intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 12: Thuế và trợ cấp phát thải

Chia sẻ: Money Money | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

98
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương này trình bày một số vấn đề liên quan đến thuế và trợ cấp phát thải như: Kinh tế học cơ bản về thuế phát thải, thuế và tiêu chuẩn phát thải, mức thuế hiệu quả xã hội, thuế phát thải và hiệu quả chi phí, thuế phát thải và tiêu chuẩn, thuế phát thải và chất thải hỗn hợp không đồng nhất,... Mời các bạn cùng tham khảo để biết thêm các nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 12: Thuế và trợ cấp phát thải

CHƯƠNG 12<br /> <br /> THUẾ VÀ TRỢ CẤP PHÁT THẢI<br /> Nếu chúng ta muốn xây nhà, chúng ta phải mua vật liệu xây dựng; không người nào có thể<br /> cho chúng ta miễn phí. Nếu muốn có kiến trúc sư, thợ mộc làm nhà chúng ta phải thuê họ,<br /> họ sẽ không làm việc nếu không được gì cả. Nói cách khác để sử dụng dịch vụ của những<br /> người này chúng ta phải trả tiền cho họ. Chúng ta thường làm như vậy bởi vì những dịch<br /> vụ và hàng hoá này được mua và bán ở thị trường. Việc trả tiền cho họ khuyến khích<br /> chúng ta sử dụng những đầu vào này một cách tiết kiệm và hiệu quả tối đa có thể được.<br /> Cách tiếp cận khuyến khích kinh tế khi lập chính sách môi trường cũng hoạt động theo<br /> cách như vậy. Cho tới thời gian gần đây người ta đã có thể sử dụng dịch vụ tiếp nhận chất<br /> thải của môi trường mà không phải trả tiền, điều này không khuyến khích họ nghĩ về hậu<br /> quả môi trường cũng như không tiết kiệm trong việc sử dụng những tài nguyên môi trường<br /> này. Phương pháp khuyến khích kinh tế nhằm thay đổi tình hình này.<br /> Có hai loại chính sách khuyến khích dựa vào thị trường: (1) thuế và trợ cấp và (2) giấy<br /> phép phát thải có thể chuyển nhượng. Cả hai đều đòi hỏi người quản lý triển khai và giám<br /> sát kết quả, vì vậy chúng ít phân quyền hơn so với luật nghĩa vụ pháp lý hoặc để cho các<br /> bên thỏa thuận về mức ô nhiễm. Người quản lý quy định mức giá cho ô nhiễm qua thuế<br /> hoặc trợ cấp và quy định khối lượng phát thải cho phép với giấy phép thải có thể chuyển<br /> nhượng. Với công cụ giấy phép, thị trường sẽ quyết định giá ô nhiễm. Với mỗi chính sách,<br /> chủ thể gây ô nhiễm tự quyết định lượng ô nhiễm sẽ thải dựa trên giá ô nhiễm mà họ phải<br /> trả. Hiện nay ở Canada việc sử dụng công cụ khuyến khích kinh tế còn hạn chế, chính phủ<br /> đang dự định sử dụng chúng rộng rãi hơn.<br /> Ở Hoa kỳ, luật môi trường đã bắt đầu đưa vào nhiều loại hệ thống giấy phép phát thải có<br /> thể chuyển nhượng. Các quốc gia khác, đặc biệt là châu Âu, lệ thuộc nhiều vào các chương<br /> trình thuế phát thải. Chương này sẽ khảo sát yếu tố kinh tế của thuế và trợ cấp phát thải;<br /> Chương 13 sẽ đề cập phương pháp sử dụng giấy phép phát thải có chuyển nhượng.<br /> Các nhà kinh tế học từ lâu đã ủng hộ ý tưởng đưa các chính sách khuyến khích kinh tế<br /> nhiều hơn vào các chính sách về môi trường. 1 Những chính sách này có thể đóng vai trò<br /> giúp cho các chính sách về môi trường trở nên sắc sảo hơn trong nhiều trường hợp, cũng<br /> như giúp làm tăng đáng kể tính hiệu quả về chi phí của các chính sách này. Nhưng chúng<br /> ta cũng cần phải nhớ một điều đã được đề cập đến trước đây: Khó có một chính sách riêng<br /> lẻ nào có thể được coi là chính sách tốt nhất trong mọi trường hợp. Các chính sách dựa trên<br /> động cơ khuyến khích kinh tế cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chúng có những mặt<br /> mạnh và cũng có những mặt yếu. Những mặt mạnh thì đủ mạnh để khuyến khích người ta<br /> trông cậy vào chúng trong nhiều trường hợp. Nhưng cũng có nhiều vấn đề về môi trường<br /> mà chúng tỏ ra không hữu ích bằng các phương pháp giải quyết khác.<br /> <br /> 1<br /> <br /> Vào những năm 1930 một nhà kinh tế học đã nhấn mạnh vai trò của thuế như là một phương pháp nội hóa<br /> ngoại tác là A.C. Pigou. Từ đó thuế môi trường thường được gọi là thuế Pigou.<br /> <br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 1<br /> <br /> THUẾ PHÁT THẢI<br /> Phương pháp đơn giản nhất dựa trên động cơ khuyến khích kinh tế để kiểm soát việc xả<br /> một loại chất thải nào đó là cho phép một cơ quan quản lý công cộng đưa ra những khuyến<br /> khích về mặt tài chánh để thay đổi việc xả chất thải đó. Có thể làm được điều này bằng hai<br /> cách: bằng cách đánh thuế mỗi đơn vị phát thải hoặc trợ cấp cho mỗi đơn vị chất thải được<br /> cắt giảm.<br /> Trước hết chúng ta hãy xem xét đến thuế phát thải, đôi khi còn được gọi là “phí phát thải”.<br /> Thuế phát thải ngụ ý rằng chủ thể gây ô nhiễm có thể thải bất kỳ khối lượng chất thải bị<br /> đánh thuế nào họ muốn, nhưng họ phải trả thuế cho mỗi đơn vị phát thải (ví dụ, tấn). Ví<br /> dụ, một số chính phủ chấu Âu đánh thuế hàm lượng cácbon của nhiên liệu để giảm thải khí<br /> CO2 và cải thiện vấn đề nóng lên toàn cầu. Khi thực thi thuế phát thải tác nhân xả thải phải<br /> trả tiền cho dịch vụ môi trường – vận chuyển, pha loãng, và phân huỷ – giống như họ phải<br /> trả tiền cho các đầu vào khác hoặc hàng hoá họ sử dụng. Mỗi khi ô nhiễm được “định giá”<br /> bởi thuế, những ai phát thải sẽ có động cơ thải ít hơn; có nghĩa là bảo tồn việc sử dụng dịch<br /> vụ môi trường của họ. Họ làm điều này bằng cách nào? Bằng bất cứ cách nào mà họ muốn<br /> (trong khuôn khổ hợp lý). Điều này nghe có vẻ như đùa bỡn nhưng thực tế chính nó lại là<br /> ưu điểm của kỹ thuật này. Bằng cách để cho các đối tượng gây ô nhiễm được tự do quyết<br /> định cách nào tốt nhất để làm giảm việc xả chất thải, loại hình chính sách này nhằm sử<br /> dụng ngay chính năng lực và óc sáng tạo cũng như lòng mong muốn tối thiểu hóa chi phí<br /> của các công ty để tìm ra cách ít tốn kém nhất để cắt giảm chất thải. Có thể áp dụng kết<br /> hợp nhiều phương án như xử lý, thay đổi quy trình sản xuất nội bộ, thay đổi các nhập<br /> lượng, tái chế, chuyển qua hướng tạo ra những sản phẩm bớt gây ô nhiễm hơn<br /> Cốt lõi của phương pháp thuế là tạo ra động cơ khuyến khích kinh tế để chính<br /> các đối tượng gây ô nhiễm tự tìm phương cách tốt nhất nhằm cắt giảm mức<br /> phát thải, thay vì để các giới chức ở cấp trung ương quyết định việc này cần<br /> phải được thực hiện như thế nào.<br /> <br /> Kinh tế học cơ bản về thuế phát thải<br /> Hoạt động chính của thuế phát thải được mô tả ở Hình 12-1. Những con số đề cập một<br /> nguồn thải một chất gây ô nhiễm có đường chi phí giảm ô nhiễm biên MAC = 200 – 4E.<br /> Giả sử người quản lý quy định mức thuế 100$/tấn/tháng. Bảng ở phía trên trình bày phân<br /> tích bằng số, trong khi đó phía dưới thể hiện thông tin này bằng đồ thị. Cột thứ hai thể hiện<br /> chi phí giảm ô nhiễm biên (MAC) và cột thứ 3 thể hiện tổng chi phí giảm ô nhiễm (TAC) ở<br /> mỗi mức phát thải. Hai cột cuối thể hiện tổng tiền thuế hàng tháng mà nhà máy phải trả ở<br /> những mức ô nhiễm khác nhau và tổng chi phí thực thi tư nhân.<br /> Tổng chi phí tư nhân của việc thực thi thuế phát thải là tổng của chi phí giảm ô<br /> nhiễm và tiền thuế của chủ thể gây ô nhiễm.<br /> Như chúng ta sẽ thấy, những chi phí này không giống như chi phí xã hội. Tổng chi phí tối<br /> thiểu 3.750$ đạt được tại mức phát thải 25 tấn mỗi tháng. Có thể thấy lôgíc đằng sau vấn<br /> đề này bằng cách xem xét chi phí giảm ô nhiễm biên. Nếu không có quy định, chủ thể gây<br /> ô nhiễm thải E0=50 tấn mỗi tháng và trả tiền thuế 5.000$ (50 tấn nhân 100$); nếu chủ thể<br /> gây ô nhiễm giảm thải tới mức 45 tấn, chi phí giảm ô nhiễm tăng 50$, nhưng tiền thuế tiết<br /> kiệm được là 500$. Theo lôgic này, có thể cải thiện kết quả bằng cách tiếp tục giảm thải<br /> chừng nào thuế suất còn lớn hơn chi phí giảm ô nhiễm biên. Nguyên tắc nhà máy tuân theo<br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 2<br /> <br /> là: giảm thải đến khi chi phí giảm ô nhiễm biên bằng thuế suất. Điều này được thể hiên<br /> bằng đồ thị ở phần dưới hình 12-1. Nhắc lại<br /> Chủ thể gây ô nhiễm tối thiểu hoá tổng chi phí tư nhân của họ bằng cách giảm<br /> thải tới khi thuế suất bằng chi phí giảm ô nhiễm biên.<br /> Hình 12-1: Khái niệm kinh tế học cơ bản của thuế phát thải<br /> Phát thải<br /> Chi phí giảm ô<br /> Tổng chi phí<br /> Tổng tiền thuế<br /> (tấn/tháng)<br /> nhiễm biên ($)<br /> giảm ô nhiễm<br /> hàng tháng<br /> 50<br /> 45<br /> 40<br /> 35<br /> 30<br /> 25<br /> 20<br /> 15<br /> 10<br /> 5<br /> 0<br /> <br /> 0<br /> 20<br /> 40<br /> 60<br /> 80<br /> 100<br /> 120<br /> 140<br /> 160<br /> 180<br /> 200<br /> $<br /> 200<br /> <br /> 0<br /> 50<br /> 200<br /> 450<br /> 800<br /> 1250<br /> 1800<br /> 2450<br /> 3200<br /> 4050<br /> 5000<br /> <br /> 5000<br /> 4500<br /> 4000<br /> 3500<br /> 3000<br /> 2500<br /> 2000<br /> 1500<br /> 1000<br /> 500<br /> 0<br /> <br /> Tổng chi phí của<br /> chủ thể gây ô<br /> nhiễm ($)<br /> 5000<br /> 4550<br /> 4200<br /> 3950<br /> 3800<br /> 3750<br /> 3800<br /> 3950<br /> 4200<br /> 4550<br /> 5000<br /> <br /> MAC<br /> <br /> Thuế/tấn<br /> =100<br /> <br /> a<br /> <br /> 0<br /> <br /> b<br /> <br /> 25<br /> <br /> 50<br /> E0<br /> <br /> Phát thải<br /> (tấn/tháng)<br /> <br /> Đánh thuế phát thải 100$ mỗi tấn chất thải mỗi tháng. Bảng trên cho thấy chi phí giảm ô nhiễm biên và<br /> tổng chi phí giảm ô nhiễm, tiền thuế, và tổng chi phí. Tổng chi phí giảm ô nhiễm là nhỏ nhất ở mức thải<br /> là 25 tấn mỗi tháng. Điều đó được thể hiện bằng đồ thị tại điểm đường thuế cắt đường MAC. Diện tích a<br /> là tiền thuế; diện tích b là tổng chi phí giảm ô nhiễm.<br /> <br /> Sau khi chủ thể gây ô nhiễm giảm mức phát thải đến 25 tấn mỗi tháng, tổng tiền thuế (hàng<br /> tháng) là 2.500$. Chi phí giảm ô nhiễm hàng tháng là 1.250$. Trên đồ thị, tổng chi phí<br /> giảm ô nhiễm tương ứng diện tích phía dưới hàm MAC, ký hiệu là b ở trên sơ đồ. Tổng<br /> tiền thuế bằng lượng phát thải nhân với thuế suất, hoặc diện tích hình tam giác ký hiệu là a.<br /> Như vậy tổng chi phí tư nhân là diện tích (a+b).<br /> Giả sử chủ thể gây ô nhiễm là một nhà máy. Tại sao nhà máy không thể không quan tâm<br /> đến thuế, tiếp tục gây ô nhiễm như đã từng làm, và chuyển thuế cho người tiêu dùng dưới<br /> hình thức giá cao hơn? Nếu nhà máy phát thải 50 tấn, tổng chi phí của nhà máy là 5.000$<br /> mỗi tháng, bao gồm toàn bộ tiền thuế. Như vậy là cao hơn nhiều so với 3.750$ mà nhà máy<br /> có thể đạt được bằng cách giảm thải tới mức 25 tấn mỗi tháng. Nếu hoạt động trong môi<br /> trường cạnh tranh hoàn hảo, nhà máy tồn tại bằng cách tối đa hóa lợi nhuận. Do đó để tối<br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 3<br /> <br /> đa hóa lợi nhuận, nhà máy phải làm mọi cách để tối thiểu hóa tổng chi phí, bao gồm cả<br /> thuế phát thải. Phản ứng của nhà máy phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thuế càng cao giảm<br /> phát thải càng nhiều và ngược lại. Trong ví dụ của hình 12-1, mức thuế 50$ làm nhà máy<br /> giảm đến mức 37,5 tấn/tháng, trong khi mức thuế 180$ làm giảm phát thải tới 5 tấn/tháng.<br /> Cũng vậy, hàm số chi phí giảm ô nhiễm biên càng dốc, phát thải giảm càng ít khi có thuế.<br /> Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này ở phần dưới đây. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng nếu nhà<br /> máy không hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thuế sẽ không hoạt động theo<br /> cách chúng ta đã phân tích. Cũng vậy, những nhà máy bán sản phẩm của mình trên thị<br /> trường quốc tế và cạnh tranh với những đối thủ không phải trả thuế môi trường không thể<br /> nào chuyển một phần thuế sang người tiêu thụ.<br /> <br /> Thuế và tiêu chuẩn phát thải<br /> So sánh công cụ thuế và công cụ tiêu chuẩn phát thải. Với thuế, tổng chi phí của công ty là<br /> 3.750$. Giả sử thay vào đó, nhà chức trách ban hành một tiêu chuẩn phát thải quy định<br /> công ty phải giảm phát thải xuống tới mức 25 tấn/tháng. Trong trường hợp này, tổng chi<br /> phí của công ty chỉ là 1,250$ cho phần giảm ô nhiễm. Do đó, hệ thống thuế cuối cùng lại<br /> gây ra nhiều chi phí cho công ty hơn công cụ tiêu chuẩn. Với công cụ tiêu chuẩn, công ty<br /> có cùng mức chi phí giảm ô nhiễm như với công cụ thuế nhưng vẫn sử dụng miễn phí dịch<br /> vụ môi trường, trong khi với hệ thống thuế, công ty phải trả tiền cho dịch vụ môi trường<br /> này. Trong khi các công ty gây ô nhiễm thích công cụ tiêu chuẩn hơn thuế phát thải, có lý<br /> do để ta thấy rằng tại sao xã hội lại thích công cụ thuế hơn công cụ tiêu chuẩn.<br /> <br /> Mức thuế hiệu quả xã hội<br /> Trong tình trạng có cạnh tranh, mức thuế đánh càng cao thì phát thải giảm càng nhiều,<br /> nhưng cụ thể là cần phải định ra một mức thuế cao đến bao nhiêu? Nếu chúng ta biết hàm<br /> thiệt hại biên và hàm giảm ô nhiễm biên, câu trả lời sẽ là định mức thuế sao cho có được<br /> mức phát thải hiệu quả, như có thể thấy ở Hình 12-2. Chúng ta thêm hàm thiệt hại biên<br /> MD = 4E vào cùng với đường MAC trong hình 12-1. Cho MD bằng MAC ta có thuế suất<br /> hiệu quả xã hội là 100$/tấn. Nếu nhà chức trách biết thông tin của cả hai hàm số này thì có<br /> thể tính được mức thuế trên mỗi đơn vị phát thải.<br /> Chi phí thực thi của chính sách thuế là bao nhiêu? Chúng ta phải phân biệt chi phí tư nhân<br /> và chi phí xã hội. Chúng ta đã định nghĩa chi phí thực thi tư nhân, bằng tổng chi phí giảm ô<br /> nhiễm cộng tiền thuế. Trong hình 12-2, chi phí tư nhân là diện tích e cộng diện tích<br /> (a+b+c+d). Nhưng chi phí thực thi tư nhân không đại diện cho chi phí nguồn lực xã hội<br /> phải gánh chịu khi áp dụng chính sách thuế. Chúng ta quan tâm đến chi phí xã hội<br /> Chi phí thực thi xã hội chỉ bao gồm những nguồn lực cần thiết để đạt mục tiêu<br /> môi trường; nghĩa là không bao gồm tiền thuế.<br /> Thuế thực sự là khoản thanh toán chuyển giao, là khoản thanh toán các tác nhân gây ô<br /> nhiễm trả cho khu vực công và cuối cùng là cho xã hội, những người thụ hưởng lợi ích từ<br /> chi tiêu công. Người gây ô nhiễm cũng có thể là người thụ hưởng những lợi ích này. Do đó<br /> khoản thanh toán chuyển giao không phải là chi phí xã hội của chính sách. Như vậy chi phí<br /> thực thi xã hội là diện tích e, là tổng chi phí giảm ô nhiễm của người gây ô nhiễm.<br /> Xã hội cũng quan tâm đến lợi ích xã hội ròng của chính sách thuế.<br /> <br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 4<br /> <br /> Lợi ích xã hội ròng của một chính sách được định nghĩa là tổng thiệt hại giảm<br /> được trừ chi phí thực thi xã hội<br /> Hình 12-2: Thuế phát thải hiệu quả xã hội<br /> $<br /> 200<br /> <br /> MD<br /> MAC<br /> <br /> f<br /> <br /> 100<br /> a<br /> <br /> c<br /> e<br /> d<br /> <br /> b<br /> 0<br /> <br /> 10<br /> E1<br /> <br /> 25<br /> E*<br /> <br /> 50 Phát thải<br /> E0 (tấn/tháng)<br /> <br /> Cân bằng hiệu quả xã hội đạt được với mức thuế bằng 100$/tấn. Đây là mức “giá” mà MD =<br /> MAC. Chi phí thực thi tư nhân là tổng tiền thuế phải trả, diện tích (a+b+c+d), cộng với tổng chi<br /> phí giảm ô nhiễm, là diện tích e. Tổng chi phí thực thi xã hội là TAC. Lợi ích ròng của công cụ<br /> thuế là tổng thiệt hại mất đi, diện tích (e+f) trừ TAC, là diện tích f.<br /> <br /> Ví dụ: Tính toán lợi ích xã hội ròng trong hình 12-2<br /> Các bước thực hiện như sau:<br /> 1. Tính tổng thiệt hại giảm được.<br /> Tổng thiệt hại giảm được chính là diện tích dưới đường MD giới hạn bởi mức phát thải ban<br /> đầu và mức phát thải hiệu quả xã hội, E*.<br /> Đây là diện tích (e + f) = 3.750$.<br /> 2. Tính tổng chi phí giảm ô nhiễm.<br /> TAC = diện tích e = 1.250$.<br /> 3. Tính lợi ích xã hội ròng.<br /> Lợi ích xã hội ròng = Tổng thiệt hại giảm được trừ tổng chi phí giảm ô nhiễm.<br /> Lợi ích xã hội ròng = diện tích (e + f) trừ diện tích e = 2.500$.<br /> Chúng ta có thể so sánh lợi ích xã hội ròng của thuế phát thải với tiêu chuẩn phát thải tại<br /> mức phát thải hiệu quả xã hội, 25 tấn/tháng. Lợi ích xã hội ròng của công cụ tiêu chuẩn<br /> bằng với lợi ích xã hội ròng của công cụ thuế tại cùng một mức phát thải. Sự khác biệt nằm<br /> ở tác động lên người gây ô nhiễm.<br /> Giảm phát thải từ E0 = 50 đến E* = 25 tấn mỗi tháng làm giảm thiệt hại xuống còn (e + f).<br /> Thiệt hại cón lại là (b + d), là khoản chi phí ít hơn khoản tiền công ty trả thuế. Điều này<br /> khẳng định ý tưởng thuế phát thải dựa trên quyền sử dụng tài nguyên môi trường, chứ<br /> không phải dựa trên khái niệm đền bù. Nhưng cũng có nhiều người phê phán loại thuế<br /> <br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0