Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và xu hướng phát triển nghành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
lượt xem 28
download
Đề tài Thực trạng và xu hướng phát triển nghành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam nêu tổng quan về nghành công nghiệp phụ trợ. Thực trạng phát triển nghành công nghiệp phụ trợ ở Việt nam. Xu hướng và giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt nam giai đoạn 2010-2020.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và xu hướng phát triển nghành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam
- Khoá luận tốt nghiệp TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI i KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ Ở VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Lại Thị Hoa Lớp : Anh 12 Khóa : 43 Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên HÀ NỘI, 06 - 2008 Lại Thị Hoa 1 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia đang phát triển nhanh trên thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 8%. Trong đó, khu vực công nghiệp được đánh giá là một lĩnh vực phát triển mạnh, giữ một vai trò quan trọng cả về giá trị đóng góp và khả năng tạo ra việc làm cho nền kinh tế. Sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế cũng thu hút được ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, xu thế hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa, chuyên môn hóa đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp trong nước cần phải nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh thông qua các liên kết kinh doanh và xác lập được vị trí của đất nước trong “chuỗi giá trị toàn cầu”. Đến nay thì hầu như tất cả các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều nhất trí là ngành CNPT có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sức cạnh tranh công nghiệp và góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, khái niệm CNPT còn khá mới mẻ với nhiều đối tượng, và sự phát triển của ngành này mới ở giai đoạn bắt đầu. Chính điều này làm cho môi trường đầu tư Việt Nam kém hấp dẫn các nhà đầu tư FDI và làm hạn chế những cơ hội kinh doanh với các DN lắp ráp, các công ty đa quốc gia. Để thực hiện được chiến lược phát triển ngành công nghiệp trong thời kỳ hội nhập hiện nay, thì việc tiến hành nghiên cứu và đề ra các chính sách để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của ngành CNPT được coi là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Chính vì những lý do đó mà em xin mạnh dạn chọn đề tài “ Thực trạng và xu hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài khoá luận chủ yếu tập trung vào những nội dung sau: Lại Thị Hoa 2 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Phân tích và làm rõ khái niệm CNPT, xác định được phạm vi, vai trò và yêu cầu phát triển ngành CNPT. Đồng thời, bài viết cũng đúc kết được một số kinh nghiệm về phát triển ngành CNPT ở một số quốc gia khác. Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển ngành CNPT hiện nay của Việt Nam ở một số ngành cụ thể, chỉ ra một số xu hướng phát triển trên thế giới hiện nay có tác động đến định hướng phát triển CNPT ở Việt Nam. Cuối cùng, người viết tập trung vào trả lời câu hỏi: Làm thế nào để phát triển ngành CNPT ở Việt Nam trong giai đoạn tới, bằng cách đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường mối liên kết với DN hoạt động trong lĩnh vực lắp ráp của các DN hoạt động trong lĩnh vực CNPT. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của bài viết là ngành CNPT, chủ yếu là vào các ngành sản xuất ra sản phẩm phụ trợ cho các ngành công nghiệp lắp ráp, chế tạo. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các DN sản xuất trong nước và các DN có vốn ĐTNN đang hoạt động trong lĩnh vực CNPT tại Việt Nam, tính từ năm 2003 đến nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập dữ liệu: người viết đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu, chọn lọc khá nhiều tài liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan. Phương pháp phân tích dữ liệu: chủ yếu là so sánh số liệu liên quan giữa các năm, để từ đó rút ra được xu hướng phát triển của ngành CNPT thời gian tới. 5. Kết cấu khoá luận Kết cấu của bài khóa luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ Chương II: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam Chương III: Xu hướng và giải pháp phát triển ngành CNPT ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tận tình hướng dẫn của ThS. Trần Thị Ngọc Quyên đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Do vấn đề còn khá mới mẻ và sự hạn chế trong khả năng nhận thức, em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy các cô và các bạn để giúp em hoàn thiện hơn nữa đề tài này. Lại Thị Hoa 3 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ I. Khái niệm và đặc điểm của ngành công nghiệp phụ trợ 1. Khái niệm ngành công nghiệp phụ trợ 1.1. Sự xuất hiện khái niệm công nghiệp phụ trợ Hiện nay, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ”(CNPT) được đề cập đến khá nhiều khi nói về những ngành cung cấp đầu vào, cung cấp linh kiện, phụ tùng và công cụ cho một số ngành công nghiệp nhất định- mà thường gọi là các ngành công nghiệp chính. Đến nay, thuật ngữ này đã được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, không chỉ những nước công nghiệp phát triển mà cả những nước đang phát triển cũng rất quan tâm và đã đạt được một số kết quả nhất định (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...). Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều mơ hồ về nguồn gốc cũng như ý nghĩa của thuật ngữ CNPT, đồng thời cũng chưa có định nghĩa thống nhất nào. Trên thực tế, CNPT là một từ tiếng Anh- Nhật đã được sử dụng từ lâu, thậm chí trước khi nó được chính thức hoá. Thuật ngữ này đã trở nên thông dụng ở Nhật Bản từ khoảng giữa thập niên 1980, từ khi nó được Chính phủ Nhật Bản sử dụng trong các tài liệu văn bản của nước mình. Theo đó, khái niệm CNPT bao quát toàn bộ những cơ sở công nghiệp làm ra các sản phẩm có vai trò hỗ trợ việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể, đó là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm…,cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm CNPT thường được tiến hành sản xuất với quy mô không lớn tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Chính vì vậy, nhiều khi người ta đồng nhất, một cách vô thức, CNPT với SMEs trong ngành công nghiệp. Từ Nhật Bản, cùng với dòng vốn FDI, khái niệm CNPT nhanh chóng được lan rộng và sử dụng tại các nước trong khu vực, tuy rằng cách diễn đạt và phạm vi ít nhiều có sự khác nhau. Theo như một số ghi chép thì tài liệu đầu tiên sử dụng thuật ngữ CNPT là “Sách trắng về Hợp tác kinh tế” (1985) của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Lại Thị Hoa 4 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp (MITI) Nhật Bản 1. Trong cuốn sách này, thuật ngữ CNPT dùng để chỉ những SMEs có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trung và dài hạn, hay để chỉ các SMEs “sản xuất linh phụ kiện”. Mục đích của MITI tại thời điểm đó là thúc đẩy quá trình CNH và phát triển các SMEs ở các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4, gồm Inđônêxia, Malayxia, Philipines và Thái Lan. Từ năm 1987, các nước Châu Á đã bắt đầu biết đến và sử dụng thuật ngữ CNPT, đó là nhờ “ Kế hoạch phát triển Công nghiệp Châu Á mới” (New AID Plan). Đây là một chương trình hợp tác kinh tế toàn diện ba phương diện : viện trợ, đầu tư và thương mại. Cũng trong khuôn khổ của kế hoạch này, chương trình “ Phát triển CNPT Châu Á” ra đời năm 1993 nhằm giải quyết các vấn đề về thâm hụt thương mại, thiếu hụt lao động chuyên nghiệp ở các nước ASEAN 4 và thúc đẩy quan hệ hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản với các nước này. Trong chương trình này, CNPT mới chính thức được định nghĩa là “các ngành công nghiệp cung cấp những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá Tư bản cho những ngành công nghiệp lắp ráp”2. Như vậy có thể thấy phạm vi định nghĩa của khái niệm đã được mở rộng : từ các SMEs tới công nghiệp sản xuất hàng hoá trung gian và hàng hoá tư bản cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không phân biệt quy mô DN. Mặc dù thuật ngữ CNPT mới xuất hiện từ thập niên 1980 cùng với dòng chảy FDI từ Nhật Bản sang các nước ASEAN 4, song thực tế thì ngành công nghiệp chuyên sản xuất linh phụ kiện đã xuất hiện từ lâu, gắn với quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất và được gọi là hình thái xuất hiện cuả CNPT trong quá khứ 3. Theo đó, khi quy mô sản xuất của một công ty lớn lên tất yếu kéo theo mức độ phức tạp hoá trong sản xuất sản phẩm (sản phẩm đòi hỏi nhiều chức năng mới hơn, kỹ thuật trong từng công đoạn cần được tăng cường và chuyên môn hoá). Điều này dẫn 1 Từ tháng 01/2001, MITI đã đổi tên thành METI- Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản 2 Trích từ hiệp hội các doanh nghiệp hải ngoại Nhật Bản JOEA 3 Hình thái CNPT trong hiện tại xuất hiện sau khi công nghiệp lắp ráp (do các nhà đầu tư nước ngoài) đã xuất hiện. Hình thái CNPT quá khứ xuât hiện đồng thời với CN lắp ráp. Lại Thị Hoa 5 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp đến sự phân ly các hoạt động lắp ráp và sản xuất linh kiện thành những công đoạn độc lập. Những công đoạn này phát triển là tiền thân của các công ty con, hiện thân của CNPT trong quá khứ. Lý do tại sao thuật ngữ này lại xuất hiện ở Nhật Bản mà không phải ở các nước khác và lại vào thời điểm thập niên 1980 có thể được giải thích bởi sự tăng giá của đồng Yên. Từ sau Hiệp định Plaza (09/1985), giá đồng Yên tăng từ 240yên/USD (09/1985) lên tới 160 yên/USD (04/1986), điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các DN xuất khẩu Nhật Bản. Các DN này cắt giảm xuất khẩu sản phẩm cuối cùng và chuyển cơ sở sản xuất sang các nước có chi phí nhân công rẻ hơn. Mặc dù vậy, các DN này vẫn phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nhà thầu Nhật Bản vì các nước đang phát triển mà họ đặt cơ sở sản xuất không có khả năng cung cấp những linh phụ kiện quan trọng, bao gồm cả các nước ASEAN4. Thuật ngữ CNPT được ra đời nhằm chỉ ra sự thiếu vắng các hoạt động công nghiệp nêu trên ở các nước Đông Nam Á. Thông qua “Kế hoạch phát triển Công nghiệp Châu Á mới (New AID Plan)” và “ Chương trình Phát triển CNPT Châu Á 1993”, thuật ngữ này đã được nhân rộng ra các nước Châu Á. Nỗ lực của MITI là điều kiện đủ cho sự ra đời cuả thuật ngữ này ở Nhật Bản và Châu Á những năm 1980. Trong số các nền kinh tế Đông Nam Á, Nhật Bản và Đài Loan có ngành CNPT lớn mạnh nhất . Còn ở hầu hết các nước đang phát triển, CNPT hoặc chưa tồn tại hoặc rất yếu. So với các nước ASEAN 4, những nước đã có ít nhất vài thập kỷ để thúc đẩy CNPT, CNPT của Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn sơ khai. Thuật ngữ CNPT cũng mới chỉ xuất hiện ở Vịêt Nam vào khoảng năm 2003. Trước đó, Chính phủ Việt Nam cũng không chú ý nhiều đến thuật ngữ này cũng như việc xây dựng các ngành công nghiệp này. Trước năm 1986, với chính sách tự cung tự cấp và nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phát triển Công nghiệp nặng, Việt Nam tập trung phát triển các ngành công nghiệp theo cơ chế tích hợp, tức là sản xuất toàn bộ các yếu tố đầu vào, linh kịên hay phụ kịên dùng cho các ngành công nghiệp như công nghiệp sản xuất máy nông nghiệp, xe đạp và ôtô….trong cùng một DN. Từ sau khi Đổi mới 1986, các ngành công nghiệp này hoặc không còn tồn tại hoặc tái cơ cấu hoặc chuyển sang hoạt động khác. Tuy vậy, Chính phủ vẫn chưa có sự quan Lại Thị Hoa 6 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp tâm thích đáng tới vấn đề này, do còn phải đối phó với những vấn đề cấp bách khác như phát triển nông nghiệp, cải cách kinh tế và xoá đói giảm nghèo…Từ giữa thập niên 1990, khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào mà đáp ứng được các tiêu chuẩn và yêu cầu của họ. Nhằm giúp Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, Nhật Bản đã thông qua dự án Isikawa (1995), “Sáng kiến Miyazawa mới”(1999) và “Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản” (2003). Nội dung chính của dự án Ishikawa là giúp Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế định hướng thị trường một cách thuận lợi hơn, hội nhập với cộng đồng quốc tế, hiện đại hoá hệ thống tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh trong công nghiệp và phát triển khu vực nông thôn. Sáng kiến Miyazawa mới là vốn vay Hỗ trợ Phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản dành cho Việt Nam, dùng để khuyến khích các chính sách cải cách kinh tế của Việt Nam, gồm xây dựng chương trình thúc đẩy khu vực tư nhân, kiểm toán các DNNN, thuế và hàng rào phi thuế. Nói chung, những chương trình này đã mang đến rất nhiều lợi ích cho Việt Nam như tạo ra được môi trường kinh doanh tốt, qua đó thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Thế nhưng, phải đến năm 2003, thuật ngữ CNPT được chính thức sử dụng tại Việt Nam, khi Chính phủ chỉ đạo các công việc chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản” nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Bản Kế hoạch hành động triển khai Sáng kiến chung, được Chính phủ hai nước thông qua, bao gồm 44 hạng mục lớn, trong đó hạng mục đầu tiên chính là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. 1.2. Một số khái niệm liên quan Ở Việt Nam, khi đề cập về các ngành công nghiệp sản xuất hỗ trợ sự phát triển của các ngành công nghiệp chính, người ta gọi theo nhiều cái tên khác nhau như: công nghiệp phụ trợ, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp yểm trợ hay ngành công nghiệp chế tạo sản xuất phụ linh kiện [2]….do chưa có một văn bản mang tính pháp lý nào đưa ra một tên gọi và định nghĩa thống nhất. Trên thế giới, cũng tồn tại một Lại Thị Hoa 7 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp vài khái niệm liên quan đến ngành công nghiệp cung cấp đầu vào như: công nghiệp liên quan và hỗ trợ, công nghiệp phụ thuộc, công nghiệp linh phụ kiện….[23] Thuật ngữ “công nghiệp liên quan và hỗ trợ” (related and supporting industries) được nhắc đến trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh của quốc gia” (The competitive advantage of nations -1990) của giáo sư Michael E.Porter (trường Đại học Havard), được hiểu là “sự tồn tại của ngành công nghiệp cung cấp và ngành công nghiệp liên quan có năng lực cạnh tranh quốc tế”. Theo tác giả, tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ4 . Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho DN lợi thế kinh tế theo quy mô. Sự gần gũi của nhà cung cấp và các hãng hỗ trợ khác có thể giúp cho việc đổi mới và cắt giảm chi phí giao dịch. Porter chia yếu tố này thành hai phần : công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp liên quan. Công nghiệp hỗ trợ tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp hạ nguồn vì chúng sản xuất ra những đầu vào được sử dụng rộng rãi và có tầm quan trọng trong cải tiến và quốc tế hoá, còn công nghiệp liên quan là những ngành trong đó DN có thể phối hợp hoặc chia sẻ các hoạt động trong cùng một chuỗi giá trị khi họ cạnh tranh nhau hoặc là những ngành sản xuất ra các sản phẩm có tính chất bổ sung cho nhau. Thuật ngữ của Porter mang tính học thuật và có phạm vi rộng trong khi thuật ngữ của MITI mang tính thực tế và cụ thể hơn. Tuy vậy, cả hai đều nhấn mạnh tầm quan trọng của CNPT trong việc tăng cường sức cạnh tranh công nghiệp của quốc gia. Thuật ngữ công nghiệp phụ thuộc được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ từ những năm 1950, được định nghĩa là “hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có liên quan đến hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc sản xuất linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, công cụ hoặc hàng hoá trung gian, hoặc cung cấp dịch vụ…”( theo 4 Ngoài ra còn cái yếu tố khác như các điều kiện về nhân tố sản xuất, điều kiện về nhu cầu thị trường, các ngành hỗ trợ và chiến lược, cơ cấu và tính thi đua của doanh nghiệp, hai biến số bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ. Tất cả các yếu tố này tạo nên mô hình “ Viên kim cương” nổi tiếng. Lại Thị Hoa 8 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Luật (Phát triển và Điều chỉnh) công nghiệp Ấn Độ năm 1951). Thuật ngữ này chỉ được biết đến trong phạm vi Ấn Độ. Thuật ngữ công nghiệp linh phụ kiện được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp lắp ráp như xe máy, ôtô, điện và điện tử. Đây là thuật ngữ có phạm vi hẹp nhất, vì nó không bao gồm các đầu vào khác có thể có như trong thuật ngữ CNPT, như dịch vụ, công cụ, máy móc và nguyên liệu. Công nghiệp linh phụ kiện có thể được xem là trung tâm của CNPT. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào cho vấn đề này, do có sự khác nhau trong cách hiểu và mục đích khi nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Hiểu theo nghĩa rộng, có thể hiểu CNPT bao gồm toàn bộ các ngành công nghiệp đầu vào, còn theo nghĩa hẹp, đó là ngành công nghiệp chỉ cung cấp linh kiện, phụ tùng và công cụ cho một số ngành nhất định. 1.3. Khái niệm ngành CNPT Thuật ngữ CNPT được sử dụng khá rộng rãi, đặc biệt là ở Đông Á. Trong công nghiệp nói chung, cách phân chia các ngành thông thường là công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử, công nghiệp xe máy, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất, công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng….Tuy nhiên, ngành CNPT không phải là một ngành cụ thể như trên, mà nó bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian (linh kiện, bộ phận) cung cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp (ô tô, xe máy, điện tử..). Ngoài ra, ngành CNPT còn cung cấp những sản phẩm đầu vào cho ngành chế biến như giày da, dệt may…Nói cách khác, nó bao phủ một phạm vi khá rộng nhiều ngành công nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa của nó thì vẫn chưa rõ ràng trên cả phương diện kinh doanh và lý thuyết kinh tế học[22]. Theo lý thuyết kinh tế, thì CNPT được định nghĩa là một nhóm các nhà sản xuất các yếu tố đầu vào (group of producers of manufactured inputs). Để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng thì cần trải qua nhiều công đoạn, bao gồm việc sản xuất và lắp ráp các yếu tố đầu vào (gồm hàng hóa tư bản và hàng hoá trung gian). Ví dụ, trong quá trình sản xuất các sản phẩm điện tử dân dụng, các phụ kiện sản xuất làm Lại Thị Hoa 9 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp bằng kim loại hoặc nhựa được coi là sản phẩm trung gian, trong khi đó, máy móc và công cụ để sản xuất ra các sản phẩm trung gian đó thì gọi là các hàng hoá tư bản. Xét trên góc độ sản xuất kinh doanh, ngành CNPT bao gồm việc sản xuất ra các linh phụ kiện sản xuất (production parts) và máy móc (machinery), công cụ (tooling) để sản xuất ra các linh phụ kiện đó. Hệ thống sản xuất hiện đại gồm nhiều quá trình như lắp ráp thành phẩm, lắp ráp bán thành phẩm, sản xuất linh phụ kiện, máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và nguyên vật liệu thô (Hình 1). Lấy việc sản xuất hàng điện tử như tivi làm ví dụ, dầu là nguyên vật liệu thô, còn polypropylene là nguyên liệu dùng cho các linh kiện nhựa. Để tạo ra các linh kiện nhựa còn cần đền máy móc và công cụ để phun và đúc nhựa. Một ví dụ của bán thành phẩm là máy cát-xét của dàn âm thanh Hi- Fi, hay các bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe...phục vụ cho lắp ráp xe hơi . Cuối cùng, quá trình kết hợp tất cả linh phụ kiện và các bán sản phẩm này thì mới tạo ra thành phẩm cuối cùng. Trong cơ cấu sản xuất như thế này, thì ngành CNPT ám chỉ ngành sản xuất ra các linh phụ kiện công nghệ cao, công cụ, máy móc hỗ trợ trực tiếp quá trình tiền lắp ráp và lắp ráp cuối cùng 5. 5 Đôi khi, quá trình lắp ráp bán thành phẩm cũng được xếp vào ngành CNPT. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản phẩm CNPT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp SMEs, nên đối với việc sản xuất các bộ phận như cát xét, đầu máy xe, thân xe, bánh xe... thường không được coi là CNPT vì chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn. Lại Thị Hoa 10 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Hình 1 : Cấu trúc cơ bản của quá trình sản xuất Nguồn: Junichi Mori, 20005, Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: : Increasing positive vertical externalities through collaborative training Xét về tổ chức kinh doanh, thì ngành CNPT gồm 3 loại hình DN: Một là, các nhà cung cấp linh kiện, bộ phận, và công cụ máy móc đặt ở nước ngoài. Hai là, các nhà cung cấp linh kiện, bộ phận và công cụ, máy móc nước ngoài ở thị trường nội địa. Ba là, các nhà cung cấp linh kiện, bộ phận và công cụ máy móc địa phương, mà chủ yếu là các DN SMEs. Khách hàng của ngành CNPT bao gồm các DN lắp ráp địa phương, các DN lắp ráp nước ngoài đặt ở thị trường trong nước, và các nhà lắp ráp nước ngoài đặt ở nước ngoài (trường hợp xuất khẩu các sản phẩm phụ trợ). Các nhà lắp ráp nước ngoài thường là các công ty đa quốc gia (MNCs). Xét trên mức độ phức tạp của các công đoạn sản xuất chính bao gồm : (i)chế tạo vật liệu, (ii) gia công phụ tùng linh kiện và (iii) lắp ráp hoàn chỉnh thì CNPT chiếm hàng thứ 2. Về mặt lý luận, có thể hiều CNPT như là khái niệm đối xứng với ngành CN lắp ráp. Đa phần ngành CNPT nhằm phục vụ cho ngành công nghiệp lắp ráp, trong khi dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm lại đòi hỏi những loại nguyên liệu đặc thù hơn cho từng ngành. Khi hoạch định chính sách cần rõ Lại Thị Hoa 11 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp ràng, chính sách khuyến khích thúc đẩy nên chủ yếu hướng tới các phụ tùng và nguyên liệu cho sản xuất theo kiểu lắp ráp.[2] Nói chung, có khá nhiều định nghĩa về ngành CNPT được sử dụng trên thế giới6. Sau đây, người viết xin phép trích dẫn một số định nghĩa ở các quốc gia khác nhau: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) chính thức định nghĩa về CNPT trong chương trình hành động phát triển CNPT Châu Á (1993) như sau: “Là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn, v.v… cho các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử)”. Định nghĩa của Văn phòng phát triển CNPT Thái lan (BSID) như sau: “CNPT là các ngành công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản” 7. Bộ Năng lượng Mỹ định nghĩa (2005) như sau: “CNPT là những ngành công nghiệp chuyên cung cấp nguyên liệu và quy trình cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trước khi chúng được đưa ra thị trường”. Các giáo sư ĐH Waseda, Nhật Bản thì đưa ra định nghĩa về ngành CNPT “là khái niệm để chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính; cụ thể là những linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn nhuộm….và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế”. Mặc dù có nhiều định nghĩa về ngành CNPT, từ ngữ diễn đạt có thể là khác nhau, nhưng người viết xin thống nhất quan điểm về ngành CNPT qua 2 ý chính như sau: Thứ nhất, CNPT là một ngành công nghiệp, sản phẩm phụ trợ là sản phẩm 6 Hiện nay, trong hệ thống luật pháp Việt Nam, vẫn chưa có định nghĩa về ngành CNPT dẫn đến việc trong các quy định pháp quy chưa có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển ngành CNPT. 7 Các ngành công nghiệp căn bản có nghĩa là các ngành cơ khí, máy móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử và được coi là những ngành CNPT quan trọng Lại Thị Hoa 12 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp công nghiệp-nghĩa là có hàm lượng lao động kết tinh trong đó. Điều này để phân biệt với các sản phẩm tự nhiên- các nguyên vật liệu thô có sẵn trong tự nhiên và các sản phẩm khai thác thuần tuý. Thứ hai, sản phẩm của ngành này bao gồm các sản phẩm sơ chế, trung gian và các tư liệu sản xuất, có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng của ngành công nghiệp chính. Đặc điểm của ngành CNPT là thường được sản xuất với quy mô nhỏ và do các SMEs sản xuất. Đến nay thì các quốc gia vẫn chưa thống nhất định nghĩa và phạm vi cho ngành CNPT, tuỳ vào điều kiện kinh tế-xã hội, các mục tiêu phát triển công nghiệp nói chung mà mỗi quốc gia lựa chọn và sử dụng các khái niệm khác nhau. Chính sách của mỗi quốc gia sẽ quyết định phạm vi của ngành CNPT gồm những ngành nào, sản phẩm nào. Thuật ngữ mà càng được định nghĩa cụ thể thì việc hoạch định chính sách càng trở nên dễ dàng hơn, tính khả thi của các chính sách đó cũng cao hơn. 2. Đặc điểm của ngành CNPT 2.1. Phạm vi ngành CNPT Khi mà thuật ngữ CNPT lần đầu tiên được đề cập tới trong “Sách trắng về Công nghiệp” (1985) của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI) Nhật Bản, ngành này chỉ nhằm nói đến các nhà cung cấp của ngành công nghiệp chế tạo lắp ráp như ô tô, xe máy, điện, điện tử và máy móc chính xác. Về thuật ngữ, CNPT là nhóm các nhà sản xuất của một nước (gồm nhà sản xuất nội địa và FDI), cung cấp các yếu tố đầu vào trung gian cho các nhà lắp ráp tại nước đó. Phạm vi chính xác của CNPT phụ thuộc vào từng trường hợp cũng như ý định của nhà hoạch định chính sách, có thể hẹp chỉ trong một ngành công nghiệp cụ thể hoặc rộng hơn, liên quan đến nhiều ngành sản xuất, chế tạo khác, kể cả ngành dệt may và hóa chất... Xét về cơ cấu ngành, CNPT cần thiết cho cả Công nghiệp lắp ráp (ô tô, xe máy, điện tử) và công nghiệp chế biến (dệt may, da giày..). Hai ngành công nghiệp này khác nhau nên yêu cầu CNPT cho mỗi ngành cũng khác nhau. Nếu như ngành CNPT cho Công nghiệp lắp ráp đòi hỏi nguồn lao động có kỹ năng cao hơn, sản phẩm chủ yếu là các linh kiện kim loại, nhựa, cao su và có ảnh hưởng lớn tới chất Lại Thị Hoa 13 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp lượng của sản phẩm cuối cùng, thì CNPT cho công nghiệp chế biến không đòi hỏi nguồn nhân lực kỹ năng cao, sản xuất ít loại linh phụ kiện và không có tác động lớn đến chất lượng sản phẩm cuối cùng. Xét riêng ngành CNPT phục vụ cho ngành công nghiệp lắp ráp, thì CNPT bao phủ một phạm vi khá rộng. Nhu cầu thiết yếu của các nhà sản xuất lắp ráp FDI là có nhiều nhà sản xuất trong nước đáng tin cậy (bao gồm cả DN nội địa và FDI) có thể thực hiện các quy trình sản xuất đơn giản như dập, đúc, rèn, hàn, mạ, gia công cơ khí, chế tạo khuôn và xử lý nhiệt trên kim loại, nhựa, cao su, và các nguyên liệu công nghiệp khác. Các quy trình này như là nền móng và có thể hỗ trợ các ngành sản xuất khác nhau như ô tô, xe máy, máy móc công nghiệp và xây dựng, cơ khí chính xác, điện tử hay các thiết bị gia dụng. Ví dụ, cả sản phẩm điện tử gia dụng và xe máy đều sử dụng những bộ phận nhựa được sản xuất thông qua quá trình sản xuất tương tự nhau. Các thiết bị ép kim loại thì được sử dụng cho cả sản phẩm điện tử, xe máy và ô tô….Như vậy có thể thấy ngành CNPT chính là nguồn tạo ra năng lực cạnh tranh cho đa dạng các ngành công nghiệp (Hình 2). Hình 2 : Các ngành CNPT cơ sở có thể hữu ích cho nhiều ngành công nghiệp. Nguồn: Junichi Mori, 2005, Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: Increasing positive vertical externalities through collaborative training Lại Thị Hoa 14 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Xét theo yếu tố đầu vào, phạm vi CNPT cũng có thể được xác định khác nhau. Thông thường người ta xác định CNPT bao gồm cả yếu tố đầu vào vật chất (phụ tùng và linh kiện) với dịch vụ công nghiệp (như dịch vụ hậu cần, kho bãi, phân phối và bảo hiểm) (phạm vi rộng 1). Một cách xác định khác là chỉ tính đầu vào vật chất, nhưng gồm cả nguyên vật liệu thô (phạm vi rộng 2). Cả hai cách xác định phạm vi CNPT này có những bộ phận trùng nhau và có thể xem đó là phần cốt lõi của CNPT (phạm vi chính), bao gồm linh phụ kiện được chế tạo từ thép, nhựa, cao su và các quy trình sản xuất như rập, đúc, rèn, hàn, chế tạo khuôn, gia công cơ khí, mạ, và xử lý nhiệt. Cụ thể hơn, các công nghệ chế tạo linh kiện và sản xuất khuôn mẫu chiếm vị trí trung tâm trong phần cốt lõi của CNPT. Hình 3 : Phạm vi của CNPT Nguồn: Nguyễn Thị Xuân Thuý, 2006, Công nghiệp phụ trợ: Tổng quan về khái niệm và sự phát triển, VDF Tuỳ thuộc vào trình độ, và mục tiêu chính sách mà mỗi quốc gia có cách hiểu riêng về phạm vi ngành CNPT. Chính sách của quốc gia đó sẽ quyết định phạm vi của ngành CNPT nước mình, bao gồm những ngành nào, sản phẩm nào. Ngày 31 Lại Thị Hoa 15 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp tháng 7 năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã ký Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển CNPT đến năm 2010-tầm nhìn 2020. Theo đó, Quy hoạch phát triển CNPT sẽ tập trung vào 5 nhóm ngành, gồm: Dệt may, da giày, điện tử-tin học, sản xuất-lắp ráp ôtô và cơ khí chế tạo. Sản phẩm của ngành CNPT không chỉ là những linh phụ kiện, máy móc, công cụ, mà còn bao gồm cả các nguyên vật liệu như hoá chất, sản phẩm của quá trình chế biến như dập, ép, đúc, khuôn….Phạm vi này gần giống với quy mô mở rộng 2 (trên). 2.2. Những điều kiện để phát triển ngành CNPT Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành CNPT như lượng cầu thị trường đối với các sản phẩm CNPT, vốn đầu tư, trình độ khoa học công nghệ, trình độ nguồn nhân lực,…Ngoài ra, còn có các yếu tố vĩ mô như chính sách thuế và thuế quan, môi trường chính sách ổn định [5]. Trong phạm vi phần này, người viết chỉ xin đề cập tới một số điều kiện xét từ góc độ các DN phụ trợ, cần có để thành lập, duy trì và phát triển hoạt động trong ngành này. 2.2.1. Quy mô cầu đủ lớn Điều này đảm bảo khả năng tương thích giữa quy mô của các ngành phụ trợ và khu vực hạ nguồn. Muốn tham gia vào thị trường của ngành này, các DN đòi hỏi phải có một lượng đặt hàng tối thiểu tương đối lớn. Ví dụ, các nhà cung cấp linh phụ kiện xe máy thường tham gia vào thị trường khi họ có được các đơn đặt hang vượt quá mức 200.000 đến 300.000 sản phẩm [5]. Nếu dung lượng thị trường khiêm tốn (khu vực hạ nguồn có quy mô nhỏ), thì các nhà sản xuất linh phụ kiện sẽ không thể giảm phi phí sản xuất được do không tận dụng được lợi thế theo quy mô (nguyên nhân sẽ được giải thích dưới đây). Giá thành sản phẩm phụ trợ cao dẫn đến giá thành sản phẩm lắp ráp, chế tạo tăng theo. Điều này sẽ vấp phải sự từ chối của chính khu vực hạ nguồn trong nước và gặp khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm phụ trợ ra nước ngoài. Đồng thời, do không cạnh tranh được nên cũng khó thu hút được các DN nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. Đối với thị trường xe máy Việt Nam, lượng cầu nội địa 2 triệu sản phẩm hàng năm là đủ để hấp dẫn các nhà sản xuất linh phụ kiện nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Trong khi đó dung lượng thị trường sản phẩm ôtô nhỏ bé ở Việt Nam (chỉ khoảng 0,043 triệu chiếc vào năm Lại Thị Hoa 16 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 2003) đã gây thất vọng cho các nhà đầu tư Nhật Bản vốn rất kỳ vọng vào thị trường Việt Nam với hơn 80 triệu dân [5]. 2.2.2. Yêu cầu về vốn Ngành CNPT đòi hỏi sử dụng nhiều vốn hơn ngành lắp ráp. Khác với các công ty lắp ráp sản phẩm cuối cùng không phải đầu tư bất kỳ loại máy móc phức tạp nào (chỉ cần khai thác lợi thế nguồn lao động phổ thông dồi dào và không nhất thiết phải có tay nghề trình độ cao), thì các DN hoạt động trong ngành CNPT cần đầu tư chi phí cố định lớn, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài với độ rủi ro trong đầu tư cao hơn (Hình 4). Lấy ví dụ công ty Daiwa- là công ty cung cấp các linh kiện bằng nhựa cho các MNCs chuyên sản xuất xe máy và thiết bị điện tử. Bộ phận quản lý của Daiwa cho biết chi phí lao động thấp chưa hẳn là yếu tố quan trọng nhất tạo nên lợi thế cạnh tranh ngay cả ở Việt Nam bởi lẽ chi phí lao động chỉ chiếm khỏang 10% tổng chi phí sản xuất. Công ty sử dụng rất nhiều máy móc đắt tiền trong quá trình sản xuất. Ví dụ trong quá trình sản xuất mặt trong của vỏ nhựa cho các sản phẩm điện tử, công ty phải sử dụng máy đo 3-D thế hệ mới nhất, giá thành khỏang 100.000 USD/chiếc, để phát hiện những lỗi nhỏ có thể gây trục trặc cho máy trong quá trình vận hành. Hình 4: Giảm chi phí đơn vị trong CNPT Nguồn: Kenichi Ohno, Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản, VDF, 2007 Những máy móc đầu tư cố định có đặc điểm là không thể chia nhỏ được, tức là phải mua nguyên chiếc không tách rời từng phần. Khi đã đầu tư lắp đặt hệ thống Lại Thị Hoa 17 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp máy móc thì chi phí vốn cho nhà máy sẽ luôn ở một mức cố định cho dù hệ thống không được vận hành liên tục 24 giờ/ngày và 365 ngày/ năm. Do vậy, chi phí vốn đơn vị (tổng chi phí /số sản phẩm sản xuất ra ) tỷ lệ nghịch với lượng sản phẩm đầu ra. Ví dụ, một nhà máy sản xuất 600.000 linh kiện nhựa một năm sẽ đạt được hiệu quả sản xuất, trong khi đó một nhà máy khác chỉ sản xuất được 2.000 linh kiện nhựa một năm thì khó mà tồn tại được[5]. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao các DN muốn hoạt động trong lĩnh vực này cần một lượng đặt hàng lớn từ các nhà lắp ráp, chế tạo sản phẩm cuối cùng. 2.2.3. Nguồn lao động có kỹ năng và trình độ cao Sau khi vấn đề vốn đã được giải quyết thì nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành CNPT, như công nghiệp chế tạo chính là nguồn nhân lưc có trình độ và kỹ năng cao8. Công nhân làm việc trong ngành CNPT phần lớn là thợ máy, người kiểm tra chất lượng, kỹ thuật viên, và kĩ sư. Do đặc điểm này, mà ngành CNPT ở các nước đang phát triển có sức cạnh tranh kém hơn so với các quốc gia phát triển khác. Họ không có đủ khả năng tài chính và lao động có kĩ năng để có thể tận dụng tối đa và vận hành có hiệu quả máy móc, thiết bị sản xuất. Ví dụ, nhiều máy phun nhựa có giá trung bình tới 100.000 USD và đòi hỏi người vận hành phải có trình độ và tay nghề cao. Các SMEs ở các nước đang phát triển thường không có đủ khả năng tài chính để mua các máy móc thiết bị đó hay thuê các kỹ thuật viên để vận hành chúng. Một chuyên gia người Nhật cho rằng việc lắp ráp hoặc vận hành máy móc đơn giản không thể tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì những công việc đó thì có thể thực hiện ở bất kỳ đâu. Ở Việt Nam, người ta thường cho rằng những hạn chế của ngành công nghiệp chủ yếu là do thiều nguồn lực tài chính để mua sắm thiết bị hiện đại, nhưng theo quan điểm của hầu hết các doanh nghiệp Nhật Bản, thì nguồn nhân lực còn quan trọng hơn nhiều máy móc thiết bị hiện đại. Một nhà sản xuất Việt Nam chuyên cung cấp các sản phẩm nhựa cho các công ty Nhật Bản và Mỹ nói rằng họ cần công nhân có trình độ cao chứ không cần máy móc tối tân hiện đại, công 8 Theo tiếng Đức, những người lao động có kỹ năng cao trong các nghề chế tạo là Meister Lại Thị Hoa 18 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp nhân có trình độ kỹ thuật cao vận hành máy móc cũ thậm chí hiệu quả hơn công nhân có trình độ thấp hoặc không có trình độ vận hành máy mới. Nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao sẽ là nhân tố cần thiết cho Việt Nam để đưa trình độ sản xuất vượt lên mức mà Thái Lan và Malaysia đã đạt được, cũng như là cách giải quyết hiệu quả những thách thức từ Trung Quốc. II. Vai trò của ngành công nghiệp phụ trợ 1. Ngành công nghiệp phụ trợ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp CNPT được coi là ngành sản xuất nền tảng của ngành công nghiệp chính yếu, thông qua việc cung cấp các phụ tùng, linh kiện và các quy trình xử lý kỹ thuật. Nếu CNPT trong nước mà không phát triển thì các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp sẽ phải phụ thuộc vào nhập khẩu, khi đó ngành chế tạo ở quốc gia này chỉ là ngành gia công lắp ráp đơn thuần. Ở các nước phát triển, CNPT được ưu tiên phát triển trước để làm cơ sở cho các ngành công nghiệp chính như : ô tô, xe máy, điện tử, giày da, dệt may, đóng tàu… phát triển. Các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của DN trong một ngành bao gồm: năng suất lao động, trình độ công nghệ, sản phẩm, quy mô tài chính, kinh nghiệm quản lý, phương thức thanh toán….Việc phát triển CNPT không phải là tiêu chí tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp chính, nhưng lại có tác động gián tiếp, cụ thể như sau: Thứ nhất, ngành CNPT phát triển sẽ tạo được nguồn cung đầu vào ổn định, chất lượng, từ đó đảm bảo được khả năng giao hàng cho các DN trong các ngành công nghiệp chính. Các DN lắp ráp hay các DN sản xuất sản phẩm cuối cùng, dù là DN trong nước hay các DN MNCs, dù bán sản phẩm tại thị trường nội địa hay xuất khẩu, đều có nhu cầu rất lớn về mua sắm các sản phẩm phụ trợ như phụ tùng nhựa, khuôn kim loại, linh kiện, phụ tùng từ các nhà cung cấp trong nước. Nếu CNPT không phát triển, các công ty này sẽ phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu linh phụ kiện, điều này có thể ảnh hưởng đến tiến độ của hợp đồng. Hơn nữa, khi ngành CNPT phát triển sẽ kích thích các nhà sản xuất đầu tư nhiều hơn vào máy móc, dây chuyền thiết bị….vì họ có thể yên tâm về tính đồng bộ và kịp thời trong sản xuất. Lại Thị Hoa 19 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Thứ hai, CNPT giúp giảm giá thành sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng. Theo ông Junichi Mori [3], chuyên gia UNIDO cho biết, đối với các sản phẩm điện tử tiêu dùng, chi phí vật liệu và linh phụ kiện chiếm 70% chi phí sản xuất, phần còn lại bao gồm chi phí về lao động (khoảng 10%), chi phí chế tạo (18%) và chi phí hậu cần (2%). Chính vì vậy, việc cắt giảm chi phí lao động của sản phẩm sẽ không thu được nhiều kết quả so với việc cắt giảm chi phí theo linh phụ kiện. Ngay cả khi những sản phẩm này được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài (nhập khẩu linh phụ kiện) thì những phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho DN rất nhiều. Đó là chưa kể đến những rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Đối với các công ty đa quốc gia thì sẽ gặp khó khăn hơn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp (supply chain management). Sự phát triển của CNPT trong nước sẽ tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các DN lắp ráp sản phẩm cuối cùng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Do đó, để phát triển công nghiệp, mỗi quốc gia không những cần xác định các ngành công nghiệp chủ đạo, mũi nhọn mà song song với nó là phát triển các ngành CNPT. Trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, chiến lược phát triển công nghiệp cần được xây dựng dựa trên khả năng cạnh tranh quốc tế. Khả năng cạnh tranh quốc tế lại được xây dựng bằng nhiều yếu tố, như chất lượng sản phẩm, chi phí, thời gian, chuyên môn hoá, tiếp thị (marketing), dịch vụ hậu mãi. Nhân tố chi phí, như đã nói ở trên chính là việc có sẵn có sản phẩm CNPT trong nước hay không. Bởi vì, đối với nhiều nhà sản xuất, bộ phận chi phí lớn nhất chính là linh phụ kiện và các đầu vào trung gian khác. Theo ông Kenichi Ohno, Giám đốc dự án Diễn đàn phát triển Việt Nam, VDF phân tích thì khi quá trình sản xuất thượng nguồn và hạ nguồn của một sản phẩm diễn ra ở các nước khác nhau thì một số công đoạn yêu cầu công nghệ cao và sự sáng tạo trong khi các công đoạn khác lại có thể thực hiện ở bất cứ nước nào. Và giá trị gia tăng của sản phẩm gắn với quy trình sản xuất sử dụng công nghệ cao, chứ không phải với toàn bộ sản phẩm. Ông đưa ra một dẫn chứng các công đoạn trong sản xuất máy tính, theo đó : giá trị lớn thường ở giai đoạn bắt đầu (thiết kế và linh phụ kiện) và giai đoạn cuối (tiếp thị), còn giai đoạn giữa (lắp ráp) Lại Thị Hoa 20 Lớp: Anh 12-K43- KTNT
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của ngân hàng Việt Nam
111 p | 503 | 111
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - Nguyễn Văn Chiến
76 p | 482 | 107
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng marketing trong các công ty giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam
78 p | 348 | 77
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
103 p | 239 | 63
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng công tác giảm nghèo huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh năm 2013
103 p | 294 | 57
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ
114 p | 218 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác kế toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh tại Công ty TNHH MTV Trường Phúc
92 p | 164 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và hướng phát triển của các cơ sở ươm tại doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam 2001-2010
103 p | 101 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động quản trị nguồn nhân lực tại Khách sạn Mường Thanh Luxury Quảng Ninh
82 p | 15 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của bộ phận buồng phòng tại Flamingo Cát Bà Resort
99 p | 13 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín
82 p | 9 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp cho quản trị nguồn nhân lực tại Công ty CP Thương mại Dịch vụ Cổng Vàng
72 p | 12 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp mở rộng thị trường tại Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Ngọc Thảo Nguyên
69 p | 14 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng quản trị nhân lực tại khách sạn Nhật Hạ 3 (Nhat Ha L’Opera hotel)
76 p | 16 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp khai thác văn hóa ẩm thực Hải Phòng phục vụ hoạt động du lịch
104 p | 15 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà hàng Sao Mai - Hải Đăng Plaza
85 p | 11 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ tại khách sạn Đức Vượng – thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 9 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà hàng Sun – Flamingo Cát Bà Resort
98 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn