 p | 233 | 43
-
Quản trị chuỗi cung ứng
19 p | 142 | 40
-
Hoạt động chuỗi cung ứng & Điều độ sản xuất
15 p | 254 | 34
-
Thương hiệu xanh là yếu tố chính để tăng trưởng doanh thu
6 p | 94 | 14
-
Tạo giá trị thương hiệu từ lợi thế của mình
3 p | 118 | 13
-
Định vị thương hiệu – không nhất thiết phải số một mới thành công
5 p | 109 | 12
-
Blog và hiệu ứng quảng cáo tại Nhật
6 p | 91 | 8
-
Chiến lược thương hiệu: Lợi ích hay thuộc tính sản phẩm
4 p | 75 | 4
-
Các thương hiệu được ủng hộ nhiều hơn nhờ có người nổi tiếng
5 p | 93 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn