CHƯƠNG 4<br />
<br />
HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG<br />
Chương này bao gồm các mục tiêu sau: đưa ra khái niệm hiệu quả kinh tế như là một chỉ<br />
số để khảo sát xem nền kinh tế hoạt động như thế nào và như là một tiêu chuẩn cho việc<br />
thẩm định xem nền kinh tế đó có hoạt động đúng với khả năng của nó hay không. Hiệu quả<br />
kinh tế là một khái niệm đơn giản nhưng là một khái niệm nhận được nhiều đề nghị xem<br />
như là một tiêu chuẩn để đánh giá sự hoạt động của một hệ thống kinh tế hoặc một phần<br />
của hệ thống kinh tế đó. Nhưng khái niệm này cần được dùng với sự cẩn trọng. Có phải<br />
một hệ thống thị trường, tự bản thân nó, sẽ cho ra các kết quả đạt hiệu quả kinh tế? Một xí<br />
nghiệp riêng lẻ hay một nhóm các xí nghiệp có thể được đánh giá hiệu quả khi khảo sát các<br />
chi phí và những lợi ích tư nhân từ hoạt động kinh doanh. Song, để đánh giá kết quả về mặt<br />
xã hội của các xí nghiệp này, chúng ta phải sử dụng khái niệm “hiệu quả kinh tế” với nghĩa<br />
rộng hơn. Hiệu quả kinh tế phải bao gồm toàn bộ các giá trị về mặt xã hội và cả các kết quả<br />
của những quyết định kinh tế, đặc biệt là những kết quả về môi trường. Thảo luận về mối<br />
liên hệ giữa hiệu quả kinh tế và tính công bằng cũng rất quan trọng.<br />
Mục tiêu thứ hai của chương này là nhằm giải đáp câu hỏi liệu rằng một hệ thống thị<br />
trường, tự bản thân nó, có thể tạo được kết quả mang tính hiệu quả xã hội hay không.<br />
Hiệu quả xã hội nghĩa là tất cả thị trường hoạt động mà không có bất kỳ sự biến dạng nào,<br />
kể cả biến dạng gây nên ô nhiễm. Chúng ta khảo sát các nguồn gốc của những thất bại thị<br />
trường về môi trường, chúng có thể ngăn cản thị trường đạt được hiệu quả xã hội. Từ điều<br />
này sẽ dẫn đến chương tiếp theo, chương mà chúng ta sẽ khảo sát vấn đề về chính sách; đó<br />
là, nếu một nền kinh tế không đạt hiệu quả xã hội, và các vấn đề môi trường nảy sinh thì<br />
các loại chính sách nào chúng ta có thể sử dụng để hiệu chỉnh tình trạng này?<br />
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí có thể áp dụng ở nhiều mức độ: để sử dụng nguyên liệu<br />
đầu vào và để xác định các mức sản lượng đầu ra. Chúng ta tập trung vào mức độ thứ hai<br />
vì cuối cùng chúng ta mong muốn áp dụng ý tưởng cho “đầu ra” là chất lượng môi trường.<br />
Có hai vấn đề cần được quan tâm là:<br />
Sản lượng cần phải sản xuất là bao nhiêu?<br />
Sản lượng thực tế được sản xuất là bao nhiêu?<br />
Vấn đề đầu xoay quanh khái niệm về hiệu quả, vấn đề thứ hai liên quan đến cách thức thị<br />
trường hoạt động bình thường.<br />
<br />
HIỆU QUẢ KINH TẾ<br />
Trong chương trước, chúng ta đã xem xét đến 2 mối quan hệ: quan hệ giữa sản lượng với<br />
giá sẵn lòng trả, và quan hệ giữa sản lượng với chi phí sản xuất biên. Chỉ xét riêng một<br />
trong hai mối quan hệ này thì không thể cho chúng ta biết được mức sản lượng mong<br />
muốn tốt nhất theo quan điểm xã hội. Để xác định mức sản lượng này, chúng ta phải kết<br />
hợp chúng với nhau.<br />
Quan điểm chính yếu của hiệu quả kinh tế là nên có sự cân bằng giữa lợi ích<br />
biên và chi phí biên của quá trình sản xuất.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
1<br />
<br />
Hiệu quả cũng phải có một điểm tham chiếu. Điều “có hiệu quả” đối với một người, trong<br />
quan điểm cân bằng giữa chi phí và lợi ích của chính người đó, có thể lại “không hiệu quả”<br />
cho người khác. Chúng ta muốn có một khái niệm của hiệu quả mà có thể áp dụng cho<br />
tổng thể nền kinh tế. Điều này có nghĩa là khi ta xem xét đến chi phí biên, ta phải xem xét<br />
toàn bộ những khoản chi phí của việc sản xuất ra đối tượng cụ thể đang được nói đến,<br />
không quan tâm đến ai là người tạo ra và những chi phí này có được định giá trên thị<br />
trường hay không. Khi ta bàn về giá sẵn lòng trả biên, ta phải khẳng định rằng nó đại diện<br />
chính xác cho tất cả các giá trị mà con người trong xã hội đặt ra cho đối tượng, bao gồm cả<br />
các giá trị phi thị trường. Điều này không nhất thiết có nghĩa rằng tất cả mọi người sẽ<br />
đưa ra giá trị cho tất cả hàng hóa, nó chỉ có nghĩa là không có giá trị nào bị bỏ quên.<br />
Hiệu quả xã hội đòi hỏi tất cả giá trị thị trường và phi thị trường hợp nhất<br />
trong lợi ích biên và chi phí biên của sản xuất. Nếu điều này được thỏa mãn,<br />
hiệu quả xã hội đạt được khi lợi ích biên bằng với chi phí biên của quá trình<br />
sản xuất.<br />
Làm thế nào chúng ta có thể xác định được mức sản lượng đạt hiệu quả xã hội? Chúng ta<br />
có thể dùng phân tích đồ thị và đại số bằng cách kết hợp hai mối quan hệ đã thảo luận ở<br />
chương trước lại với nhau. Trong hình 4-1, chúng ta vẽ đường tổng giá sẵn lòng trả biên<br />
(MWTP) và đường tổng chi phí biên (MC) cho loại sản phẩm đang nói đến. Chương 3 đã<br />
diễn giải về nguồn gốc của các đường này. Cân bằng hiệu quả xã hội xảy ra tại mức sản<br />
lượng mà MWTP = MC. Hình 4.1 thể hiện sản lượng cân bằng là 40 đơn vị và MWTP<br />
tương ứng là 20$.<br />
Cũng có thể tìm ra điểm cân bằng hiệu quả sản xuất xã hội bằng cách phân tích đại số. Ví<br />
dụ tại trang sau minh họa cho cách này.<br />
<br />
Giá<br />
<br />
Hình 4-1: Xác định mức sản lượng đạt hiệu quả xã hội<br />
<br />
100<br />
MWTP<br />
(Giá sẵn lòng trả biên)<br />
<br />
80<br />
60<br />
<br />
a<br />
<br />
40<br />
<br />
MC<br />
(Chi phí biên)<br />
<br />
20<br />
b<br />
<br />
c<br />
20<br />
<br />
40<br />
QE<br />
<br />
60<br />
<br />
80<br />
<br />
100<br />
<br />
Xuất lượng<br />
<br />
MWTP bằng MC xác định điểm cân bằng đạt hiệu quả xã hội. Sản lượng cân bằng (Q E) là 40 đơn vị với<br />
MWTP tương ứng là 20$. Tại điểm cân bằng hiệu quả xã hội, thặng dư xã hội đạt cực đại. Thặng dư xã hội,<br />
phần diện tích (a+b) nhận được từ sự chênh lệch giữa tổng giá sẵn lòng trả và tổng chi phí.<br />
<br />
Ví dụ: Cách giải bằng phân tích đại số mức sản lượng hiệu quả xã hội<br />
1. Để xác định vị trí cân bằng hiệu quả xã hội, xác định phương trình của MWTP và<br />
MC. Ký hiệu QD là lượng cầu hàng hóa và QS là lượng cung hàng hóa. Phương<br />
trình được xây dựng với dạng tuyến tính để dễ dàng cho sự tính toán.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
2<br />
<br />
MWTP = 100 – 2QD<br />
MC = 5 QS<br />
2. Giá trị cân bằng được xác định theo cách đại số bằng cách cho MWTP bằng với<br />
MC và trước tiên xác định sản lượng cân bằng mà tại đó QD = QS = QE, với QE là<br />
sản lượng cân bằng.<br />
100 – 2QE = 0.5QE<br />
QE = 40<br />
3. MWTP tại vị trí cân bằng có thể được xác định bằng cách thay QE vào hoặc<br />
phương trình MWTP hoặc phương trình MC:<br />
MWTP = 100 - 2(40) = 20$.<br />
Sự bằng nhau của giá sẵn lòng trả biên và chi phí sản xuất biên dùng xác định xem sản<br />
lượng có đạt hiệu quả xã hội hay không. Có một cách khác để xem xét khái niệm về hiệu<br />
quả này. Khi mức sản lượng đạt hiệu quả xã hội, tức là giá trị xã hội ròng được xác định<br />
là tổng giá sẵn lòng trả trừ tổng chi phí, lúc đó hiệu quả xã hội là lớn nhất. Thực tế, chúng<br />
ta có thể đo giá trị ròng này trên hình 4-1. Tại điểm QE bằng 40, tổng giá sẵn lòng trả bằng<br />
khoản tương ứng với vùng bên dưới đường giá sẵn lòng trả biên, từ gốc tọa độ đến QE.<br />
Diện tích này bao gồm tổng của 3 phần diện tích nhỏ: a+b+c. Mặt khác, tổng chi phí bao<br />
gồm phần diện tích bên dưới đường chi phí biên, tức là phần c. Giá trị xã hội ròng là<br />
(a+b+c) trừ đi c, bằng phần diện tích (a+b).<br />
Có nhiều tên gọi cho diện tích (a+b). Vùng này được gọi là giá trị xã hội ròng hoặc lợi ích<br />
ròng hoặc thặng dư xã hội (1). Ở các mức sản lượng khác, giá trị tương ứng của tổng giá<br />
sẵn lòng trả trừ tổng chi phí sản xuất sẽ nhỏ hơn diện tích (a+b) này. (Các vấn đề được<br />
phân tích ở cuối chương sẽ yêu cầu bạn chứng minh phát biểu này).<br />
Tính toán định lượng giá trị xã hội ròng<br />
1. Tính diện tích a: Phần diện tích a là một tam giác với đáy bằng 40 và đường cao<br />
là 80. Diện tích a bằng ½ (40 nhân 80) = 1.600$.(2).<br />
2. Tính diện tích b: Phần diện tích b là một tam giác khác có đáy bằng 40 và đường<br />
cao 20, tính được giá trị diện tích là 400$.<br />
3. Tổng diện tích (a+b) = 1.600$ + 400$ = 2.000$ = giá trị xã hội ròng.<br />
4. Ở đây không cần tính diện tích phần c bởi vì nó nằm ngoài phương trình:<br />
Giá trị xã hội ròng = (a+b+c) - (c) = (a+b).<br />
Các vấn đề để suy nghĩ (và giải quyết) cho ví dụ này<br />
1. Điều gì sẽ xảy ra cho sự cân bằng hiệu quả xã hội và giá trị xã hội ròng nếu như<br />
MWTP = 200 - 2QD? Nếu như MC tăng gấp đôi thành MC = QS?<br />
2. Ai là người nhận phần thặng dư xã hội này và tại sao nó được gọi là thặng dư?<br />
(1)<br />
<br />
Trong chương 6, thặng dư xã hội ròng sẽ được liên hệ với những khái niệm về thặng dư người sản xuất và<br />
thặng dư người tiêu dùng.<br />
(2)<br />
Nhớ lại, trong chương 3, chúng ta đã xác định giao điểm với trục tung của đường MWTP bằng cách cho<br />
Qd = 0 trong phương trình MWTP.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
3<br />
<br />
Các mô hình mà chúng ta nghiên cứu trong sách này gắn với các nền kinh tế tại một thời<br />
điểm. Khi chúng ta thảo luận về khía cạnh thời gian của các vấn đề môi trường, thì việc<br />
phát triển các mô hình để xác định rõ các tác động này không thuộc phạm vi của sách này.<br />
Hiệu quả trong các mô hình của chúng ta là hiệu quả tĩnh. Nghĩa là, nó gắn với các thị<br />
trường và các hoạt động tại một thời điểm. Hiệu quả động xem xét đến sự phân phối các<br />
tài nguyên theo thời gian. Trong khi hai khái niệm đều bao gồm sự cân bằng giữa lợi ích<br />
biên với chi phí biên thì hiệu quả động sẽ phức tạp hơn, bởi vì sự đánh đổi giữa các điểm<br />
thời gian bao hàm các vấn đề về sự suy kiệt về các nguồn vốn môi trường, sự không thể<br />
đảo ngược, cho dù có chiết khấu các giá trị tương lai hay không v.v.(3)<br />
<br />
HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG<br />
Trên phương diện toàn xã hội, sản xuất đạt mức hiệu quả khi lợi ích biên bằng với chi phí<br />
sản xuất biên, đó là khi lợi ích ròng đạt cực đại, không liên quan đến ai là người hưởng các<br />
lợi ích ròng đó. Hiệu quả không phân biệt các cá nhân với nhau. Một đô la trong lợi ích<br />
ròng của một cá nhân cũng được xem bằng với giá của một đô la đối với các cá nhân khác.<br />
Khái niệm tối ưu Pareto nói đến một trạng thái cân bằng được phát biểu rõ ràng hơn về<br />
trạng thái phúc lợi mà các cá nhân có thể có. Cân bằng tối ưu Pareto là tình trạng cân bằng<br />
ở đó không thể làm cho bất kỳ một người nào đó tốt hơn lên mà không làm cho người khác<br />
thiệt thòi. Tối ưu Pareto là một trạng thái cân bằng hiệu quả. Nhưng một trạng thái cân<br />
bằng hiệu quả có thể là tối ưu Pareto hay không còn phụ thuộc vào điểm xuất phát của nền<br />
kinh tế. Hiện trạng, hoặc tại thời điểm phân tích, sẽ có liên quan đến việc một trạng thái<br />
cân bằng hiệu quả có thỏa mãn tiêu chuẩn tối ưu Pareto hay không. Chúng ta sẽ giải quyết<br />
vấn đề này trong chương 10.<br />
Trong thực tế, trạng thái cân bằng có thể đạt hiệu quả nhưng không có cơ chế thị trường<br />
mà ở đó những “người thắng” có thể bồi thường cho những “người thua”. Đây là lý do vì<br />
sao sự phân phối thu nhập và của cải là sự quan tâm của các nhà kinh tế học. Khi một kết<br />
quả mang lại lợi ích cho người giàu với thiệt hại thuộc về người nghèo thì nó thường bị<br />
xem là bất bình đẳng. Nói theo cách khác, một kết quả có hiệu quả theo quan điểm ở phần<br />
trên thì không cần phải bình đẳng trên thực tế.<br />
Sự bình đẳng có quan hệ chặt chẽ với việc phân phối của cải trong xã hội. Nếu sự phân<br />
phối này được chú trọng như là sự công bằng cần thiết, thì các quyết định về các mức sản<br />
lượng thay thế có thể được tạo ra chỉ dựa vào tiêu chuẩn về hiệu quả. Nhưng nếu sự phân<br />
phối của cải không công bằng, thì bản thân tiêu chuẩn về hiệu quả có thể bị nhiều hạn chế.<br />
Sự phân phối thu nhập và của cải có thể có tác động đến cách phân bổ các tài nguyên. Tuy<br />
nhiên, khi nói như vậy, chúng ta phải thừa nhận là trong đánh giá các kết quả kinh tế, sự<br />
nhấn mạnh tương đối về hiệu quả và sự công bằng là một vấn đề gây ra rất nhiều tranh cãi.<br />
Đó là các tranh cãi trong các đấu trường chính trị, và là các cuộc tranh cãi cả trong chính<br />
các nhà kinh tế học.<br />
Vấn đề phân phối và công bằng được thảo luận xuyên suốt trong sách này. Chương 6 sẽ<br />
thuyết minh về các thuật ngữ mô tả các tác động phân phối của các chính sách môi trường.<br />
Trong chương 9, sự công bằng về kinh tế là một trong những tiêu chí để đánh giá các chính<br />
sách môi trường.<br />
<br />
3<br />
<br />
Khái niệm và cách tính chiết khấu được thảo luận trong chương 6<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
4<br />
<br />
THỊ TRƯỜNG<br />
Vấn đề cốt lõi của phần này là: liệu rằng một hệ thống thị trường có cho ta kết quả đạt hiệu<br />
quả xã hội? Hệ thống thị trường này là một hệ thống mà các quyết định kinh tế chủ yếu về<br />
sản xuất bao nhiêu được đưa ra bởi sự tương tác hầu như tự do giữa người mua và người<br />
bán. Hiệu quả xã hội đòi hỏi sản xuất ở mức QE đơn vị sản lượng. Chúng ta có thể dựa<br />
hoàn toàn vào thị trường để xác định mức sản lượng này hay không?<br />
Các nhà kinh tế lo lắng về vấn đề này bởi vì Canada, nhìn chung, là một nền kinh tế thị<br />
trường. Về mọi mặt, một hệ thống thị trường bình thường sẽ cho những kết quả kinh tế tốt<br />
hơn nhiều hệ thống khác. Một hệ thống thị trường cũng chứa đựng các cơ chế khuyến<br />
khích mà, trong nhiều trường hợp, có thể được khai thác nhằm mục tiêu cải thiện chất<br />
lượng môi trường. Một trong những cơ chế này là sự khuyến khích tối thiểu hóa chi phí có<br />
nguồn gốc từ quá trình cạnh tranh. Một cơ chế khác là động lực tìm kiếm các cách thức để<br />
sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn bằng các công nghệ khác nhau, nhập liệu rẻ hơn,<br />
hoặc thay đổi cơ cấu tổ chức tốt hơn. Nếu chúng ta có thể khai thác được các cơ chế này để<br />
giúp đạt được các mục đích môi trường thì cả hai nhiệm vụ của chúng ta sẽ dễ dàng hơn và<br />
chi phí cơ hội cho xã hội sẽ thấp hơn là nếu chúng ta cố để vứt bỏ toàn bộ hệ thống cũ và<br />
chấp nhận một bộ định chế khác.<br />
Thị trường là một định chế nơi người mua và người bán các hàng hóa, dịch vụ hoặc các<br />
yếu tố sản xuất tiến hành trao đổi, thỏa thuận với nhau. Mọi người tìm kiếm kết quả tốt<br />
nhất cho họ. Người mua muốn trả một mức giá thấp, trong khi người bán muốn nhận được<br />
một mức giá cao. Tất cả các mục tiêu mâu thuẫn này sẽ được cân bằng thông qua sự điều<br />
chỉnh giá của thị trường. Trạng thái cân bằng được thiết lập tại điểm mà cung bằng với cầu.<br />
Tại vị trí giao nhau, mức giá cân bằng và số lượng cân bằng được xác định. Điều này được<br />
minh họa trên hình 4-2, với QM là số lượng cân bằng được mua và bán trên thị trường, và<br />
PM là mức giá cân bằng. Để một thị trường làm việc hiệu quả, phải có sự cạnh tranh giữa<br />
các người bán và giữa các người mua. Không một ai trong đó đủ lớn để hoạt động của họ<br />
có thể làm ảnh hưởng đến giá thị trường, hoặc là có đủ quyền lực để có thể điều khiển cách<br />
mà thị trường hoạt động. Giá cả phải được tự do điều chỉnh.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
5<br />
<br />