intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp " Từ điển Khazar và những đóng góp của Milorad Pavic "

Chia sẻ: Bút Màu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:46

96
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chủ nghĩa hậu hiện đại là trào lưu văn học thu hút nhiều sự quan tâm trên phạm vi toàn thế giới. Sức hấp dẫn của nó nằm ở chỗ vẫn còn quá nhiều vấn đề gây tranh cãi trong giới phê bình, ngay cả các nhà nghiên cứu chuyên sâu về hậu hiện đại cũng chưa thực sự thống nhất với nhau. Tuy nhiên, những đặc trưng nổi bật về thủ pháp có thể kể đến là: thủ pháp nhại phỏng, giải cấu trúc và tính liên văn bản. Những đặc điểm này có tác động qua lại cũng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp " Từ điển Khazar và những đóng góp của Milorad Pavic "

  1. Khóa luận tốt nghiệp Từ điển Khazar và những đóng góp của Milorad Pavic
  2. MỤC LỤC DẪN NHẬP............................................................................................................................. 1 1. Lý do lựa chọn đề tài................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................................. 1 3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................................. 3 4. Mục đích của đề tài..................................................................................................... 3 5. Nhiệm vụ của đề tài..................................................................................................... 4 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................ 4 7. Kết cấu của khóa luận................................................................................................. 4 CHƯƠNG 1: MILORAD PAVIC VÀ TỪ ĐIỂN KHAZAR................................................. 6 1.1. Milorad Pavic và văn học Serbia........................................................................... 6 1.1.1. Liên bang Nam Tư với Serbia: những biến động lịch sử........................... 6 1.1.2. Serbia với Milorad Pavic............................................................................... 10 1.2. Từ lịch sử dân tộc Khazar đến Từ điển Khazar.................................................... 14 1.3. Milorad Pavic với Từ điển Khazar......................................................................... 17 CHƯƠNG 2: TỪ ĐIỂN KHAZAR: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN SÁNG TẠO..................... 21 2.1. Nghệ thuật kết cấu.................................................................................................... 21
  3. 2.1.1. Về kết cấu hình thức....................................................................................... 21 2.1.2. Các thủ thuật hình thức khác......................................................................... 23 2.1.3. Về kết cấu nội dung........................................................................................ 26 2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật.................................................................................. 30 2.3. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện............................................................................. 37 2.4. Nghệ thuật trần thuật............................................................................................... 44 2.5. Nghệ thuật sáng tạo thời gian và không gian........................................................ 49 CHƯƠNG 3: TỪ ĐIỂN KHAZAR VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA MILORAD PAVIC. 55 3.1. Từ điển Khazar và chủ nghĩa hậu hiện đại........................................................... 55 3.2. Về vấn đề sáng tạo và tiếp nhận............................................................................. 64 3.3. “Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của thế kỷ XXI”........................................................ 67 3.4. Từ điển Khazar và những nỗi niềm nhân sinh của Milorad Pavic.................... 75 KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 84 PHỤ LỤC................................................................................................................................. 88
  4. 3.1. Từ điển Khazar và chủ nghĩa hậu hiện đại Chủ nghĩa hậu hiện đại là trào lưu văn học thu hút nhiều sự quan tâm trên phạm vi toàn thế giới. Sức hấp dẫn của nó nằm ở chỗ vẫn còn quá nhiều vấn đề gây tranh cãi trong giới phê bình, ngay cả các nhà nghiên cứu chuyên sâu về hậu hiện đại cũng chưa thực sự thống nhất với nhau. Tuy nhiên, những đặc trưng nổi bật về thủ pháp có thể kể đến là: thủ pháp nhại phỏng, giải cấu trúc và tính liên văn bản. Những đặc điểm này có tác động qua lại cũng như hàm chứa lẫn nhau. Thủ pháp nhại phỏng là một trong những thủ pháp đặc trưng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Sự nhại phỏng được thể hiện qua ngôn ngữ khi các nhà văn sử dụng lại các cụm từ, câu… đã có với mục đích tạo nghĩa mới hoặc để giễu nhại, mỉa mai nghĩa đã có; nó cũng thể hiện ở những cách miêu tả, sắp xếp tình tiết như một kiểu nhại phỏng lại những hành động của con người vào những tình huống có tính chất trái ngược. Ở mức độ giễu nhại, thủ pháp này thể hiện sự hoài nghi những tín điều, những đại tự sự, những giá trị được cho là bất biến. Giải cấu trúc liên quan chặt chẽ đến quan niệm giải trung tâm của chủ nghĩa hậu hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng mọi vật tồn tại vì/cho chính bản thân nó chứ không tồn tại quanh một trung tâm nào. Giải cấu trúc được thể hiện ở nhiều mức độ tùy vào các tác giả nhưng nhìn chung nó có những biểu hiện thường thấy là sự phủ nhận tính nguyên bản của một tác phẩm nghệ thuật: cốt truyện tan vỡ, nhân vật tùy tiện không thể giải thích
  5. được, bối cảnh như những mảnh ghép rời rạc... Sự liền mạch trong văn học truyền thống bị gạt đi, thay vào đó là sự kết hợp những mảng, những khối khác nhau, đôi khi xen lẫn những mảng trống vào kết cấu tác phẩm, đồng thời đưa ra nhiều cái kết trong tác phẩm. Giải cấu trúc còn được thể hiện rõ qua sự lai tạp của thể loại: truyện ngắn – tư liệu, truyện ngắn – nhật ký, truyện ngắn – chân dung…, tức xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống thường ngày, xóa nhòa ranh giới giữa các thể loại. Với các nhà lý luận hậu hiện đại, tác phẩm văn học không phải là sáng tạo riêng của tác giả, mọi chi tiết của nó đều đã được nói đến ở đâu đó trước đó rồi; một văn bản mới chẳng qua chỉ là sự sắp xếp lại những đoạn văn bản đã có. Tính liên văn bản trong chủ nghĩa hậu hiện đại được thể hiện qua việc cắt dán những phần, những mục khác nhau và lắp ghép lại để tạo thành tác phẩm. Sự nối kết trong tác phẩm văn học của các nhà hậu hiện đại với những tác phẩm trước đó khiến cho độc giả đọc tác phẩm này có thể liên tưởng đến tác phẩm khác. Tuy nhiên, việc văn bản này xếp nối, chồng ghép với văn bản kia đã tạo ra sự đứt gãy về mặt ngữ nghĩa trong tác phẩm. Cả ba đặc trưng này đều được thể hiện trong Từ điển Khazar, có khi chúng đan cài vào nhau trong cùng một chi tiết. Hình thức của tác phẩm, như đã khảo sát ở mục 2.1.1, là khá mới mẻ, Milorad Pavic vừa tuân thủ, vừa làm sai lệch hình thức từ điển mà ông đã chọn. Chúng ta có thể gọi hình thức không đáng tin cậy của Từ điển Khazar là sự ngụy tạo (simulacres), trong đó các văn bản được trích dẫn như tài liệu chứng thực cho lịch sử Khazar cũng trộn lẫn giữa giả và thật, giữa tham khảo
  6. nghiêm túc và tưởng tượng tự do. Câu chuyện về ấn bản đầu tiên đã bị tiêu hủy, và những người từng sở hữu cuốn sách tẩm độc đó cũng đã chết khi chưa đọc được gì nhiều là một cái cớ hoàn hảo cho những sai lệch nếu có trong tác phẩm. Song chúng ta không cần mất công tra cứu các thư tịch hiện đang lưu giữ tại Viện hàn lâm Nam Tư về khoa học nghệ thuật hay trong biên niên sử đồ sộ của Serbia, cũng có thể nhận ra những chi tiết ngụy tạo không che giấu. Chẳng hạn đoạn cuối mục từ Akshani Yabir Ibn như sau: Theo một truyền thuyết khác, Yabir Ibn Akshaki không hề chết. Có lần vào một buổi sáng năm 1699, ở Constantinople, y thả một lá nguyệt quế vào chậu nước đoạn nhúng đầu vào để rửa nhúm tóc trước trán… Khi y rút đầu ra khỏi nước, hít một hơi dài và thẳng người lên, quanh y không còn Constantinople, chẳng còn cái đế quốc mà ở đó y vừa rửa mặt. Y đang ở trong khách sạn hạng sang “Kingston” ở Istambul, đây là năm 1982 sau Isa, y có vợ, con và hộ chiếu công dân Bỉ, y nói tiếng Pháp, và chỉ dưới đáy chiếc bồn rửa mặt hiệu F.Primavesi & Son, Correella, Cardiff vẫn còn nguyên chiếc lá nguyệt quế ướt sũng (tr.194). Lại là truyền thuyết, nhưng cái mốc 1982 quá gần và quá chính xác, đến nỗi truyền thuyết mang dáng dấp dự báo, một dự báo đúng đến từng chi tiết, ngay cả nhãn hiệu chiếc bồn rửa mặt trong khách sạn. Người ta vẫn thường xì xầm về các lời tiên tri nhưng phải có quá trình giải mã mới tìm thấy mối liên hệ giữa chúng với thực tế. Còn ở đây, đoạn văn như một nụ cười mỉa nhằm vào biên giới mà người ta vẫn đặt ra giữa thật và giả để định giá hay phán xét. Những đặc điểm không đáng tin cậy của hình thức từ điển cũng cho thấy hành động ngụy tạo không che giấu. Từ điển Khazar không khác gì một ngụy
  7. thư, trong đó ngầm chứa thái độ giễu nhại với những gì được gọi là thư tịch cổ – nguồn tham khảo quý báu, hay là lịch sử – quá khứ cần được tôn trọng. Những đặc điểm về nội dung lại cho thấy cấu trúc phân mảnh – vốn rất đặc trưng cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Sự tan rã thể hiện ở nhiều cấp độ: cốt truyện, thời gian, không gian làm cho quá trình tiếp nhận tác phẩm tuy tự do nhưng khó khăn gấp bội. Việc sử dụng những phong cách văn bản khác nhau: thư, nhật ký, biên bản, các hình vẽ… xen lẫn trong tác phẩm gây ấn tượng về sự rời rạc và chồng xếp ngẫu nhiên của nhiều văn bản khác loại. Đó cũng là mô hình của hiện thực thậm phồn trong thời hậu hiện đại, nơi mà con người có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều thông tin, nhưng quá nhiều đến nỗi hoài nghi cả quá trình nhận thức của mình. Độc giả của Từ điển Khazar cũng rơi vào tình huống tương tự khi phải tiếp xúc với một văn bản lai ghép, cắt dán vô số những văn bản có trước, càng đọc càng bối rối không biết đâu là thật, đâu là giả, câu chuyện nào đáng tin và câu chuyện nào không nên tin. Sự đối chiếu xuyên qua các mục từ, các từ điển bộ phận cũng thể hiện đặc trưng liên văn bản của văn học hậu hiện đại. Từ điển Khazar là một văn bản đa tầng, trong đó nó chứa những văn bản nhỏ hơn (ba từ điển bộ phận), nhỏ hơn nữa (các mục từ), và nhỏ hơn nữa (các truyền thuyết, ghi chép…). Tính cố kết của văn bản nghệ thuật truyền thống đã bị phá vỡ, tiểu thuyết chỉ là những mảnh ghép mà thậm chí không có thứ tự xác định. Milorad Pavic đã giao quyền cho độc giả rồi, và họ có thể tháo tung văn bản ra, lắp ráp như thế nào tùy thích. Bởi lời phát ra không phải từ cái đầu hay từ linh hồn mà từ thế giới của những cái lưỡi nhớp và mồm thối; từ lâu chúng đã bị gặm, bị nhá nham nhở và lấm mỡ bởi nhai đi nhai lại không ngừng. Từ lâu chúng đã không còn
  8. nguyên vẹn hình hài, bị chà đi xát lại bởi vô số hàm răng trong vô số cái mồm (tr.437). Milorad Pavic khẳng định rằng văn bản cũng như những lời nói kia thôi, văn bản sau là sự hiện diện, chắp nối, cắt dán, tái hiện của những văn bản có trước nó. Từ điển Khazar cũng là sự chắp mảnh của vô số các văn bản riêng lẻ, đến lượt chúng lại bị xé nhỏ, trộn vào nhau tạo thành thể thống nhất mà độc giả được tiếp xúc. Ám ảnh của sự phân mảnh vương vít toàn bộ tác phẩm. Khi thư giãn, sắc đẹp của Ateh “vỡ vụn ra như muối” (tr.46), Cyril sáng tạo bảng chữ cái Slavơ bằng cách “đập vỡ nó thành từng mảnh… rồi dán các mảnh lại với nhau bằng nước bọt” (tr.105), những giọt nước mắt của Skila “rơi lả tả và nát vụn dưới ngón tay như những mảnh kính vỡ” (tr.157)… Rời rạc dường như mới là tính chất bản thể của vũ trụ, trong đó mọi sự vật chỉ là những phân khúc chắp nối lỏng lẻo và có thể tan vỡ bất cứ lúc nào. Nỗi hoài nghi về hình thức tồn tại được thể hiện bằng cách lặp đi lặp lại những từ “vỡ nát”, “vỡ vụn”, “nát vụn”… Người đọc tìm thấy sự giống nhau giữa các nhân vật, các sự kiện, đó là nỗi hoang mang về cái gọi là sự thống nhất trong một chỉnh thể. Milorad Pavic đã cho thấy khát vọng đi tìm cái toàn vẹn bằng cách tìm các mảnh của Adam Ruhani – người tiền triệu của loài người – chỉ là cứu cánh hão huyền: Mokadasa – nhà săn mộng tài ba nhất của người Khazar – cũng chỉ “tái tạo được một sợi tóc” (tr.273) của Adam mà thôi. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Từ điển Khazar cũng thể hiện tinh thần của chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhân vật không hoạt động trên cấp độ tâm lý, cảm xúc của họ hoàn toàn bị thủ tiêu và chỉ được thuật lại theo kiểu thông báo, các hành động mất logic nhân quả (xem mục 2.2). Không thể áp dụng
  9. những quy thức cũ để phân tích nhân vật được nữa, vì ngay cả những đặc điểm cá nhân cũng bị xóa mờ. Nhân vật bị phân tán ra nhiều mảnh, trên nhiều trục không gian và thời gian. Ba linh hồn Cohen tranh cãi với nhau, T.S Schutlz tự viết thư cho mình, nhân vật gặp lại nhau trong một nhân thân khác, nhân vật hiện diện trong một bối cảnh khác... Chưa hết, diện mạo nhân vật vừa không rõ ràng, vừa được khắc họa qua nhiều điểm nhìn: người biên soạn, chính nhân vật, một nhân vật khác. Tất cả làm cho nhân vật cũng bị phân mảnh và rời rạc. Các nhân vật có lúc trùng lặp nhau, có lúc biến hóa làm cho những chuẩn xác định sự tồn tại của vật thể như không gian và thời gian trở nên mất tác dụng. Nhân vật trở thành những biểu tượng. Từ điển Khazar mượn một sự kiện lịch sử có thật, một dân tộc đã từng tồn tại để làm nền cho câu chuyện của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao Milorad Pavic chọn Khazar chứ không phải là bất cứ dân tộc nào khác. Cũng giống như khi đặt câu hỏi về hình thức từ điển, sự lựa chọn này phải có ngụ ý của nó. Từ khi biến mất đột ngột vào thế kỷ thứ XI sau cuộc chinh phạt của người Nga, Khazar được giới sử học biết đến với tư cách một vùng đất bí ẩn, thậm chí sau quá trình khai quật các địa điểm được cho là lãnh thổ của Khazar, giới sử học bắt đầu nghi ngờ cái gọi là dân tộc thiện chiến vùng Caucasus. Một đối tượng như vậy tạo ra không gian tuyệt vời cho sự hư cấu, vốn là bản chất của thể loại tiểu thuyết, hơn thế, người đọc lúc nào cũng tỏ ra hào hứng với những bí mật, thành công về mặt doanh thu có thể đảm bảo được. Nhưng đó chỉ là thứ yếu, nhân loại chẳng thiếu những vùng đất bí ẩn khác mà chắc chắn
  10. cái tên Khazar không thể nào nổi tiếng bằng, như đảo Phục Sinh hay Atlantic, ngay cả Angko Wat cũng có giá trị thương mại hơn nhiều. Có lẽ vấn đề nằm ở đây: trong khi sử ký của người A rập, người Armenia, người Tiurki, người Gruzia, thậm chí cả Byzance “tất cả đều nói đến người Khazaria, chỉ người Khazaria là không kể gì về bản thân… các sử biên niên của người Khazaria im lặng” [19; 170,174]. Dân tộc nào cũng tự ca ngợi mình trong các bộ sử, đó là điều thường tình, nhưng người Khazar thì ngược lại, họ giấu mình đi. Một dân tộc quá khứ không chịu nằm yên trong cách tiếp cận truyền thống của ngành sử học: Một vùng lãnh thổ cần được nghiên cứu là nơi cư trú xưa kia của một dân tộc nào đó thường được tìm thấy một cách dễ dàng. Đôi khi có những cuộc tranh luận về việc xác định ranh giới của vùng cư trú và thời gian cư trú ở những địa điểm này hay kia, nhưng đó chỉ là các chi tiết của một vấn đề chung mà thôi. Bù lại, việc tái hiện lịch sử của dân tộc lại vấp phải những khó khăn khác nhau và không phải luôn khắc phục được. Trong lý giải vấn đề Khazaria mọi chuyện hoàn toàn ngược lại [19; 179]. Có lẽ chính điều này đã hấp dẫn được Milorad Pavic. Cái khác biệt, đó là mục tiêu của quá trình lựa chọn. Khazar đã đáp ứng được điều ấy. Ở cách chép sử của người Khazar có một cái gì tương tự như là chống lại phương cách tâm lý thông thường của nhân loại. Được ghi nhận là một đối trọng, thậm chí đã có những chiến thắng trong giao tranh với Byzance, đế chế Khazar còn gợi lên hình ảnh của sự chống chọi lại một nền văn minh lớn láng
  11. giềng, và điều này sẽ trở nên rất có ý nghĩa trong tác phẩm mà chúng tôi sẽ phân tích sau. Một điều thú vị là, gần Belgrad – nơi Pavic sinh ra, lớn lên và làm việc đến tận cuối đời người ta cũng phát hiện ra dấu tích một nền văn minh cổ, nền văn minh Vinca, nó cũng được xếp vào danh sách những vùng đất bí ẩn của thế giới. Ngay tại dãy Caucasus, nơi được cho là cực nam lãnh thổ Khazar cũng đã khai quật được dấu tích của một nền văn minh phát triển cao, những bí ẩn về văn minh vùng Caucasus cũng đang thu hút sự tò mò của giới khoa học. Với tất cả những điều đó, Khazar như là nơi hội tụ của sự bí ẩn, đa tầng về lịch sử và còn có sự gần gũi khi liên tưởng đến quê hương Belgrad. Điều đó phải chăng cũng đã tác động vào sự lựa chọn của Milorad Pavic? Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Milorad Pavic đã chọn một đối tượng không xa lạ gì với độc giả châu Âu, trước và sau ông đã có nhiều người viết về Khazar, nhưng ông không viết về lịch sử của Khazar, ông tập trung vào cuộc luận chiến. Tinh thần của chủ nghĩa hậu hiện đại cũng bộc lộ ở đây. Trong khi cả ba tôn giáo tham gia cuộc luận chiến tranh giành phần thắng về mình như một biểu hiện cho sức ảnh hưởng to lớn, sự bành trướng của mình thì xuyên suốt tác phẩm, Milorad Pavic thể hiện thái độ khước từ việc lựa chọn một quan điểm duy nhất để tin tưởng hay thần phục. Người biên soạn nói ngay từ đầu, rằng anh ta không đưa ra lựa chọn nào cả, khi đưa ra các dẫn chứng, người biên soạn cũng không xác quyết nó đúng hay sai, bởi vì nó vượt quá tầm hiểu biết của anh ta. Sự bênh vực riêng cho tôn giáo nào hay ý thức hệ nào là hoàn toàn không có. Lịch sử của Từ điển Khazar cho thấy rằng mọi rắc rối, hiểu lầm và thiếu sót bắt đầu từ việc người ta cứ khăng khăng quy cái
  12. đúng về một hướng duy nhất, rằng chân lý chỉ gọi tên một người/ một lý lẽ. Ba cuốn từ điển bộ phận tồn tại dựa trên nguyên tắc cơ bản là chỉ ghi chép về đại diện của tôn giáo đó, còn hai vị kia – người có mặt vì hai tôn giáo còn lại – không hề được đả động. Câu chuyện tìm lại sự thực của các bộ ba tìm kiếm bắt đầu từ đó, mục đích của họ là tổng hợp cả ba cuốn để tìm ra sự thực, tức là không chấp nhận thế độc tôn của một ý thức hệ, nhưng việc làm của họ lại dẫm vào vết xe đổ mà họ cố tránh. Kết quả mà họ ra sức tìm kiếm cũng là sự cố chấp cho rằng phần thắng nhất định phải thuộc về ai đó, và kết quả ấy không bao giờ được tìm thấy. Đặt ba cuốn từ điển bộ phận vào cùng một gáy, “người biên soạn” cho thấy rõ dụng ý của mình, rằng không có ý thức hệ nào cao hơn, có giá trị hơn những ý thức hệ khác, do đó nó không có quyền độc tôn, giống như Halevi đã nói “cái hiền minh trên những tầng cao nhất của vũ trụ cũng không lớn hơn cái hiền minh trong sinh vật nhỏ nhoi nhất” (tr.351). Lời nói của các vị đại diện ba tôn giáo trong luận chiến “tôn giáo của chúng tôi tốt hơn của các nước khác” (tr.113) đã biến họ trở thành những kẻ ngu muội và nực cười trong mắt công chúa Ateh. Các nhà hậu hiện đại chống lại thuyết ngôn từ trung tâm luận (logocentrism), nhân loại trung tâm luận (anthropocentrism)… họ hướng về cái phi trung tâm. Từ điển Khazar cho thấy sự tồn tại song song của những thực thể khác nhau, đòi hỏi quyền tồn tại của những thứ bị cho là thấp kém. Cyril – đại diện của Cơ đốc giáo “tranh cãi với các nhà tam giáo luận vốn khẳng định rằng chỉ có tiếng Hy lạp, tiếng Do Thái và tiếng La tinh là những ngôn ngữ xứng đáng với việc thờ phụng lễ bái” (tr.107), T.S Muawia – hậu
  13. thân của Masudi trong thế kỷ XX lên án sự phân biệt lớn – nhỏ bằng cách chia sẻ trải nghiệm cay đắng: Bà chỉ có thể trở thành nhà khoa học vĩ đại… nếu như bà và các dự án của bà được ủng hộ bởi một trong các cộng đồng quốc tế hùng mạnh nhất của thế giới chúng ta: Do Thái giáo, Hồi giáo hoặc Thiên Chúa giáo. Bà thuộc về một trong số đó. Tôi thì không, chính vì vậy tôi là kẻ vô danh tiểu tốt (tr.417). Milorad Pavic đã xây dựng hệ thống nhân vật và sự kiện ở thế lưỡng phân, tam phân thay cho hình thức nhất thể thường thấy trong tư duy truyền thống. Người Khazar được biết đến với thể song sinh Khazar trắng và Khazar đen, người cầm quyền trong vương quốc Khazar là vua và Kaghan, dòng sông chính của đất nước chảy theo hai hướng khác nhau cùng một lúc, năm của người Khazar là năm kép: một trôi từ tương lai đến quá khứ, còn năm kia từ quá khứ đến tương lai. Cohen có ba linh hồn tranh đấu với nhau trong một thể xác, Dabmannus có hai cuộc đời: trước và sau khi khỏi bệnh, Ateh mỗi buổi sáng lại có một khuôn mặt mới, cùng một người có hai nhân thân: quá khứ, tương lai, cùng một hành trình có ba kẻ song hành… Sự phân tách là hiển nhiên, còn sự hợp nhất thì vô vọng. Thay vào việc chăm chăm sùng bái những giá trị bất biến mà chúng ta quen gọi là đại tự sự (grand narratives), các nhân vật trong Từ điển Khazar tôn trọng sự khác biệt, những tính chất riêng của các thực thể mà không định giá sai hay đúng, thái độ phổ biến của họ là không áp đặt một ý thức hệ cho mọi trường hợp, thay vào đó, tồn tại của mọi sự vật là tồn tại trong đa dạng. Al-Bekri Spanyard – nhà biên niên sử người A rập về luận chiến Khazar viết:
  14. Mỗi từ, ngài đều giải thích cho ta theo tám cách khác nhau… ba tôn giáo – Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái giáo – có thể coi như ba cấp độ của “Sách thiêng”. Mỗi dân tộc thủ đắc một lớp của “Sách thiêng” theo cách của mình, theo thứ tự phù hợp với họ, và chính bằng cách đó thể hiện bản chất đích thực của họ (tr.196). Vậy nên Từ điển Khazar có giọng giễu cợt, mai mỉa đặc trưng khi nói về các giá trị được con người tín niệm bấy lâu nay, Milorad Pavic bình thường hóa những biểu tượng thiêng. Nikon Sevast – họa sĩ được các nhà thờ vùng Balkan săn đón đã làm như thế này: Y vẽ bốn vị thánh Phúc âm… lên những móng của con ngựa y cưỡi, vẽ Mười điều răn lên mười móng tay mình, vẽ thánh nữ Maria người Ai Cập lên chiếc gàu ở giếng nước, vẽ hai vị Eva… lên hai cánh cửa sổ. Y vẽ trên những khúc xương đã gặm nham nhở, lên răng mình và răng người khác, lên các túi áo lộn trái, lên mũ, lên sàn nhà (tr.148). Sự kiện cốt lõi của tác phẩm là hành trình tìm kiếm sự thật về kết quả cuộc luận chiến Khazar, đó cũng là hành trình lắp ghép các tài liệu rời rạc của ba tôn giáo lại với nhau, trong hy vọng sẽ nhìn thấy chính xác điều gì đã xảy ra. Cuộc tìm kiếm ấy diễn ra không phải với một mà là ba người, và không chỉ một lần, khi được tái sinh, họ lại tiếp tục tìm kiếm. Nhưng cuối cùng chẳng ai được thỏa mãn. Cuộc tìm kiếm sự thật về sự kiện người Khazar cải đạo chưa bao giờ có được kết quả, những người đi tìm đều chết hoặc bị cầm tù khi sắp chạm đến nó. Hầu như chỉ còn một bước cuối cùng để chạm vào sự thật. Thực tế là, ba tôn giáo có đại diện trong luận chiến Khazar đều nhận
  15. phần thắng về mình, điều đó cho thấy tính hiếu thắng cố hữu, đồng thời là sự thiên lệch trong nhận thức. Dưới con mắt của bộ ba tìm kiếm, luận chiến Khazar giống như một chân lý bị phủ mờ, và họ khao khát có được chân lý. Cuộc tìm kiếm của họ rơi vào bế tắc ngay từ mục đích của nó: họ khước từ cách hiểu xuất phát từ một ý thức hệ cứng nhắc chiếm địa vị độc tôn trong cộng đồng của họ, nhưng lại di chuyển niềm tin vào một sự thật mơ hồ và hầu như vô ích. Cái chết giống như sự trả giá cho niềm tin mù quáng ấy: “soạn cuốn từ điển Khazar từ những ngôn từ vương vãi, trong ngọn tháp tĩnh lặng này, việc đó nguy hiểm hơn nhiều so với đi đánh nhau ở sông Danube, nơi người Áo và người Thổ đang giao chiến” (tr.91). Sự thực tối hậu không thể chạm tới, hay là cái sự thực tối hậu ấy vốn không đáng tin, hoặc không tồn tại. Tác giả nhiều lần để cho nhân vật giễu cợt những giá trị vốn được coi là bất biến, như chân lý, sự thật, lịch sử… Sau khoảng thời gian đằng đẵng đi tìm số phận mình, Farabi Ibn Kora vỡ lẽ: “chân lý thật ra là một cái mẹo” (tr.222), người đi tìm chân lý bị thử thách để xem họ có thực tin vào chân lý hay không, nhưng dù tin hay không tin, họ vẫn không tìm đến được chân lý vì những thử thách ấy cố tình đưa họ ra xa, “bản thân cuộc tìm kiếm đã vô ích” (tr.225), vậy thì chân lý có còn ý nghĩa gì. Dabmannus, người suốt đời làm việc với sách thì nói: “tri thức là món hàng mau hỏng, ngoảnh đi ngoảnh lại đã mốc meo rồi” (tr.348). Yehuda học triết học lại bình luận về triết học Hy lạp cổ đại là “chỉ có màu mà không có quả” (tr.352). Mọi giá trị người đời tin tưởng bị xét lại bằng cái nhìn giễu cợt và những lối so sánh xấc xược thường thấy trong văn chương hậu hiện đại.
  16. Chân lý đối với các nhân vật rốt cuộc cũng chỉ là kết quả của sự tự huyễn hoặc mình. Sau khi tập hợp các thư tịch Do Thái về luận chiến Khazar, Cohen viết: “chân lý của tôi là bí mật đối với họ” (tr.326), còn người biên soạn thì nói ngay từ đầu từ điển, rằng “người ta không thể thu được từ chân lý nhiều hơn những gì mình đã đặt vào chân lý” (tr.39). Con người tự đưa ra cho mình cái gọi là “chân lý”, gán cho nó những giá trị mình muốn, rồi quay ngược lại nô lệ vào khái niệm ấy. Đối với chủ nghĩa hậu hiện đại, điều đó thật quái gở và vô nghĩa. Hình ảnh cái lồng trở đi trở lại trong tác phẩm như một biểu tượng về sự giam hãm mà con người tự gây cho mình. Skila hy vọng nhiệt cuồng về đường kiếm cuối cùng trong sơ đồ kiếm thuật, để rồi cuối cùng những đường kiếm bao quanh hắn như nhà tù khiến hắn câm lặng và mất tự do. Mokadasa thu mình trong nội quy kỳ quặc: phải làm thụ thai mười ngàn nữ tu còn trinh, cho đến cuối đời thì bị cầm tù trong một cái chuồng… Milorad Pavic để cho một con quỷ lên tiếng giễu cợt con người: “trên mặt đất các ngươi mãi bị cầm tù trong một hình thức duy nhất, cái dạng thức mà các ngươi dựng nên bằng sự ra đời của các ngươi” (tr.258). Mỗi người là tù nhân tư tưởng của chính mình. Cái gọi là “con người – trung tâm vũ trụ” hay “con người – động vật ưu việt” trở nên mất giá, và những giá trị con người mặc định lâu nay cũng theo đó mà lỏng lẻo, phù phiếm. Hiện thực giấc mơ trong tác phẩm là một sáng tạo đặc sắc của Milorad Pavic. Nhân vật sống trong mơ nhiều hơn sống với đời thực, cuộc đời của họ bị chi phối và quyết định từ những giấc mơ. Ở góc độ tâm lý học – Simund Freud và cộng sự đã khẳng định mơ là một “hoạt động tinh thần” [34; 92], còn Milorad Pavic đưa giấc mơ trở thành một kiểu lao động trí óc nghiêm
  17. túc, đến nỗi nó được coi là một nghề: “săn mộng”. Giấc mơ được xếp ngang hàng với ý nghĩ: “những ý nghĩ và giấc mơ của con người có lớp vỏ ngoài rắn chắc, không thể xuyên thủng, để bảo vệ cái nhân mềm bên trong khỏi bị chấn thương” (tr.158). Mơ đánh thức khả năng ngôn ngữ, Brankovic, Cohen có thể nói những thứ tiếng lạ trong mơ, không phải những âm thanh vô nghĩa, mà là câu chữ thực sự bằng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Valachia. Nhưng giấc mơ cũng là con đường dẫn đến cái chết, giấc mơ và cái chết là chị em cùng họ, mỗi lần mơ là mỗi lần nhân vật tự thử nghiệm và tới gần cái chết: “giấc mơ là kết cục mỗi ngày của sự sống, một bài luyện tập nhỏ về cái chết” (tr.187). Nhân vật bỏ cả cuộc đời để dong ruổi trong mơ với tham vọng tìm ra cách hợp nhất các phiên bản của từ điển Khazar, hay nói chính xác hơn là để lắp ghép các mảnh của Adam – người tiền triệu – hình ảnh tối thượng, biểu tượng chân lý. Giấc mơ là con đường đi tới chân lý, “dưới đáy của mỗi giấc mơ là Thượng đế” (tr.139). Ngay ở những tính chất được Milorad Pavic gán cho giấc mơ đã thể hiện một lối định nghĩa giễu cợt: chân lý là mơ, là đồng nghĩa với cái chết. Tác phẩm đã để cho nhân vật chết thật, chết trước khi chạm vào chân lý. Có lẽ lý do thực sự đẩy họ vào kết cục bi thảm đó không phải là do họ không tìm thấy chân lý, mà là do họ có ý định đi tìm chân lý. Tác giả cho thấy đó rõ ràng là một ý định kỳ quặc, và kết quả sẽ chẳng có được gì. Trong cả hai bộ ba tìm kiếm, T.S Schutlz là người duy nhất không chết, bởi mục đích đầu tiên của cô khi đến dự hội nghị về các vùng ven Biển Đen không phải để tìm các bản ghi chép của Thánh Cyril trong cuộc luận chiến Khazar, mà là để tìm T.S Muawia – kẻ xen vào hạnh phúc gia đình cô: “chị đến Istanbul để rốt cuộc
  18. gặp hắn. Từ lâu chị đã tính rằng nghề nghiệp của chị và hắn gần nhau đến nỗi chỉ cần tham gia những cuộc hội nghị khoa học là đủ để rốt cuộc đường của chị và của hắn sẽ gặp nhau” (tr.414). Mục đích riêng tư đã cứu T.S Schutlz thoát chết. Một lần nữa, thông qua những lời mô tả về giấc mơ – chiếm phần lớn dung lượng tác phẩm, Milorad Pavic cho thấy ông coi chân lý chỉ như một giá trị được áp đặt lên ý thức của con người. S.Freud qua những khảo sát chi tiết về các giấc mơ của người lớn và cả trẻ con, đã đưa ra kết luận: “Lòng ham muốn chính là sự kích động của giấc mơ: sự thực hiện lòng ham muốn này chính là nội dung giấc mơ: đó chính là một trong các tính chất cơ bản của giấc mơ” [34; 142]. Sự kích động và ham muốn này trong thực tại thông thường là của chính người mơ, Từ điển Khazar cho thấy chiều ngược lại: kẻ đi tìm giấc mơ bị thúc đẩy bởi những kích động và ham muốn của người khác. Bộ ba tìm kiếm vốn không có ý nghĩ về cuộc luận chiến Khazar ngay từ đầu, họ gặp một nhân vật bí hiểm nào đó, bị người ấy thuyết phục trở thành nhà săn mộng, và họ đi theo các giấc mộng với sự thôi thúc của sứ mệnh “nghề săn mộng của chúng ta”. Ý nghĩ “đến gần hơn với chân lý” trong mơ là ý nghĩ bị áp đặt từ bên ngoài. Đối với nhân vật, chân lý – giấc mơ là vô nghĩa: họ từ bỏ tất cả để lang thang trong giấc mơ, và ở cuối con đường, cái chết đang chờ đợi. Milorad Pavic đã phát biểu về mục đích sáng tác của ông, “Tôi chưa hề mong muốn mang lại trật tự cho cái mà tôi cho là công trình của Thượng đế. Thật ra, tôi muốn biểu hiện cái hỗn mang này qua tác phẩm của tôi” (tr.507).
  19. Nắm bắt cái biến chuyển, nhỏ nhặt, khước từ khái niệm trật tự, hệ thống – đó cũng chính là một nội dung của chủ nghĩa hậu hiện đại. 3.2. Về vấn đề sáng tạo và tiếp nhận Văn học không chỉ là thực tiễn sáng tác mà còn có sự phản hồi của người đọc, thể hiện rõ và tập trung nhất ở công việc lý luận phê bình. Thực tế cho thấy rằng nền văn học nào có nền tảng lý luận phê bình vững chắc, tinh nhạy sẽ dễ dàng gặt hái được mùa vàng thành tựu, thay cho những thành công lẻ tẻ mang tính cá nhân. Đối với thể loại tiểu thuyết nói riêng cũng vậy. Người viết tiểu thuyết nếu có ý thức về thể loại mà mình đang hoạt động tức là đã làm việc một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp. Bởi vậy mà người ta thường chú ý đến quan niệm của nhà viết tiểu thuyết về tiểu thuyết, như một con đường đi vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời đánh giá tư duy nghệ thuật của nhà văn. Bản dịch Từ điển Khazar ở Việt Nam ngoài phần tác phẩm, có đính kèm một tiểu luận của tác giả (Đầu và cuối của tiểu thuyết) và một cuộc trò chuyện giữa tác giả với Thanassis Lallas; các văn bản này thể hiện rõ nét quan niệm về tiểu thuyết của Milorad Pavic. Tuy nhiên, bản thân tác phẩm của ông cũng là nơi chúng ta có thể tìm thấy quan niệm không những về tiểu thuyết mà còn về văn chương – nghệ thuật nói chung. Quan niệm của Milorad Pavic và sự thể hiện trong tác phẩm có độ lệch nào không hay hoàn toàn trùng khít, khảo sát Từ điển Khazar sẽ thấy được điều đó. Mục 3.1 đã bàn về hiện tượng phân mảnh của tác phẩm như một biểu hiện của thi pháp hậu hiện đại, ở đây chúng tôi muốn nói đến một phương diện khác. Để thể hiện cái rời rạc, tan rã của thế giới, các nhà văn hậu hiện đại vẫn
  20. có thể dùng hình thức bình thường của tiểu thuyết, tức là chia ra từng chương, đoạn trong một văn bản liền mạch. Milorad Pavic sử dụng hình thức từ điển, hình thức đó vừa thể hiện hiện tượng tan rã cốt truyện, nhân vật, thời gian, không gian; đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự tự do trong cách đọc. Đặc điểm này liên quan đến một “cảm nhận” của tác giả, trong đó nghệ thuật phân thành hai loại: có thể đảo ngược và không thể đảo ngược. Những nghệ thuật tác động vào thị giác như hội họa hay điêu khắc có thể được thưởng thức theo nhiều chiều hướng: ngoài vào trong, trước ra sau… hay ngược lại đều được. Trong khi đó, những loại hình bị hạn chế trong trường không gian hay thời gian, như văn học hay âm nhạc thì không thể cùng một lúc bao quát hết tất cả, vì thế độc giả đã quen với việc tiếp nhận một văn bản viết theo kiểu từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, nghe một bản nhạc từ đầu đến cuối. Thơ cổ điển của phương Đông có một thể loại gọi là “thuận nghịch độc”, trong đó người đọc có thể đọc ngược, xuôi theo sáu cách khác nhau, và những thi sĩ làm được thể loại này rất được tán thưởng, nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Điều đó cho thấy hạn chế về cách thức tiếp nhận của văn học. Văn học dường như là một nghệ thuật “không thể đảo ngược”. Umberto Eco đã chỉ ra rằng âm nhạc có thể nghe bằng nhiều cách khác nhau, và người trình diễn trong mỗi lần phải tham gia quyết định cường độ, trường độ của các âm, bản nhạc không phải là một hình thức đông cứng [44; 383]. Đến lượt mình, Milorad Pavic đã thực hành việc đảo ngược văn học bằng cách tấn công vào hình thức của nó, và trung thành với mục đích ấy trong bộ tứ tiểu thuyết chứ không phải ở một tác phẩm duy nhất. Điều quan trọng là Milorad Pavic gắn chặt vấn đề “thuận – nghịch” của nghệ thuật với
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0