intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:199

68
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PTKTBV; đánh giá, phân tích thực trạng nền kinh tế quốc dân kể từ khi thực hiện mô hình kinh tế mới để chỉ ra những mặt được và chưa được trong việc thực hiện mục tiêu bền vững; đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm PTKTBV trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ -------*****------- NGUYỄN HỮU SỞ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 62 31 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TR NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG 2. TS. TRẦN ANH TÀI HÀ NỘI - 2009 1
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa………………………………………………………………….. 1 Lời cam đoan…………………………………………………………………... 2 Mục lục………………………………………………………………………… 3 Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………………….. 5 Danh mục các bảng……………………………………………………………. 7 Danh mục các hình vẽ…………………………………………………………. 8 Lời nói đầu……………………………………………………………………... 9 Chương 1. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm Quốc tế về PTKTBV…... 15 1.1. Khái niệm và nội dung của PTKTBV……..……………………………….. 15 1.1.1. Một số khái niệm và phạm trù cơ bản….….…………………………….. 15 1.1.2. Nội dung của PTKTBV....……………………………………………….. 32 1.1.3. Các điều kiện đảm bảo PTKTBV…...…………………………………… 44 1.2. Một số kinh nghiệm quốc tế về PTKTBV…………………………………. 52 1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước..…………..……………………………… 52 1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam...…………………………………………… 61 Chương 2. Thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam và những vấn đề đặt ra về PTKTBV…………………………………...………………………. 68 2.1. Quá trình đổi mới tư duy về PTKTBV ở Việt Nam…….…………………. 68 2.1.1. Khái lược về phát triển kinh tế Việt Nam trước đổi mới………………… 68 2.1.2. Những nội dung cơ bản về đổi mới tư duy PTKTBV ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay……………………………………………………………………. 77 2.2. Đánh giá về PTKTBV ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay…………………. 88 2.2.1. Đánh giá về tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ………….….…… 88 2.2.2. Đánh giá tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội, 92 môi trường...……………………………………………………………………. 2.2.3. Đánh giá về cơ cấu nền kinh tế đảm bảo phát triển bền vững.…………... 104 2.2.4. Đánh giá về mức độ PTBV qua phân tích các ngành kinh tế chính.…….. 111 2.3. Những vấn đề đặt ra về PTKTBV nền kinh tế Việt Nam..………………... 135 2.3.1. Tăng trưởng chưa đạt mức tiềm năng.…………………………………… 135 3
  3. 2.3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm chạp thể hiện trình độ phát triển thấp 136 của nền kinh tế…………………………………………………………………. 2.3.3. Hiệu ứng lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các vấn đề xã hội chủ yếu chưa bền vững …….……………………………………………………………. 137 Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam.……………………………………………………………… 141 3.1. Bối cảnh mới và quan điểm về PTKTBV ở Việt Nam.…………………… 141 3.1.1. Bối cảnh quốc tế..………………………………………………………... 141 3.1.2. Bối cảnh trong nước..……………………………………………………. 146 3.1.3. Quan điểm về PTKTBV..………………………………………………... 148 3.2. Những định hướng giải pháp cơ bản đảm bảo PTKTBV ở Việt Nam.……. 155 3.2.1. Tiếp tục tạo môi trường chính trị – xã hội, pháp lý thuận lợi và ổn định... 156 3.2.2. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển..………… 158 3.2.3. Phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển nền kinh tế và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế nước ta……. 165 3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động thương mại nhằm phát triển kinh tế và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.……. 170 3.2.5. Hoàn thiện thể chế chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy PTKT và chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế… 175 3.2.6. Những giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp…….……………………………………………….. 185 3.2.7. Những giải pháp đảm bảo sự công bằng trong phát triển, giảm bớt sự phân hóa giàu – nghèo và chênh lệch mức sống nông thôn – thành thị…..……. 187 3.2.8. Những giải pháp nhằm công khai, minh bạch thông tin kinh tế để dự báo và cảnh báo kịp thời những tác động tiêu cực đến tính bền vững của phát triển kinh tế..…………………………………………………………………………. 190 Kết luận………………………………………………………………………… 192 Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án………… 194 Tài liệu tham khảo...…………………………………………………………... 195 4
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt 1 AFTA Asean FreeTrade Area Khu vực mậu dịch tự do Asean Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu 2 APEC Asia Pacific Economic Cooperation Á - Thái Bình Dương 3 ASEAN Association of Southeast Asian Hiệp hội các Quốc gia Đông Nations Nam Á 4 CBCNV Cán bộ công nhân viên 5 CIEM Central Institute for Economic Viện Nghiên cứu quản lý kinh Management tế Trung ương 6 CNXH Chủ nghĩa xã hội 7 CNTB Chủ nghĩa tư bản 8 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 9 EU European Union Liên minh Châu Âu General Agreement on Tariffs and Hiệp định chung về thuế quan 10 GATT Trade và mậu dịch 11 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phảm quốc nội 12 GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc dân 13 GNI Gross National Income Tổng thu nhập quốc dân 14 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 15 FED Federal Reserve System Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ 16 HDI Human Development Index Chỉ số phát triển con người Human Immuno-deficiency Virus/ 17 HIV/AIDS Bệnh hội chứng giảm miễn Acquired Immune Deficiency dịch mắc phải Syndrome 18 HTX Hợp tác xã Chỉ số đo mức độ đầu tư để có 19 ICOR Incremental Capital - Output Rate 1% tăng trưởng 20 IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế 21 KH&CN Khoa học và công nghệ 22 KHHGD Kế hoạch hóa gia đình 23 LHQ Liên hợp quốc 5
  5. STT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt 24 NICs New Industrialized Countries Các nước công nghiệp mới 25 NGO Non – Governmental Organization Tổ chức phi chính phủ 26 NSNN Ngân sách nhà nước 27 ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức Mô hình “áp lực - tình trạng - 28 PSR PSR - Pressure - State – Response ứng phó” 29 PTBV Phát triển bền vững 30 PTKTBV Phát triển kinh tế bền vững 31 PTKT Phát triển kinh tế 32 R&D Reseach & Development Nghiên cứu và phát triển 33 SKSS Sức khỏe sinh sản 34 SX-KD Sản xuất - kinh doanh 35 TĐSX Tập đoàn sản xuất Năng suất các yếu tố (nhân tố) 36 TFP Total Factor Productivity tổng hợp 37 TNCs Transnational Corporations Các Công ty xuyên quốc gia 38 TNHH Trách nhiệm hữu hạn United Nations Development Chương trình phát triển của 39 UNDP Programme Liên hợp quốc 40 USD United State Dollar Đồng Đô la Mỹ Vietnam Chamber of Commerce Phòng Thương mại và công 41 VCCI and Industry nghiệp Việt Nam 42 WB World Bank Ngân hàng thế giới World Commission on Ủy ban quốc tế về môi trường 43 WCED Environment and Development và phát triển 44 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới 45 XHCN Xã hội chủ nghĩa 6
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Tên bảng Nội dung Trang Bảng 1.1. Bức tranh tăng trưởng kinh tế của thế giới 1960-2000 27 Sự phát triển nền kinh tế miền Bắc Việt Nam (Mức tăng giá trị Bảng 2.1. 69 sản lượng %) Kết quả sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam qua các Bảng 2.2. 71 giai đoạn Bảng 2.3. Cơ cấu kinh tế quốc dân Việt Nam năm 1985 72 Bảng 2.4. Kết quả sản xuất nông nghiệp Việt Nam (Giai đoạn 1976 - 1985) 74 Bảng 2.5. Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP theo ngành từ 1986 - 2007 89 Bảng 2.6. Tỷ lệ hộ nghèo chung của Vệt Nam giai đoạn 2002 - 2008 (%) 93 Bảng 2.7. Tỷ lệ nghèo chung của các vùng thời kỳ 2004 - 2008 95 Bảng 2.8. Tình hình thực hiện mục tiêu tạo việc làm thời kỳ 2000 - 2004 100 Bảng 2.9. Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (theo giá hiện hành) 107 Số lượng, cơ cấu và quy mô lao động các doanh nghiệp, cơ sở Bảng 2.10. 107 sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam. Bảng 2.11. Cơ cấu doanh nghiệp theo ngành kinh tế 109 Bảng 2.12. Dân số trong độ tuổi lao động (Từ 15 đến 60 tuổi) 110 Bảng 2.13. Cơ cấu lao động theo nhóm ngành (1990-2008). 110 Bảng 2.14. Sản xuất lương thực của Việt Nam 113 Khối lượng và kim ngạch một số mặt hàng nông-lâm-thủy sản Bảng 2.15. 115 xuất khẩu (T: tấn) Bảng 2.16. Cơ cấu ngành công nghiệp Việt Nam 119 Bảng 2.17. Xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp chính của Việt Nam 120 Bảng 2.18. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành 122 Bảng 2.19. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam 124 Tốc độ tăng khối lượng vận tải phân theo các hình thức vận tải Bảng 2.20. 127 (ĐVT: %) Bảng 2.21. Số lượng HTX phân theo ngành thời kỳ 1996-2003 130 Bảng 2.22. Thu chi ngân sách Nhà nước (% GDP) 133 Bảng 2.23. Cơ cấu tổng vốn đầu tư xã hội (% theo giá hiện hành) 134 7
  7. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Tên hình Nội dung Trang Hình 1.1. Tăng trưởng và xu hướng tăng trưởng của Việt Nam, 1984-2008 30 Hình 1.2. Tương tác giữa con người, sản xuất và tự nhiên 34 Hình 1.3. Mô hình "Áp lực - Tình trạng - Ứng phó" – PSR 38 Hình 1.4. Các nhân tố tác động đến phát triển bền vững 40 Hình 1.5. Quan hệ giữa nguồn nhân lực và vốn con người 42 Hình 2.1. So sánh cơ cấu ngành của các nước trong khu vực 136 8
  8. Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài PTKTBV nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt) là phát triển không bền vững. Chẳng hạn, trữ lượng dầu mỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được khoảng 50 - 60 năm nữa; trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa... Vậy, nếu các ngành kinh tế chỉ dựa vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dài được. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn năng lượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm nguồn năng lượng thay thế. Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà để phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là không bền vững nếu nó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất cũng chậm lại trong tương lai. Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là một khái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới lưu tâm. "Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình PTBV là mỗi địa phương, vùng, quốc gia…không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế là chưa toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững" trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện và toàn vẹn hơn nếu được áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để chuyển hoá khái niệm PTKTBV từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. 9
  9. Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đi sâu nghiên cứu hệ thống và công phu về PTBV. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, PTBV có nội hàm rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Bởi vậy, các nghiên cứu chuyên biệt về PTKTBV đang chưa được thực hiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong mối liên hệ tương tác với các thành tố quan trọng khác của PTBV. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý do trên, Luận án đã được lựa chọn với đề tài “Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX, "phát triển bền vững về kinh tế" đã trở thành một đề tài được thế giới loài người không những quan tâm đặc biệt, mà còn tập trung nhiều trí tuệ để giải quyết các vấn đề của nó. Cội nguồn của sự xuất hiện vấn đề và ngày càng trở nên bức thiết mang tính toàn cầu là ở chỗ, nó phản ánh sự quan ngại đối với một số quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế quá nhanh, tạo bước đi vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, miễn sao tăng thu nhập hiện tại, mà không chú ý đến những nguy hại dài lâu của lối phát triển đó đến môi trường sinh thái (tàn phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng mỏ, dầu hỏa, khí đốt), đến tình trạng khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo. "Phát triển kinh tế bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Tiến hành xây dựng và thao tác hoá khái niệm này phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh thế giới hiện nay sẽ có ý nghĩa quan trọng. Các nghiên cứu khoa học môi trường, khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là kinh tế học, xã hội học và luật học đã có những đóng góp nhất định cho việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận về PTKTBV ở nước ta trong những thập niên sắp tới. Trong một công bố trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI", tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về PTBV: Chỉ báo kinh tế, xã hội, môi trường. Khái niệm “phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ. Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới môi trường bền vững” 10
  10. (1995) của Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và PTBV, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam. Công trình nghiên cứu "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình này đã xác định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hoá đã tổng quan nhiều mô hình PTBV như mô hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990), mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED (1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của World Bank. Ngoài ra, trong giới khoa học xã hội còn có các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm PTBV: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hoá, vai trò phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hoá khái niệm PTBV theo Brundtland. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn chưa được làm rõ. Tiếp theo là Đề tài cấp Bộ “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động” của PGS.TS. Hà Huy Thành (chủ nhiệm), Viện nghiên cứu Môi trường và PTBV là cơ quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu tổng quan nội dung cơ bản 11
  11. và quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khung khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học về PTBV phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam có đưa ra nhiều vấn đề cần ưu tiên để thực hiện PTBV, trong đó 5 lĩnh vực cần được ưu tiên để PTBV về kinh tế, đó là: duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững; thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch; phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững; PTBV các vùng và địa phương. Trong bài “Bàn thêm về PTBV” đăng trên Tạp chí nghiên cứu PTBV số tháng 6/2006 của Bùi Tất Thắng, Viện chiến lược – Bộ Kế hoạch và đầu tư, đã phân tích PTBV về mặt kinh tế để thực hiện PTBV là tốc độ tăng trưởng phải cao và quan trọng là có sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cùng với việc nâng cao đời sống của dân chúng và bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên… Lê Bảo Lâm với tác phẩm “Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn: Lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam” (2007) và một số các tác phẩm khác của các tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, “Kinh tế – xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng hội nhập phát triển bền vững”; Nguyễn Văn Thương, “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam - những rào cản cần vượt qua”; Phạm Ngọc Trung, “Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam”;…cũng chỉ nghiên cứu và bàn luận đến những vấn đề xoay quanh việc sử dụng các nhân tố được chú ý và cần phải tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả để nhằm tạo ra sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Các vấn đề đã được nghiên cứu trong nhóm các tác giả trên cũng chỉ mới đưa ra, một cách rời rạc và chưa có tính chất hệ thống lý thuyết về sự PTKTBV, chỉ đưa ra những phân tích, đánh giá về vấn đề xã hội, hay môi trường và một số tiêu chí trong nghiên cứu sự phát triển một cách “bền vững” đối với Việt Nam. Trong tác phẩm “Phát triển bền vững của Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội – 2007, GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái và PGS.TS. Ngô Thắng Lợi đã nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay điều kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV, trong đó có đề cập đến những nội dung của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở những tiêu chí như xác định cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh 12
  12. tế theo hướng tiến bộ. Mặc dù, chưa đề cập trực tiếp đến khái niệm PTKTBV nhưng cũng đã đưa ra những tiêu chí và nội dung của PTKTBV. Tuy nhiên, đánh giá thật công bằng thì các nghiên cứu hiện có chưa đề cập sâu đến PTKTBV, cũng như đánh giá mức độ tác động của PTKTBV trong mối quan hệ đối với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm bền vững về mặt xã hội, văn hóa..., từ đó, khẳng định vai trò quyết định của PTKTBV đến PTBV nói chung, đưa ra những kết luận về nội dung cũng như tiêu chí của PTKTBV. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: nền kinh tế quốc dân cùng với các vùng, ngành của nó trong quãng thời gian tương đối thuần nhất để làm rõ động thái, khuynh hướng của nó dưới lăng kính của PTKTBV. Phạm vi nghiên cứu: luận án chỉ giới hạn nghiên cứu nền kinh tế quốc dân Việt Nam dưới góc độ PTKTBV, bao gồm những vấn đề tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế xã hội, môi trường. Thời gian nghiên cứu: từ năm 1986 đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PTKTBV; đánh giá, phân tích thực trạng nền kinh tế quốc dân kể từ khi thực hiện mô hình kinh tế mới để chỉ ra những mặt được và chưa được trong việc thực hiện mục tiêu bền vững; đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm PTKTBV trong thời gian tới. Để thực hiện mục tiêu trên, luận án xác định những nhiệm vụ cụ thể như sau: tổng hợp tài liệu, tư liệu đã nghiên cứu PTKTBV; tổng hợp một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc bảo đảm PTKTBV; sử dụng các công cụ phân tích để làm rõ những thành tựu đã đạt được cũng như những mặt còn hạn chế của kinh tế Việt Nam trong việc vừa duy trì tốc độ tăng trưởng cao, vừa bảo đảm tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế; từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị để làm cho chất lượng tăng trưởng trong thời gian tới được cao và ổn định, bền vững hơn, hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài, nhất là tính chu kỳ của khủng hoảng trong kinh tế thị trường. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng trong Luận án Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam; các thành tựu khoa học trong kinh tế chính trị nói chung và kinh tế 13
  13. học phát triển nói riêng. Luận án có sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, mô tả và so sánh, mô hình hóa, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp khoa học của Luận án - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về PTKTBV, thông qua việc làm rõ các nội dung và các tiêu chí đánh giá PTKTBV. Nghiên cứu PTKTBV là để rút ra bài học cho Việt Nam trong vấn đề phát triển - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, luận chứng những vấn đề đang đặt ra trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược là duy trì tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững, thực sự tác động tích cực và lan tỏa đến các vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường và có cơ cấu kinh tế phù hợp phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Nội dung của PTKTBV gồm cả yếu tố văn hoá, xã hội được xem là vấn đề mới. - Đề xuất quan điểm và định hướng giải pháp cơ bản để kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và đào tạo trên lĩnh vực kinh tế chính trị và lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam, kinh tế học phát triển. 7. Kết cấu của Luận án: Ngoài Lời nói đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương, 7 mục và 14 tiểu mục. Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về PTKTBV. Chƣơng 2: Thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam và những vấn đề đặt ra về PTKTBV. Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm PTKTBV ở Việt Nam. 14
  14. CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PTKTBV 1.1. Khái niệm và nội dung của PTKTBV 1.1.1. Một số khái niệm và phạm trù cơ bản 1.1.1.1. Phát triển và phát triển kinh tế Phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng, là một khái niệm dùng để chỉ trạng thái vận động không ngừng của sự vật và hiện tượng kinh tế theo chiều hướng tiến bộ trong quá trình thay đổi cả về số lượng và chất lượng của quá trình đó. Đó là dòng tiến hoá có sự thay đổi mạnh về chất trong nội sinh của một quá trình nhất định. Sự phát triển về nghĩa hẹp, đó là sự mở rộng, khuyếch trương, mở mang của sự vật, hiện tượng hoặc ý tưởng tư duy của đời sống xã hội một cách tương đối hoàn chỉnh trong một giai đoạn nhất định. Khái niệm phát triển rộng hơn là một khái niệm chỉ một chuyển biến đặc thù trong tiến trình kinh tế - xã hội và có nguồn gốc ra đời của nó. Quan niệm theo nghĩa rộng của từ này chính là bản chất vận động không ngừng của sự vật theo quy luật trong các thế giới: vô cơ, hữu cơ và xã hội loài người. Vậy, trong xã hội loài người, sự phát triển là quá trình cách mạng trong nội bộ tiến trình kinh tế, thực hiện quá trình chuyển đổi: chuyển đổi vị thế trong cơ cấu của nền sản xuất xã hội và chuyển đổi trong phương thức sản xuất. Một yếu tố cơ bản trong tiến trình nội sinh của các nước là: Trình độ phát triển về kinh tế - chỉ tiêu phân định các nước trên thế giới thành hai cấp độ phát triển: Nước chậm phát triển và nước phát triển [22]. Khái niệm “phát triển” ở đây dùng để chỉ những nước đã trải qua quá trình công nghiệp hoá, đó là những nước công nghiệp. Trái lại, những nước kém phát triển hay chậm phát triển là những nước nông nghiệp lạc hậu, những nước chưa trải qua công nghiệp hoá. Như vậy, phát triển ở đây không còn là khái niệm chỉ sự phát triển chung, mà là khái niệm đặc thù chỉ bước chuyển đổi trong tiến trình kinh tế, từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, công nghiệp hoá. Quan điểm này đã coi Công nghiệp và sức sản xuất là yếu tố quyết định đến trình độ phát triển, đồng thời đặc trưng cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội loài người. Trong các lý thuyết khác nhau, cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau về sự phát triển. Chẳng hạn, A.Toffler đã chia xã hội theo 3 làn sóng phát triển: Làn sóng nông nghiệp, làn sóng công nghiệp và làn sóng hậu công nghiệp. Trong làn sóng nông 15
  15. nghiệp kinh tế chậm phát triển. Làn sóng công nghiệp kinh tế phát triển nhanh và mạnh hơn làn sóng nông nghiệp. Những quốc gia và lãnh thổ đã trải qua làn sóng công nghiệp hay công nghiệp hoá là những nước phát triển, còn những nước hậu công nghiệp là những nước phát triển hiện đại. Toàn bộ sự thay đổi trong phương thức sản xuất và trong cơ cấu của nền sản xuất - tức là chuyển từ nền kinh tế chậm phát triển sang nền kinh tế phát triển, là quá trình thị trường hoá và quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế. W.Rostow đã làm rõ logic của bước chuyển từ xã hội với nền kinh tế chậm phát triển sang xã hội có nền kinh tế công nghiệp. Ông cho rằng, giữa nền kinh tế chậm phát triển và nền kinh tế công nghiệp cách nhau một khoảng cách với 5 bậc hay 5 cấp độ chuyển hoá kế tiếp nhau [22] như sau: 1) Giai đoạn xã hội truyền thống; 2) Giai đoạn chuẩn bị cất cánh; 3) Giai đoạn cất cánh; 4) Giai đoạn hướng tới sự chín muồi về kinh tế; 5) Giai đoạn kỷ nguyên tiêu dùng cao. Lý thuyết về 5 giai đoạn phát triển này nhấn mạnh giai đoạn cất cánh, là giai đoạn tạo bước ngoặt lịch sử, vì thế, còn gọi là lý thuyết cất cánh. Trước khi có lý thuyết W.Rostow, người ta thường sai lầm là đồng nhất hai khái niệm phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế - tức là mở rộng mức sản lượng tiềm năng của một nền kinh tế. Nhưng cách tiếp cận toàn diện và có cơ sở khoa học hơn cả là học thuyết Mác -xít. Riêng trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, Các Mác đã từng chỉ ra, thời đại này khác thời đại khác không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là sản xuất bằng cách nào. Điều đó có nghĩa là công cụ sản xuất, phương thức tiến hành sản xuất là cái quan trọng nhất để đánh giá những nấc thang phát triển của các xã hội khác nhau. Bước sang giai đoạn kinh tế trí thức, thông tin và tri thức trở thành động lực phát triển chính, nên xã hội loài người trở nên văn minh hơn, tiết kiệm hơn và sử dụng nguồn lực một cách hợp lý hơn nhờ vào kinh tế tri thức, nhất là sự xuất hiện của các vật liệu mới, nguồn nhiên liệu mới. Chẳng hạn, công nghệ nanô cho phép chế tạo ra những cỗ máy tinh vi, nhỏ bé mà chức năng lại vượt trội các cỗ máy dùng đến hàng tấn nguyên vật liệu. Người ta ví toàn bộ chức năng của một vệ tinh hiện nay, tương lai có thể chỉ thu nhỏ bằng bao diêm với các máy móc được chế tạo bằng công nghệ nanô. 16
  16. Như vậy, Phát triển kinh tế là khái niệm chỉ quá trình chuyển nền kinh tế từ chậm phát triển sang nền kinh tế phát triển, chứ không phải là phát triển kinh tế với nội dung tăng trưởng kinh tế hiện đại. Một khái niệm diễn tả quá trình thay đổi về chất trong tiến trình kinh tế, khái niệm kia diễn tả sự tăng lên về lượng của một nền kinh tế. Không nên đồng nhất phát triển kinh tế với tăng trưởng kinh tế, dù rằng tăng trưởng kinh tế là nội dung vật chất của phát triển kinh tế [22]. Riêng về lĩnh vực kinh tế, một nền kinh tế được gọi là phát triển bao giờ cũng phát triển hài hoà cả hai nội dung chủ yếu sau: đó là sự gia tăng của cải vật chất và dịch vụ, cùng với sự chuyển biến theo hướng tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Về cơ cấu kinh tế được thể hiện ở mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành theo chiều hướng tiến bộ: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp hay Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Ngày nay, người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế phát triển phải đảm bảo cân đối, hài hoà và toàn diện các mục tiêu kinh tế, xã hội, bền vững và bảo vệ tốt môi trường môi sinh. Những yếu tố tác động quyết định đến sự phát triển nền kinh tế là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, trước hết là việc sử dụng các công cụ sản xuất tiên tiến, áp dụng thành công các kết quả của cách mạng về khoa học kỹ thuật, công nghệ và thông tin. Các cách tiếp cận trên dù đạt được một số mục đích nào đó tùy theo cách tiếp cận, cũng như vận dụng và phê phán chúng nhưng vẫn chưa chỉ ra được tính chất giới hạn của từng phương thức sản xuất trên cơ sở chỉ ra bản chất sâu xa của chúng. Học thuyết kinh tế của Các Mác chẳng những lý giải một cách khoa học, chuẩn xác các hiện tượng kinh tế tư bản chủ nghĩa, mà còn đưa ra những quan điểm hoàn toàn mới so với các quan điểm trước đó về mối quan hệ giữa con người và quá trình lao động của con người với giới tự nhiên. Cái giá phải trả cho việc tác động vào giới tự nhiên một cách tự phát là bị thiên nhiên trừng phạt. Ý muốn nói đến một sự bảo tồn, duy trì sự cân bằng cần thiết trong tự nhiên khi tác động vào nó để thỏa mãn các nhu cầu của con người. “Giới hạn thật sự của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là bản thân tư bản, điều đó có nghĩa là: tư bản và việc làm cho tư bản tự nó tăng thêm giá trị là điểm xuất phát và điểm cuối cùng, là động cơ và mục đích của sản xuất, sản xuất chỉ là sản xuất cho tư bản, chứ không phải ngược lại; những tư liệu sản xuất không 17
  17. phải đơn thuần là những phương tiện cho quá trình sinh sống thường xuyên mở rộng của xã hội những người sản xuất.” [11, tr. 380]. 1.1.1.2. Phát triển bền vững và phát triển kinh tế bền vững + Phát triển bền vững: Khi phân tích nội dung về PTBV trong các học thuyết kinh tế tư sản, nghiên cứu bắt đầu từ tác phẩm nổi tiếng của Adam Smith: “Nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc” (1776) vì đây là công trình nghiên cứu được đánh giá là có sự khác biệt rất đáng kể so với các học thuyết trước đó, đồng thời đưa ra những lý giải khá đầy đủ về sự hoạt động của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa giai đoạn cạnh tranh tự do [70]. Câu nói nổi tiếng của ông là coi các quy luật thị trường như bàn tay vô hình điều khiển các hành vi của con người và các lợi ích cá nhân. Mỗi người theo đuổi lợi ích cho riêng mình, còn xã hội được lợi từ quá trình đó một cách ngẫu nhiên. Thế nhưng khi lý giải về của cải của các dân tộc, Adam Smith đã không vượt qua được giới hạn của phương thức lao động công trường thủ công thời kỳ đó và chính Các Mác đã phát hiện ra rằng, phạm trù “của cải của các dân tộc” không phải là gì khác, đó chính là tư bản và tư liệu chính có thể làm tăng nguồn của cải đó lại chính là phân công lao động ở trình độ công trường thủ công. Đó cũng chỉ là một phương thức đặc thù sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối mà thôi [70]. Có nghiên cứu cho rằng, chỉ khoảng 3-4 thập niên cuối của thế kỷ XX, người ta mới nhắc nhiều đến thuật ngữ "phát triển bền vững". Hầu hết các quốc gia cũng đều quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, đây không hẳn chỉ là vấn đề thời sự mà từ lâu lắm, ông cha ta đã có những ước mong cháy bỏng: "Non nước ấy ngàn thu; nước non ngàn thủa vững âu vàng". Nhiều đế chế từ Âu sang Á cũng từng có những khát vọng ấy. Nếu có khác chăng thường là ở sự diễn đạt và cách thức thực hiện. Nhưng tựu trung lại, vẫn ở cách nhìn phiến diện, thiên lệch, tuyệt đối hóa một hoặc vài yếu tố nào đấy. Suy cho cùng, các bậc tiền nhân thiên về quan niệm "mạnh". Củng cố quyền lực để có một vương triều mạnh. Tăng cường xây dựng lực lượng để có một quân đội mạnh, thiện chiến, đánh đông dẹp bắc, chiếm cứ đất đai, mở mang giang sơn, bờ cõi... Vì vậy, đã dẫn đến những chu trình lặp đi lặp lại, tưởng như "thiên định" là sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc. Phải trả giá bằng hàng nghìn năm qua đêm trường trung cổ, người ta mới vỡ lẽ rằng, hóa ra phát triển mạnh 18
  18. đâu có phải là bền vững. Trong xã hội phong kiến cổ xưa của Trung Quốc, không phải thời nào cũng duy trì việc truyền ngôi theo kiểu “cha truyền con nối”, chẳng hạn thời Nghiêu Thuấn, tiêu biểu cho lớp người có công lớn trong việc trị thủy, mà Võ được tin cậy của quần chúng và tất nhiên là của Thuấn mà được truyền ngôi vua, sau này Nho giáo gọi đó là nếp “truyền hiền” hay còn gọi là “thiện nhượng” tức truyền ngôi cho người có đức có tài... đất nước thịnh vượng [20, tr. 9]. Thế nghĩa là, con người qua nhiều triều đại đều có những quá trình mò mẫm, tìm tòi để giải quyết những vấn đề của sự phát triển và trường tồn của mình. Tất nhiên, PTBV đã là một nhu cầu khách quan, là một tiền đề của lịch sử. Không chỉ liên quan đến sự tồn vong, mà là trường tồn của một quốc gia, dân tộc. Mãi đến nhiều thập kỷ sau này của thời kỳ cận - hiện đại, theo cách gọi của giới sử học, mới xuất hiện những điều kiện vật chất nhất định cho quá trình hình thành những quan điểm rất khác nhau về PTBV. Đó là, sự phát triển của các nước công nghiệp phát triển trước đây tập trung chủ yếu vào hoạt động sản xuất. Cách làm này cũng được nhiều nước đang phát triển trong những năm 1950 và 1960 áp dụng. Họ rất coi trọng mục tiêu tăng sản lượng và tăng trưởng thông qua chỉ tiêu đánh giá về tổng thu nhập quốc dân (GNP), thu nhập quốc nội (GDP). Và các nước này thường lấy tiêu chuẩn về hiệu quả kinh tế làm “kim chỉ nam” cho những hoạt động của nền kinh tế. Cho đến đầu những năm 1970, nạn nghèo đói gia tăng ở các nước đang phát triển đã khiến những người nghiên cứu về phát triển tập trung mọi nỗ lực vào vấn đề cải thiện phân phối thu nhập. Quan niệm về phát triển lúc đó được chuyển hướng sang sự tăng trưởng, song có bổ sung thêm nội dung phải bảo đảm bình đẳng xã hội và đặc biệt là vấn đề giảm đói nghèo. Chỉ tiêu này được đánh giá là một tiêu chuẩn quan trọng ngang bằng với tiêu chuẩn về hiệu quả kinh tế. Nhưng vào đầu những năm 1980, khi hàng loạt bằng chứng về sự xuống cấp nhanh chóng của môi trường đã trở nên những thách thức nghiêm trọng đối với phát triển thì vấn đề bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu thứ ba của sự phát triển. Cũng khoảng thời gian này, thuật ngữ "phát triển bền vững" bắt đầu xuất hiện. Từ đó tới nay, đã có nhiều định nghĩa và khái niệm về PTBV được nêu ra qua các hội nghị và hội thảo quốc tế. Tuy thế, định nghĩa do Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển đưa ra trong Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" (1987) 19
  19. dường như nhận được sự tán đồng của đa số quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu về PTBV. Nội dung của định nghĩa này là: "Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại song không xâm hại tới khả năng thỏa mãn của các thế hệ tương lai" [74]. Nội hàm của định nghĩa trên rất rộng vì gắn với nhu cầu ngày càng cao của con người, của sự kế tiếp các thế hệ. Song, có thể thấy một lôgic là: cứ những vấn đề nào quyết định hoặc liên quan đến sự sống, sự tồn tại và phát triển của con người hẳn sẽ trực tiếp, hoặc gián tiếp gắn với PTBV. Vào thời điểm đó, người ta mới chỉ nhận thấy ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường; còn một thành tố vô cùng quan trọng được tiếp tục nhận thức trong cả quá trình tiếp theo, đó là văn hóa. Các cách tiếp cận trên thể hiện trong các nội dung cụ thể như sau: Thứ nhất, cách tiếp cận kinh tế: Dựa vào luận điểm về tối đa hóa thu nhập với chi phí tối thiểu (nhỏ nhất) của Hick - Lindahl. Bao gồm chi phí nguồn tài sản, tư bản, lao động [55]. Ngoài ra, người ta còn dùng cách tiếp cận sử dụng tối ưu và có hiệu quả những nguồn lực khan hiếm. Tuy nhiên, có một số vấn đề nảy sinh khi sử dụng cách tiếp cận này. Chẳng hạn, dùng phương pháp gì để xác định những loại tài sản không được đánh giá trên thị trường như tài nguyên, hệ sinh thái... Mặc dù vậy, luận điểm này được áp dụng rộng rãi nhất là ở các nước đang phát triển và các nước trong hệ thống XHCN trong những năm 1950-1960 và đầu những năm 1970. Mục tiêu hàng đầu của các nước thời kỳ đó là làm sao để giải được bài toán cho tăng trưởng và ổn định kinh tế với hiệu quả kinh tế cao. Thứ hai, cách tiếp cận xã hội: Với cách tiếp cận này, con người được coi là trung tâm trong những quyết định về chính sách phát triển. Bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế còn có quan điểm phát triển mang tính xã hội, nhằm bảo đảm duy trì sự ổn định xã hội; giảm bớt những tác động tiêu cực về xã hội của sự phát triển kinh tế; bảo đảm tính công bằng xã hội với mục tiêu giảm tỷ lệ dân số phải sống trong nghèo đói. Đây là một mục tiêu phát triển cơ bản của đất nước. Thứ ba, cách tiếp cận môi trường: Được phổ biến rộng rãi từ đầu những năm 1980, tập trung vào các vấn đề môi trường đang ngày càng trở nên nóng bỏng trên thế giới. Quan điểm này lưu ý tới sự ổn định của hệ sinh thái và của môi trường sinh thái. Đó cũng chính là những đối tượng đang chịu tác động mạnh của các hoạt động kinh tế tại cả các nước đã phát triển và các nước đang phát triển . 20
  20. Thứ tư, cách tiếp cận về văn hóa: Càng ngày người ta lại càng ý thức được rằng, nếu một đất nước tăng trưởng nhanh, giàu có, nhưng tệ nạn xã hội vẫn tràn lan, môi trường vẫn bị hủy hoại một cách chủ ý hoặc vô ý thì không thể bảo đảm sự PTBV. Căn nguyên lại, do không chỉ trình độ văn hóa thấp, mà gần đây còn được cho là "sự xung đột của các nền văn hóa". Mới đây, ngày 12-10-2006, Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển công bố trao giải Nô-Ben Văn học cho nhà văn Thổ Nhĩ kỳ Ô- ran Pa-múc vì các tác phẩm có giá trị cao về lĩnh vực này [6]. Như vậy, quốc gia đó không thể gọi là một nước phát triển, chứ chưa nói là PTBV. Cuối cùng, vấn đề văn hóa từ lâu nay thường không được đề cập nhiều, nay đã dần dần được nhìn nhận một cách khách quan hơn, được đánh giá đúng với vị trí vốn có của nó. Hàng trăm khái niệm về văn hóa ra đời, các chỉ tiêu nhân bản - HDI (Human Development Index - Chỉ số phát triển con người) đã được phân tích và bổ sung dần. Tiêu chuẩn về kinh tế đã được kết hợp cùng với tiêu chuẩn về văn hóa - xã hội và môi trường. Đó là một nhận thức hết sức quan trọng. Bởi vì, suy cho cùng, con người sinh ra không mong gì hơn là được ấm no, tự do, hạnh phúc; cộng đồng người hợp thành xã hội, cũng không gì hơn là có một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong một môi trường sinh thái trong lành, tốt đẹp. Không những thế, gắn phát triển kinh tế với xã hội và nhất là văn hóa đã giúp các quốc gia định vị lại mục tiêu chiến lược của mình, đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi sự tăng trưởng và phát triển. Điều đó là hoàn toàn đúng với phát hiện của Các Mác về tính giới hạn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa như đã đề cập ở trên. PTKTBV ngày nay đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, thậm chí còn trở thành một quan điểm chủ đạo trong hoạch định chiến lược và chính sách phát triển của nhiều quốc gia. Vậy PTKTBV được hiểu như thế nào, theo tác giả luận án: - Hiểu theo nghĩa hẹp là sự tăng trưởng về kinh tế một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững. Là sự tăng trưởng cao phù hợp được duy trì trong thời gian dài, thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người tăng lên. - Tăng trưởng hợp lý, hiệu quả: điều này không có nghĩa phải duy trì tốc độ tăng trưởng thật cao, mà chỉ cần cao ở mức vừa phải đồng thời duy trì một cơ cấu kinh tế ngành một cách phù hợp và từng bước có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo đúng xu thế phát triển. 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2