CHƯƠNG 5<br />
<br />
KINH TẾ HỌC VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG<br />
Chương 4 chỉ ra rằng khi có ngoại tác, tài nguyên tự do tiếp cận, hoặc hàng hóa công, hệ<br />
thống thị trường sẽ không đạt được trạng thái cân bằng hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là<br />
một khái niệm chuẩn tắc trong kinh tế học. Đó là dạng tuyên bố “điều đó sẽ là gì”. Nghiên<br />
cứu yếu tố tác động đến chính sách công giải quyết các vấn đề môi trường là một dạng<br />
kinh tế học chuẩn tắc. Các mục tiêu chính sách cần bao nhiêu SO2 trong không khí, bao<br />
nhiêu phốt phát trong hồ nước, hoặc bao nhiêu lượng chất độc hại trong đất và làm thế nào<br />
thực hiện được các mục tiêu này? Kinh tế học thực chứng nghiên cứu các sự kiện thực tế<br />
đã xảy ra như thế nào, khó khăn nào cần vượt qua. Sản lượng thị trường thực tế và giá<br />
tương ứng của nó là các vấn đề nghiên cứu của kinh tế học thực chứng. Các câu hỏi đại<br />
loại như một nhóm nhà máy nhiệt điện nào đó phát thải ra bao nhiêu sulphur đioxít (SO 2)<br />
và yếu tố nào quyết định lượng nhiên liệu sử dụng là các câu hỏi của kinh tế học thực<br />
chứng.<br />
Một số bước tổng quát trong phân tích chính sách chuẩn tắc:<br />
1. Nhận dạng mức mục tiêu chất lượng môi trường. Mức mục tiêu có thể dựa vào mức<br />
phát thải hoặc mức tích tụ chất thải trong môi trường.<br />
2. Quyết định phân chia các mức mục tiêu chất lượng môi trường này cho các nhà sản<br />
xuất như thế nào.<br />
3. Quyết định các công cụ chính sách để đạt được mức mục tiêu. Phần 4 sẽ khảo sát<br />
kỹ các công cụ chính sách này.<br />
4. Đặt câu hỏi nên phân phối lợi ích và chi phí của chương trình môi trường như thế<br />
nào và sự phân phối này có hợp lý hay không. Phần 3 sẽ đề cập đến các phương<br />
pháp tính lợi ích và chi phí.<br />
Chương này tập trung vào bước đầu tiên: xác định mức mục tiêu chất lượng môi trường.<br />
Xây dựng chính sách môi trường có hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc có được dữ<br />
liệu các biến số kinh tế và kỹ thuật đúng đắn hay không. Chất gây ô nhiễm ảnh hưởng đến<br />
chất lượng môi trường như thế nào? Nhà sản xuất và người tiêu dùng phản ứng như thế nào<br />
với các chính sách? Trong nhiều trường hợp, chúng ta biết nhiều về phản ứng của nhà sản<br />
xuất và người tiêu dùng hơn là mối liên kết giữa chất gây ô nhiễm và chất lượng môi<br />
trường. Mặc dù khoa học môi trường ngày càng khám phá ra nhiều điều về mối liên kết<br />
này nhưng vẫn còn rất nhiều dữ kiện không chắc chắn. Các nhà khoa học chưa hiểu hết các<br />
tác động khác nhau của chất gây ô nhiễm lên môi trường. Có thể kể một số ví dụ về sự<br />
không chắc chắn khoa học này – chẳng hạn như các tranh luận về nguyên nhân gây hiện<br />
tượng thay đổi khí hậu, hợp chất nào trong nước thải của nhà máy giấy gây bệnh cho các<br />
bãi nuôi sò.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
1<br />
<br />
MỨC Ô NHIỄM MỤC TIÊU – MÔ HÌNH TỔNG QUÁT<br />
Chẳng có một chính sách công riêng lẻ nào có thể giải quyết được tất cả các vấn đề môi<br />
trường khác nhau. Nhưng chúng ta có thể dùng một mô hình đơn giản để xây dựng nền<br />
tảng cho bất kỳ tình huống chính sách nào. Mô hình này thể hiện một sự đánh đổi đơn giản<br />
thường áp dụng cho tất cả các hoạt động kiểm soát ô nhiễm. Một mặt việc giảm chất thải<br />
góp phần làm giảm thiệt hại mà con người phải gánh chịu do ô nhiễm môi trường; mặt<br />
khác, việc giảm chất thải lại sử dụng những nguồn lực lẽ ra có thể được dùng vào việc<br />
khác. Ví dụ, giảm phát thải sulphur điôxít của một nhà máy nhiệt điện sẽ làm giảm ô nhiễm<br />
không khí và lắng tụ axít. Chất lượng môi trường sẽ tăng và làm lợi cho con người và hệ<br />
sinh thái. Nhưng để giảm phát thải, nhà máy phải lắp đặt thiết bị giảm ô nhiễm hoặc<br />
chuyển qua dùng nhiên liệu chứa ít sulphur hơn (chẳng hạn khí thiên nhiên). Điều này làm<br />
tăng chi phí sản xuất. Nếu nhà máy có thể chuyển chi phí này cho khách hàng gánh chịu,<br />
giá điện sẽ tăng. Người tiêu dùng sẽ tiêu dùng ít hàng hóa hơn. Mô hình đơn giản trong<br />
chương này sẽ trình bày dạng đánh đổi như thế này.<br />
<br />
Thiệt hại do ô nhiễm<br />
Nói thiệt hại do ô nhiễm là nói đến tất cả những tác động bất lợi mà người sử dụng môi<br />
trường phải gánh chịu do suy thoái môi trường. Ví dụ một nhà máy đưa chất thải vào dòng<br />
sông làm ngộ độc các loài thủy sản, làm con người không thể sử dụng cá bắt được từ dòng<br />
sông này nữa. Chất độc nhiễm vào cá bắt đầu tham gia vào chuỗi thức ăn, làm ngộ độc các<br />
loài khác ăn những con cá bị nhiễm độc ban đầu – chẳng hạn như chim đại bàng hoặc chim<br />
ưng. Các thành phố ở lưu vực sông phải bỏ thêm chi phí để xử lý độc tố ra khỏi nguồn<br />
nước sinh hoạt v.v. Ô nhiễm không khí gây thiệt hại đến sức khỏe con người. Các ca tử<br />
vong tăng lên từ bệnh ung thư phổi, viêm phổi kinh niên đều liên quan đến mức độ các<br />
chất ô nhiễm không khí tăng cao, như sunphua điôxít, sợi amiăng, phóng xạ radon. Ô<br />
nhiễm không khí còn gây thiệt hại vật chất – làm xuống cấp vật liệu (ví dụ, các công trình<br />
điêu khắc ngoài trời ở thành phố Florence có từ thời Phục Hưng nay phải đem vào bảo<br />
quản trong nhà do ô nhiễm không khí) hoặc làm hạn chế tầm nhìn. Ngoài những thiệt hại<br />
gây ra cho con người, sự hủy hoại môi trường có thể gây ra ảnh hưởng quan trọng đối với<br />
nhiều yếu tố khác của hệ sinh thái. Các ảnh hưởng đó, như sự hủy hoại thông tin di truyền<br />
ở những loài động thực vật sắp bị tuyệt chủng, rốt cuộc sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với<br />
nhân loại. Đánh giá giá trị thiệt hại môi trường là một trong những công việc hàng đầu của<br />
các nhà khoa học môi trường và các nhà kinh tế học môi trường, và chúng ta sẽ bàn vấn đề<br />
này trong chương 7.<br />
Nói chung, ô nhiễm càng nhiều thì thiệt hại gây ra càng lớn. Để mô tả mối quan hệ giữa ô<br />
nhiễm và thiệt hại, chúng ta sẽ dùng khái niệm hàm thiệt hại.<br />
Một hàm thiệt hại thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chất thải và giá trị thiệt<br />
hại của chất thải đó.<br />
Có các dạng hàm số thiệt hại khác nhau:<br />
<br />
<br />
Hàm thiệt hại theo lượng phát thải (Emission damage functions) thể hiện mối quan<br />
hệ giữa lượng phát thải từ một hoặc nhiều nguồn nào đó và thiệt hại môi trường gây ra<br />
từ lượng phát thải đó.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
2<br />
<br />
<br />
<br />
Hàm thiệt hại theo mức độ tích tụ (Ambient damage functions) thể hiện mối quan hệ<br />
giữa mức độ tích tụ của chất thải trong môi trường xung quanh và thiệt hại gây ra.<br />
<br />
<br />
<br />
Hàm thiệt hại biên (Marginal damage functions) thể hiện mức thay đổi thiệt hại từ sự<br />
thay đổi một đơn vị phát thải hay một đơn vị mức độ tích tụ.<br />
<br />
<br />
<br />
Tổng thiệt hại (Total damages) là tổng thiệt hại tại mỗi mức phát thải.<br />
<br />
Trong chương này chúng ta sẽ tập trung phát triển mô hình tổng quát bằng hàm thiệt hại<br />
biên.<br />
<br />
Các hình dạng hàm thiệt hại biên<br />
Hình 5-1 minh họa nhiều dạng hàm thiệt hại biên khác nhau. Hai hàm trên cùng là các hàm<br />
thiệt hại biên theo lượng phát thải; trục hoành thể hiện lượng phát thải vào môi trường<br />
trong một khoảng thời gian nào đó. Sử dụng các đơn vị chính xác (pound, tấn v.v.) trong<br />
bất cứ trường hợp cụ thể nào phụ thuộc vào từng chất ô nhiễm liên quan. Trục tung thể<br />
hiện thiệt hại môi trường dưới dạng tiền tệ. Xét theo những con số thực tế, thiệt hại môi<br />
trường có thể bao gồm nhiều loại tác động khác nhau: số km bờ biển bị ô nhiễm, số người<br />
nhiễm bệnh phổi, số lượng động vật bị tiêu diệt, lượng nước bị nhiễm bẩn v.v. Tất cả mọi<br />
trường hợp ô nhiễm môi trường thường bao gồm nhiều hình thức tác động khác nhau, bản<br />
chất của những tác động này phụ thuộc vào chất gây ô nhiễm có liên quan cũng như thời<br />
gian và địa điểm phát thải. Để xem xét những tác động này một các toàn diện, ta cần phải<br />
gộp chúng thành một đại lượng đơn nhất. Ta sử dụng đơn vị tiền tệ cho mục đích này. Đôi<br />
khi ta có thể dễ dàng biểu diễn thiệt hại bằng đơn vị tiền tệ; chẳng hạn dễ dàng biết người<br />
ta chi bao nhiêu tiền cho chi phí phòng ngừa để tránh bị tác hại của ô nhiễm (ví dụ lắp lớp<br />
cách âm dày hơn để tránh tiếng ồn; mua kính đeo mắt, quần áo bảo vệ ngăn ngừa tác hại<br />
tia cực tím; mua nước uống đóng chai khi hệ thống nước máy bị nhiễm bẩn). Tuy nhiên<br />
trong nhiều trường hợp, thường rất khó đánh giá giá trị thiệt hại biên (chúng ta sẽ khảo sát<br />
kỹ trong chương 7).<br />
Hàm thiệt hại biên theo lượng phát thải ở biểu đồ (a) hình 5-1 cho thấy những thiệt hại biên<br />
ban đầu chỉ tăng vừa phải nhưng sau đó lại tăng nhanh hơn khi lượng chất thải ngày càng<br />
nhiều. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học môi trường và kinh tế học cho thấy<br />
dường như đây là dạng đường biểu diễn tiêu biểu của nhiều loại chất gây ô nhiễm. Khi<br />
lượng chất thải ít, thiệt hại biên có thể tương đối nhỏ; mức độ tích tụ chất gây ô nhiễm ở<br />
môi trường xung quanh thấp đến nỗi chỉ có những người nhạy cảm nhất trong cộng đồng<br />
dân cư mới bị ảnh hưởng. Nhưng khí lượng phát thải tăng lên, các mức thiệt hại cũng tăng<br />
vọt, và khi lượng phát thải tăng cao hơn nữa, mức thiệt hại biên trở nên rất cao bởi vì các<br />
tác động môi trường ngày càng phát tán và trầm trọng.<br />
Biểu đồ (b) thể hiện một hàm thiệt hại biên theo lượng phát thải có hình dạng gần giống<br />
như trong biểu đồ (a) (tức là cho thấy thiệt hại biên tăng dần), nhưng bắt đầu ở mức cao<br />
hơn trên trục tung và tăng nhanh hơn. Biểu đồ này có thể biểu diễn một chất độc có ảnh<br />
hưởng chết người ngay cả khi lượng phát thải rất thấp.<br />
Hai biểu đồ dưới cùng trong hình 5-1 là các hàm thiệt hại biên theo mức độ tích tụ. Trục<br />
tung thể hiện giá trị tiền tệ của các mức thiệt hại, và trục hoành chỉ mức độ tích tụ chất ô<br />
nhiễm trong môi trường xung quanh, chẳng hạn đơn vị là phần triệu (ppm). Biểu đồ (c) thể<br />
hiện một hàm phức tạp, tăng ở những mức độ tích tụ thấp, sau đó có xu hướng biến thiên<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
3<br />
<br />
đều cho đến khi đạt đến những mức tích tụ cao hơn nhiều thì các mức thiệt hại tăng nhanh<br />
hơn. Hàm số này có thể đúng với những chất chẳng hạn như một chất ô nhiễm không khí ở<br />
mức độ tích tụ tương đối thấp đã gây ra thiệt hại rõ rệt đối với một số người nhạy cảm và ở<br />
mức tích tụ tương đối cao thì gây ra thiệt hại cho tất cả mọi người, trong khi ở chặng giữa<br />
thiệt hại biên không tăng nhanh. Biểu đồ (d) thể hiện một hàm thiệt hại biên theo mức độ<br />
tích tụ bắt đầu từ bên phải của gốc tọa độ rồi sau đó tăng tuyến tính theo mức độ tích tụ<br />
trong môi trường xung quanh.<br />
Hình 5-1: Các hàm thiệt hại biên tiêu biểu<br />
(a)<br />
Thiệt<br />
hại<br />
$<br />
<br />
(b)<br />
Thiệt<br />
hại<br />
$<br />
<br />
Lượng chất thải (tấn/năm)<br />
<br />
Lượng chất thải (kg/năm)<br />
<br />
(c)<br />
Thiệt<br />
hại<br />
$<br />
<br />
(d)<br />
Thiệt<br />
hại<br />
$<br />
<br />
Mức độ tích tụ (ppm)<br />
<br />
Mức độ tích tụ (ppm)<br />
<br />
Các hình trên biểu diễn hàm thiệt hại biên theo lượng phát thải và theo mức độ tích tụ. Biểu đồ<br />
(a) và (b) thể hiện hàm phát thải, biểu đồ (c) và (d) là hàm mức độ tích tụ. Hàm thiệt hại biên<br />
minh họa các độ dốc đường thiệt hại biên khác nhau, phụ thuộc vào loại phát thải và địa điểm<br />
phát thải.<br />
<br />
Các biểu đồ (a) và (d) minh họa một đặc tính trên thực tế còn nhiều tranh cãi. Chúng có các<br />
mức ngưỡng: là những trị số của lượng phát thải và mức độ tích tụ trong môi trường xung<br />
quanh mà dưới những trị số đó thì thiệt hại biên bằng không. Như vậy, chất gây ô nhiễm có<br />
thể tăng đến những mức ngưỡng này mà không làm cho các mức thiệt hại tăng lên chút<br />
nào. Như ta sẽ thấy trong các chương kế tiếp, việc giả định có hay không một mức ngưỡng<br />
trong hàm thiệt hại của một số chất ô nhiễm nào đó có ảnh hưởng quan trọng đối với chính<br />
sách kiểm soát môi trường trong thực tế. Đã có rất nhiều lý lẽ hùng hồn bảo vệ việc hàm<br />
thiệt hại cho một loại chất ô nhiễm nào đó có hay không có các mức ngưỡng.<br />
<br />
Hàm thiệt hại biên: Các đặc tính<br />
Hàm thiệt hại biên là yếu tố chủ yếu trong các phân tích chính sách chuẩn tắc. Phần này sẽ<br />
khảo sát các đặc tính của hàm thiệt hại biên. Mặc dù có thể phân tích hàm thiệt hại theo<br />
lượng phát thải hoặc theo mức độ tích tụ, chúng ta sẽ sử dụng hàm theo lượng phát thải vì<br />
sẽ dễ thiết lập các chính sách kiểm soát ô nhiễm hơn khi nhận dạng được nguồn phát thải.<br />
Trong khi hình 5-1 thể hiện các hàm thiệt hại biên phi tuyến, trong phần còn lại của<br />
chương này và các chương tiếp theo, chúng ta sẽ sử dụng hàm thiệt hại tuyến tính để dễ<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
4<br />
<br />
dàng tính toán minh họa. Hình 5-2 thể hiện hai hàm thiệt hại biên có lượng phát thải ở trục<br />
hoành theo đơn vị phát thải trên mỗi đơn vị thời gian. Để đơn giản việc phân tích chúng ta<br />
có 2 giả thiết:<br />
<br />
<br />
Chất ô nhiễm là đơn chất, không tích tụ và được phân bổ đều.<br />
<br />
<br />
<br />
Không có mức ngưỡng, nghĩa là mỗi hàm thiệt hại biên đều xuất phát từ gốc tọa độ.<br />
<br />
Chúng ta sẽ thay đổi các giả thiết này trong mục 4 và 5. Trong khi đọc phần này, hãy nghĩ<br />
kết quả của chúng ta sẽ thay đổi như thế nào nếu chất thải là không tích lũy hoặc không có<br />
ngưỡng.<br />
Hàm thiệt hại biên được ký hiệu là MD và mức phát thải là E, được mô tả bằng các hàm số<br />
sau:<br />
MD1 = 0.4E<br />
MD2 = 0.6E<br />
Đầu tiên xem xét hàm MD1. Một đặc tính chủ yếu của hàm này là mối quan hệ giữa thiệt<br />
hại biên và tổng thiệt hại.<br />
Chiều cao của đường thiệt hại biên thể hiện tổng thiệt hại biến đổi bao nhiêu<br />
nếu lượng phát thải thay đổi một mức nhỏ.<br />
Khi mức phát thải là E1 = 30, thiệt hại biên là $12. Nếu mức phát thải tăng 1 tấn, từ 30 lên<br />
31 tấn, thiệt hại cho người tiếp xúc với lượng phát thải này tăng $12; tương tự, nếu lượng<br />
chất thải giảm một lượng nhỏ, tổng thiệt hại sẽ giảm $12. Bởi vì chiều cao của đường MD,<br />
đo trên trục tung y, đo lường mức thiệt hại biên, diện tích dưới đường này giới hạn bởi tung<br />
độ gốc và mức phát thải thể hiện tổng thiệt hại của mức chất thải này. Trong trường hợp<br />
đường thiệt hại biên MD1 và mức phát thải 30 tấn, tổng thiệt hại là diện tích b, là một tam<br />
giác có diện tích $180 (30 $12). Tại mức phát thải 30 tấn, thiệt hại biên của MD2 là $18 và<br />
tổng thiệt hại là diện tích (a+b) = $270. Do đó:<br />
Tổng thiệt hại của một mức phát thải cho trước là diện tích dưới đường MD<br />
giới hạn từ gốc 0 đến mức phát thải đó.<br />
<br />
Barry Field & Nancy Olewiler<br />
<br />
5<br />
<br />