Luận án Tiến sĩ Kinh tế Chính trị: Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
lượt xem 20
download
Trên cơ sở luận giải lý luận và thực tiễn về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL, luận án nghiên cứu đánh giá thực trạng quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong quá trình phát triển mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL đến năm 2025.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế Chính trị: Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN HOÀNG HIỂU QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2019
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN HOÀNG HIỂU QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN QUỐC DŨNG 2. GS.TS. CHU VĂN CẤP HÀ NỘI - 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Trần Hoàng Hiểu
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1.Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 7 1.2.Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài luận án và những khoảng trống luận án cần tiếp tục nghiên cứu 28 Chương 2: LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN 31 2.1. Lý luận về quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn 31 2.2. Kinh nghiệm xây dựng "Mô hình liên kết sản xuất" - nơi sản sinh và thực hiện lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp và bài học rút ra cho đồng bằng sông Cửu Long 59 Chương 3: THỰC TRẠNG QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 72 3.1.Khái quát về vùng đồng bằng sông Cửu Long 72 3.2.Thực trạng thực hiện lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua 77 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HÀI HÕA QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ DOANH NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN CÁNH ĐỒNG LỚN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 115 4.1. Quan điểm giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long 115 4.2. Giải pháp giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2025 127 KẾT LUẬN 150 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AGPPS : Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang CĐL : Cánh đồng lớn CTCP : Công ty cổ phần ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long HQKT : Hiệu quả kinh tế KT-XH : Kinh tế - xã hội LKKT : Liên kết kinh tế LIKT : Lợi ích kinh tế MHCĐL : Mô hình cánh đồng lớn NCKT : Nhu cầu kinh tế NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn NSLĐ : Năng suất lao động GAP : Thực hành sản xuất tốt Globalgap : Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn toàn cầu VSATTP : Vệ sinh an toàn thực phẩm VietGAP : Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam UBND : Uỷ ban nhân dân
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH, SƠ ĐỒ Trang Bảng 2.1: Tổng hợp lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn 48 Bảng 3.1: Vùng liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ lúa - xây dựng cánh đồng lớn tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2014 79 Bảng 3.2: Diện tích, số hộ thực hiện cánh đồng lớn năm 2016 và kế hoạch thực hiện cánh đồng lớn giai đoạn 2017-2019 của thành phố Cần Thơ 81 Bảng 3.3: Số lượng và diện tích cánh đồng lớn tỉnh Bạc Liêu 2017- 2020 82 Bảng 3.4: Hiệu quả kinh tế cánh đồng lớn tại Cờ Đỏ vụ Đông Xuân 2015 - 2016 91 Bảng 3.5: Chi phí sản xuất trung bình vụ Đông Xuân 2015- 2016, vụ Hè Thu 2016 của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát 92 Bảng 3.6: Doanh thu và lợi nhuận vụ Đông Xuân 2015 - 2016, vụ Hè Thu 2016 của vùng đồng bằng sông Cửu Long qua khảo sát 93 Bảng 3.7: Về hiệu quả kinh tế của mô hình cánh đồng lớn vụ Đông Xuân 2016-2017 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang 94 Bảng 3.8: Hiệu quả kinh tế của một số cánh đồng lớn điển hình trên địa bàn huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang vụ Hè Thu năm 2018 95 Bảng 3.9: Chênh lệch giữa giá gạo xuất khẩu và giá lúa tại ruộng giai đoạn 2011-2017 110 Biểu đồ 3.1: Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái Lan giai đoạn 2011 - 2017 (USD/tấn) 104 Biểu đồ 3.2: Chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá lúa tại ruộng giai đoạn 2012 - 2017 (USD/tấn 110 Biểu đồ 4.1: Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực giai đoạn 2012 - 2017 (%) 119 Hình 1.1: Mô hình chuỗi giá trị hàng nông sản 27 Sơ đồ 4.1: Đề xuất mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp sản xuất lúa theo cánh đồng lớn 139
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn luôn chiếm vị trí quan trọng, là nền tảng của phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta luôn xác định: Nông nghiệp dồi dào thì nền tảng vững mạnh, nông dân giàu thì nước thịnh, nông thôn ổn định thì cả xã hội yên. Đảng ta coi vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Chính vì vậy, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp Việt Nam nói chung, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nông nghiệp nước ta chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu... nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta vẫn đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức lớn... Vì thế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển hiện đại, bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, dựa trên nền tảng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ cao và đổi mới mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp. Để tái cơ cấu nông nghiệp cần xây dựng vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Theo Nghị định số 80/2002/NĐ-TTg, ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng và Chỉ thị 24/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến và tiêu thụ. Quyết định 62/2013/QĐ-TTg, ngày 25/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn (CĐL). Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Xây dựng CĐL là nhu cầu thực tiễn, là giải pháp quan trọng và lâu dài góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và tính bền vững như Nghị quyết 21/2011/QH13 đã khẳng định.
- 2 Ở ĐBSCL, việc liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản theo mô hình CĐL đã được hình thành và phát triển từ năm 2011 đến nay. Cánh đồng lớn là mô hình có sự liên kết 4 nhà: Nhà nông, nhà doanh nghiệp, có sự hỗ trợ của Nhà nước và nhà khoa học. Trong đó, mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt. Mô hình này đã mang lại lợi ích kinh tế (LIKT) cho cả nông dân và doanh nghiệp, tạo động lực cho quá trình đổi mới tổ chức sản xuất theo mô hình liên kết. Đặc biệt, trong sản xuất lúa ở ĐBSCL là mô hình tham gia liên kết sản xuất theo CĐL đã tạo sự đồng thuận to lớn đối với cả nông dân và doanh nghiệp - yếu tố quyết định sự thành bại đối với quá trình hình thành và phát triển mô hình CĐL. Trên thực tế, khi tham gia liên kết sản xuất theo CĐL, nông dân có được những lợi ích như: có cơ hội tiếp cận thị trường, biết được mình trồng cây gì, bán cho ai, giá bao nhiêu, vào lúc nào và có thể biết hưởng lợi bao nhiêu, từ đâu, nên họ sẽ yên tâm sản xuất; nông dân sẽ tiết kiệm được chi phí sản xuất từ đó tăng thu nhập; nhận thức và trình độ của nông dân được nâng lên. Đối với doanh nghiệp có lợi ích như: thiết lập được liên kết dọc với nông dân đa diện và sâu sát sẽ đảm bảo nguồn nguyên liệu đầy đủ và kịp thời, đáp ứng nhu cầu của thị trường; doanh nghiệp có được nguồn nguyên liệu với độ đồng đều và chất lượng cao mua được từ nông dân trong mô hình liên kết, dẫn đến giá bán nông sản cao hơn từ đó lợi nhuận tăng lên. Qua đó cho thấy, quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp là tác nhân quan trọng để phát triển mô hình CĐL. Tuy vậy, thực tế cho thấy quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn, những bất hợp lý, thua thiệt cho cả nông dân và doanh nghiệp mà nguyên nhân xuất phát từ cả phía nông dân lẫn phía doanh nghiệp, mà chủ yếu là vấn đề giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp. Để mô hình liên kết trong CĐL ổn định và phát triển bền vững thì việc đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong liên kết sản xuất lúa theo CĐL là rất quan trọng. Do đó, cần có những nghiên cứu chuyên sâu tìm giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL. Để góp phần tìm giải pháp, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long" làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
- 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở luận giải lý luận và thực tiễn về LIKT và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL, luận án nghiên cứu đánh giá thực trạng quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong quá trình phát triển mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL đến năm 2025. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến LIKT và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL. - Hệ thống hóa, làm rõ thêm lý luận về quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về "xây dựng và phát triển các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ nông phẩm theo CĐL - nơi sản sinh và thực hiện quan hệ LIKT tế giữa nông dân và doanh nghiệp. - Đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng thực hiện LIKT và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL giai đoạn 2014-2018. - Đề xuất những quan điểm và và giải pháp nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL đến năm 2025. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển mô hình CĐL sản xuất lúa dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Quan hệ LIKT được nghiên cứu dưới góc cạnh là sản phẩm hay kết quả của việc thực hiện các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc vùng ĐBSCL.
- 4 - Về thời gian: Việc nghiên cứu đánh giá thực trạng được tiến hành chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. Các giải pháp được đề xuất thực hiện đến năm 2025. 4. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án - Cở sở lý luận của luận án: Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về LIKT trong liên kết sản xuất và tiêu thụ nông phẩm; quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong liên kết sản xuất giai đoạn hiện nay. - Cơ sở thực tiễn của luận án: Luận án dựa trên kinh nghiệm quốc tế và một số địa phương trong nước về xây dựng các mô hình liên kết sản xuất theo CĐL - nơi sản sinh và thực hiện quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế chính trị - phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng chủ yếu ở chương 2 nhằm phân tích cơ sở lý luận về LIKT và mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. Các phương pháp cụ thể được tác giả luận án sử dụng: (1) Phân tích - tổng hợp, phương pháp logic kết hợp với lịch sử. Phân tích là một vấn đề cần thiết để giải thích theo phương pháp truy nguyên nhằm nhận thức quá trình hình thành, phát triển các hiện tượng, quá trình kinh tế... trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển. Điểm kết thúc của sự phân tích là tổng hợp, nhờ có tổng hợp mới có thể đi từ cái cụ thể, tản mạn đến sự khái quát thành khái niệm, phạm trù lý luận. Phương pháp này được sử dụng ở Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án - để phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn về đối tượng nghiên cứu, từ đó rút ra những kết quả nghiên cứu và các vấn đề còn là "khoảng trống" cần tiếp tục nghiên cứu. Phương
- 5 pháp này cũng được sử dụng ở Chương 2 để phân tích khung lý luận về LIKT và mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL. (2) Phương pháp thống kê và so sánh, diễn dịch và quy nạp, điều tra khảo sát được sử dụng ở Chương 3 nhằm làm rõ thực trạng thực hiện LIKT và mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL giai đoạn 2014-2018, từ đó rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. (3) Phương pháp thu thập thông tin - Thu thập dữ liệu thứ cấp: tác giả luận án thu thập tài liệu trong và ngoài nước qua các công trình khoa học đã công bố, qua số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam và các tài liệu công bố chính thức liên quan đến đề tài luận án, của các cơ quan nhà nước, bộ, ngành, địa phương... - Thu thập dữ liệu sơ cấp: tọa đàm, trao đổi, hỏi ý kiến, phỏng vấn trực tiếp một số nông dân, doanh nghiệp và cán bộ quản lý... Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 3 nhằm cung cấp các luận cứ phân tích và rút ra kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của thực trạng vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp tổng kết thực tiễn về xây dựng và phát triển CĐL và giải quyết mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở ĐBSCL. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án có những đóng góp mới như: - Thứ 1, góp phần khái quát các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến LIKT nói chung và quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong CĐL nói riêng, qua đó, chỉ ra những khoảng trống của các nghiên cứu trước đó về mối quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu. - Thứ 2, luận án tiếp cận vấn đề quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hệ thống hóa và làm rõ các cơ sở lý luận, bản chất và phương thức đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL ở ĐBSCL.
- 6 - Thứ 3, tổng kết, đánh giá thực trạng quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL sản xuất lúa ở ĐBSCL từ năm 2014 đến năm 2018. Ở đây, luận án rút ra kết luận có tính lý luận và thực tiễn là: đảm bảo hài hòa quan hệ LIKT là "chất kết dính" người nông dân và doanh nghiệp trong phát triển CĐL và là nhân tố đảm bảo cho CĐL phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững. - Thứ 4, đề xuất các quan điểm định hướng và giải pháp mang tính toàn diện và khả thi nhằm giải quyết hài hòa quan hệ LIKT giữa nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL ở ĐBSCL đến năm 2025. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương 08 tiết.
- 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về lợi ích kinh tế của các tác giả nước ngoài và trong nước Lợi ích kinh tế (LIKT) là vấn đề quan trọng của sản xuất và đời sống, nên từ lâu, đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ khoa học triết học, kinh tế chính trị, xã hội học, tâm lý học... 1.1.1.1. Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về lợi ích kinh tế * Quan niệm về lợi ích kinh tế: A.Smith với tác phẩm: "The wealth of nations" (Của cải của các dân tộc) [95, tr.65] cho rằng: LIKT và phân công lao động chính là hai phạm trù có mối quan hệ gắn bó với nhau. Thông qua phân công lao động, mỗi cá nhân sẽ trau dồi nghề nghiệp của mình hoàn hảo và khiến việc lao động mang lại hiệu quả cao nhất, qua đó sẽ làm cho lợi ích cá nhân tăng lên. Khi nói về vai trò của lợi ích, A.Smith cho rằng: động lực thúc đẩy con người lao động để làm ra của cải vật chất cho xã hội, tạo ra sự phồn thịnh của mọi quốc gia, mọi dân tộc chính là LIKT của mỗi cá nhân, lòng ham tư lợi, vị kỷ của cá nhân, ham làm giàu. Ông cũng chỉ ra mối quan hệ giữa lợi ích của toàn dân tộc, quốc gia và LIKT của cá nhân. Theo A.Smith, trong quá trình hoạt động kinh tế, mỗi người đều theo đuổi lợi ích cá nhân, đều nỗ lực cải thiện mức sống của mình, như thế tất yếu sẽ dẫn đến làm tăng của cải xã hội. David Ricardo (1772 - 1823) với tác phẩm: Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khóa, đã cho rằng: LIKT của các giai cấp khác nhau được xây dựng trên cơ sở giá trị, tiền lương và lợi nhuận. Do đó, việc tăng hay giảm tiền lương sẽ không ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa, mà chỉ ảnh hưởng đến việc phân phối giá trị đã được tạo ra giữa công nhân và tư bản. Chính vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến LIKT của họ. Khi giá trị vật phẩm tiêu dùng thiết yếu giảm xuống, tiền công lao động giảm, lợi nhuận của nhà tư bản sẽ tăng lên. Điều đó được thể hiện trong số giá trị mới được tạo ra, phần của công nhân được hưởng nhỏ hơn, còn phần của người sử dụng lao động (hay là nhà tư bản) thì lớn hơn, đây là mối quan hệ tỷ lệ nghịch về lợi ích, nếu lợi ích của người đi thuê công nhân tăng thì lợi ích của người đi làm
- 8 thuê sẽ giảm và ngược lại [93]. Phát hiện này của David Ricardo có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu quan hệ lợi ích giữa chủ và thợ trong các cơ sở sản xuất có thuê mướn lao động. Tác giả B.B.Radaev (1971), trong tác phẩm: LIKT trong chủ nghĩa xã hội [92], đã phân tích làm rõ bản chất của LIKT, nhận diện hệ thống LIKT trong chủ nghĩa xã hội, tác giả đi sâu phân tích vai trò của LIKT như là động lực phát triển xã hội trong môi trường xã hội chủ nghĩa của Liên Xô (cũ). Tác giả đã nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa LIKT với lợi ích tinh thần, LIKT riêng và lợi LIKT chung của xã hội. Ông khẳng định, việc điều tiết tốt, hợp lý các mối quan hệ lợi ích sẽ tạo động lực phát triển xã hội. Theo "Bách khoa toàn thư Liên Xô", năm 1972 [34], lợi ích được phân loại như sau: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, LIKT, lợi ích chính trị; lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp; lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ; lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài; lợi ích căn bản, lợi ích không căn bản; lợi ích cấp bách, lợi ích không cấp bách; lợi ích chính đáng, lợi ích không chính đáng. * Về vai trò của lợi ích kinh tế: Đa số các tác giả đều chỉ ra tính tích cực của lợi ích trong hoạt động của con người. D.M.Xôraép, cho rằng: lợi ích tạo nên sức mạnh động lực bởi được phản ánh trong tư tưởng và được tiếp nhận dưới hình thức nhân tố động cơ. Bản chất của sự định hướng của lợi ích bao hàm trong nó, rằng cơ sở của nó nằm trong mâu thuẫn giữa nhu cầu của chủ thể và điều kiện khách quan, mà trong khuôn khổ của những điều kiện ấy những nhu cầu này không thể thực hiện. Chính những mâu thuẫn này là những lực lượng thúc đẩy tính tích cực của con người. A.M.Đidcốp-xki, cho rằng, lợi ích được nhận thức sẽ định hướng nhận thức nhu cầu và điều kiện khách quan, đến lượt mình, nó xác định sự tìm kiếm phương thức, con đường và phương tiện để giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn. Tác giả Laprinmenco (1978) [63], trong tác phẩm: Những vấn đề lợi ích trong chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đưa ra quan niệm về lợi ích, theo đó, ông cho rằng: "Lợi ích chính là mối quan hệ xã hội khách quan của sự tự khẳng định xã hội của chủ thể". Tác giả cùng phân tích và chỉ ra bản chất của lợi ích, ông cho rằng: nghiên cứu quá trình tự khẳng định bản thân trong đời sống xã hội sẽ hiểu được bản chất và nội dung lợi ích khách quan của chủ thể, điều này hợp lý vì hoạt động tự khẳng định bản thân trong xã hội là nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động có mục
- 9 đích của con người, vì khí con người thực hiện các hoạt động của mình sẽ bộc lộ những đặc tính thể hiện rõ sự phù hợp của họ với vị trí và vai trò của mình trong xã hội. Đó chính là nội dung của lợi ích và LIKT. Như vậy, có thể khẳng định nội dung của LIKT là phương thức tự khẳng định xã hội của con người, thể hiện trước hết ở phương thức thoả mãn những nhu cầu vật chất (nhu cầu kinh tế) của chủ thể. Ông cũng phân tích những đặc tính của lợi ích nói chung, LIKT nói riêng và đã tán thành quan điểm của V.I.Lênin khi cho rằng LIKT là một hiện tượng có thực, biểu hiện của các quan hệ kinh tế khách quan. Tính khách quan của lợi ích thể hiện ở chỗ, nó xuất hiện bên ngoài các chủ thể, không phụ thuộc vào nhận thức của các chủ thể. Bên cạnh đó, LIKT cũng mang tính lịch sử cụ thể và tính giai cấp. Có thể thấy, các quan điểm về LIKT của Laprinmenco trong tác phẩm này chủ yếu xuất phát từ việc phân tích, phát triển các chỉ dẫn của Lênin về vấn đề này. Đ.I.Tresnôccôp [120] cho rằng LIKT gắn bó mật thiết với NCKT, song, LIKT không phải là NCKT. Theo Đ.I.Tresnôccôp, lợi ích là mối quan hệ khách quan của xã hội, hay của một con người riêng lẻ đối với điều kiện sống của xã hội và các nhu cầu hiện có của mình, là mối quan hệ kích thích, tác động đến tập thể hay cá nhân mỗi người nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi cho đời sống và sự phát triển của cá nhân hay tập thể, đấu tranh với những điều kiện cản trở sự tồn tại và phát triển của họ. Nguồn gốc ra đời của LIKT chính là từ quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu của con người với điều kiện sống. Chính thông qua việc giải quyết mối quan hệ này, con người sẽ có được phương thức để tồn tại, hướng tới sự phát triển cho cá nhân và xã hội. Quan điểm này của tác giả khá đồng nhất với một số tác giả hiện nay khi khẳng định: LIKT là một phạm trù khách quan, nó sinh ra từ NCKT, là phương thức để thoả mãn những nhu cầu đó. 1.1.1.2. Các tác giả trong nước nghiên cứu về lợi ích, lợi ích kinh tế Một là, các nghiên cứu về LIKT nói chung. Ở nước ta, nghiên cứu về LIKT được nhiều tác giả quan tâm trong những năm 1980 bắt nguồn từ những tư tưởng đột phá về kinh tế trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV (8/1979) với quan điểm "làm cho sản xuất bung ra"… khắc phục sai lầm, khuyết điểm trong quản lý kinh tế; trong cải tạo XHCN, tạo ra động lực cho sản xuất, chú ý kết hợp 3 LIKT - xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, quan tâm hơn đến lợi ích thiết thân của người lao động.
- 10 Các tác giả trong nước đều nghiên cứu về quan niệm, bản chất của LIKT, các hình thức LIKT và vai trò động lực của LIKT trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, mà trực tiếp nhất là các quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, các nhà nghiên cứu trong nước có chung quan điểm cho rằng: - Cơ sở của LIKT là nhu cầu vật chất kinh tế khi đã được xác định về mặt xã hội (tức là nhu cầu vật chất có khả năng thanh toán). - Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu. - Lợi ích kinh tế là một phạm trù mang tính chất giai cấp. Trong xã hội, do địa vị của các giai cấp khác nhau nên NCKT và LIKT cũng hoàn toàn khác nhau. Đồng thời, LIKT mang tính chất lịch sử rõ rệt. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của nền kinh tế - xã hội khác nhau, nhu cầu của con người luôn vận động và thay đổi. Chính yếu tố nhu cầu thay đổi, tác động làm LIKT luôn biến đổi cho phù hợp với sự thay đổi của nhu cầu. - Lợi ích kinh tế đóng vai trò là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể đề cập đến một số công trình tiêu biểu đề cập đến các vấn đề lý luận nêu ở trên: Tập thể tác giả cuốn "Bàn về LIKT" (1982) cho rằng "Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người với người trong sản xuất". "Lợi ích kinh tế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện dưới hình thức lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân người lao động" [102, tr.9]. "Lợi ích kinh tế của xã hội là lợi ích của nhân dân lao động trên phạm vi cả nước, lợi ích của tất cả các tập đoàn, các thành viên của xã hội xã hội chủ nghĩa. Lợi ích kinh tế của xã hội nảy sinh trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất, về lao động, đất đai, về tài nguyên thiên nhiên" [102, tr.11]. "Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất, nó không tuỳ thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con người" [102, tr.62]. và cho rằng, LIKT là cái biểu hiện của các quan hệ kinh tế dưới hình thức những động cơ, mục đích, những nhân tố kích thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao động của con người… LIKT gắn chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu kinh tế mới có LIKT tương ứng. Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu đồng nhất LIKT với nhu cầu kinh tế… Bởi vì, LIKT là một phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất định, không phụ thuộc vào ý muốn con
- 11 người. Cũng như bất cứ một phạm trù kinh tế nào khác, LIKT tồn tại không tuỳ thuộc ở chỗ người ta có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong hệ thống sản xuất - xã hội quyết định. Vì vậy, LIKT tồn tại khách quan. Nhưng LIKT muốn thực hiện được phải thông qua con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người... Người ta cũng không thể thực hiện được lợi ích của cá nhân nếu tách khỏi quan hệ sản xuất. Nhưng đồng thời, quan hệ sản xuất không tự động dẫn đến LIKT, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để thực hiện LIKT mà thôi... Theo tác giả Lê Xuân Tùng: "LIKT được thể hiện trong cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng... Lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính vật chất và được biểu hiện cuối cùng trong các giá trị sử dụng, dưới hình thức những tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tính vật chất, đó là tiêu chuẩn để phân biệt LIKT với các lợi ích khác như lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần, lợi ích tâm lý,... Tuy nhiên, cũng theo tác giả Lê Xuân Tùng: "Ở đâu có hoạt động sản xuất - kinh doanh, ở đó có LIKT. Do đó, các cơ quan hành chính, phục vụ, hoạt động không có tính chất kinh tế trực tiếp, nói chung không phải là chủ thể mang LIKT (ví dụ: trường học, bệnh viện, thư viện, nhà văn hoá, câu lạc bộ, các cơ quan hành chính, đoàn thể...). Trong cuốn "Bàn về LIKT'', các tác giả cho rằng, "LIKT là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất, nó không tuỳ thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con người… LIKT bao giờ cũng phản ánh một quan hệ sản xuất nhất định. Không có động cơ kinh tế nào đứng ngoài quan hệ sản xuất" [102, tr.62]. Như vậy, theo tác giả Vũ Hữu Ngoạn, LIKT có cơ sở từ nhu cầu kinh tế, LIKT mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, LIKT phụ thuộc vào quan hệ sản xuất nhất định, lợi ích mang bản chất xã hội. Tác giả Nguyễn Đức Bách đã phân biệt nhu cầu và LIKT với nhu cầu và lợi ích vật chất nói chung. Về nhu cầu và LIKT, tác giả cho rằng: "nhu cầu kinh tế biểu thị những quan hệ kinh tế trực tiếp của chủ thể với những điều kiện, những sản phẩm vật chất có tác dụng duy trì, phát triển sản xuất và đời sống của chủ thể trong một nền sản xuất xã hội nhất định; LIKT biểu thị quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trước những nhu cầu kinh tế được phản ánh trong ý thức của các chủ thể thành động cơ, mục đích chỉ đạo hành động nhằm thoả mãn một cách tối ưu các nhu cầu kinh tế của họ trong một nền sản xuất xã hội nhất định" [3, tr.7].
- 12 Trong Luận án Tiến sĩ Kinh tế LIKT trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (những hình thức kết hợp và phát triển chúng trong lĩnh vực kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam) năm 1984, tác giả Chu Văn Cấp đã đề cập đến các LIKT trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, "các LIKT là không đồng nhất và phức tạp, mỗi thành phần kinh tế có những LIKT tương ứng", như "lợi ích giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa", "lợi ích toàn dân, lợi ích tập thể và cá nhân người lao động", "lợi ích của các nhà tư bản tư nhân, của những người sản xuất nhỏ cá thể, tồn tại cùng với hệ thống các lợi ích xã hội chủ nghĩa của thời kỳ quá độ" [18, tr.9]. Tác giả Chu Văn Cấp cũng đưa ra nhiều hình thức thể hiện sự kết hợp các LIKT trong thời kỳ quá độ, trong đó nhấn mạnh tới các hình thức: "kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, tổ chức lao động và sản xuất, quản lý, kích thích vật chất" [15, tr.8]. Tác giả cũng chỉ ra rằng, chỉ có sự kết hợp hài hoà các LIKT mới tạo được động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội [61]. Trong tác phẩm này, ông đã tổng kết lại nhiều nghiên cứu khác nhau về lợi ích trong nước và ngoài nước. Ông đã đưa ra một cách tiếp cận mới về khái niệm lợi ích, theo đó: "Lợi ích chỉ có ý nghĩa là lợi ích trong các quan hệ lợi ích cụ thể. Ngoài quan hệ lợi ích nó không còn là lợi ích nữa mà chỉ là cái có lợi hay có ích đối với các chủ thể ở một hoàn cảnh nhất định. Trong trường hợp này, nó cũng giống như các đối tượng thoả mãn nhu cầu hoặc chính là các đối tượng thoả mãn nhu cầu". Tác giả cũng nêu ra khái niệm quan hệ LIKT như một khái niệm tiền đề để giải thích khái niệm lợi ích. Ông cho rằng: "Quan hệ lợi ích là mối quan hệ khách quan giữa các chủ thể có cùng nhu cầu và cùng đối tượng thoả mãn nhu cầu như nhau trong việc thực hiện nhu cầu ấy". Quan hệ lợi ích chỉ nảy sinh trong những hoàn cảnh xã hội nhất định và quan hệ lợi ích chỉ nảy sinh khi những nhu cầu trở nên không trực tiếp thực hiện được. Tác giả còn đi sâu phân tích các mối quan hệ biện chứng như: Quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; giữa lợi ích chung và lợi ích riêng; giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Các mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích tiêu biểu với tư cách là động lực của xã hội nêu trên đã được tác giả biện giải rất rành mạch và thuyết phục. Chẳng hạn, khi phân tích mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, ông khẳng định: "Xét đến cùng thì các lợi ích vật chất đóng vai trò
- 13 quyết định và là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các lợi ích tinh thần. Và thực hiện được các lợi ích tinh thần sẽ tạo ra những khả năng mới trong sự nảy sinh cũng như làm xuất hiện những phương thức thực hiện lợi ích vật chất mới". Về bản chất, vai trò của lợi ích chung và lợi ích riêng, tác giả đã đi sâu phân tích và chỉ rõ vai trò, động lực trực tiếp của lợi ích riêng trong việc thúc đẩy cá nhân hoạt động, nó chính là nhân tố quyết định con người tích cực tham gia hoạt động xã hội, vì vậy nó là cơ sở để thực hiện lợi ích chung. Trái lại, khi lợi ích chung của tất cả mọi thành viên trong xã hội được thực hiện sẽ đóng vai trò là điều kiện và định hướng cho lợi ích riêng, cho nên, chỉ khi tạo lập được mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích chung và lợi ích riêng mới có thể tạo ra sự phát triển của mỗi cá nhân và của cả xã hội. Tác giả cũng tổng kết lại quá trình sử dụng vai trò, động lực của lợi ích trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tác phẩm này là một công trình khoa học vừa mang tính lý luận quan trọng về lợi ích nói chung vừa nghiên cứu về LIKT nói riêng. Nguyễn Linh Khiếu (2002), với tác phẩm: Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [62]. Tác giả đi sâu phân tích cụ thể hơn về vai trò của LIKT trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Ông khẳng định: "Quan hệ kinh tế của một xã hội biểu hiện tập trung nhất của các quan hệ lợi ích". Trên cơ sở nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế thể hiện cụ thể các quan hệ LIKT, ông cho rằng: Trong nền kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay có những xu hướng vận động cụ thể như: Kinh tế nhà nước vận động theo xu hướng mà Đảng và Nhà nước ta mong muốn, đó là đảm bảo đúng "định hướng xã hội chủ nghĩa"; kinh tế tập thể vận động theo cơ chế thị trường; kinh tế tư bản nhà nước và tư bản tư nhân vận động theo xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa; kinh tế cá thể, tiểu chủ vận động theo hướng kinh tế tư nhân. Tương ứng với mỗi xu hướng vận động lại có một hệ thống LIKT riêng. Các xu hướng vận động này theo nhiều hướng khác nhau, với thực trạng kinh tế xã hội hiện nay, thấy rằng tất cả các xu hướng đều đưa nền kinh tế nước ta ngày một phát triển. Đó là một sự vận động theo hướng tổng lực các thành phần kinh tế, trong đó, các thành phần kinh tế vận động theo xu hướng xã hội chủ nghĩa đang đóng vai trò chủ đạo. Hai là, một số tác giả cũng đã nghiên cứu đến lợi ích của nông dân và những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ Vương Đình Cường [24] đã đề cập đến vai trò của nông dân, nông dân tập thể ở nước ta: là chủ thể chính trong phát triển nông nghiệp nước ta để cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống xã hội, cung cấp nguyên liệu, là thị trường tiêu
- 14 thụ hàng công nghiệp... Nông dân trong mọi thời kỳ cách mạng, họ là lực lượng chính tạo dựng sự ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn... Lợi ích của nông dân trong thời kỳ trước đổi mới và những năm đầu của đổi mới, bao gồm: thu nhập từ kinh tế tập thể - kinh tế hợp tác theo ngày công. Thu nhập từ kết quả ''vượt" khoán sản phẩm của hợp tác xã và thu nhập từ hoạt động của kinh tế hộ nông dân (sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn)... Tác giả Đặng Quang Định [38], cho rằng: (1) Ở nước ta hiện nay giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động nông nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp) làm ngành nghề chủ yếu. Đây là giai cấp có số lượng lớn nhất, chiếm khoảng 70% dân cư, tập trung chủ yếu ở nông thôn, năm 2006, cả nước có 10,46 triệu hộ làm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. (2) Những năm gần đây, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam có nhiều thay đổi to lớn. Thu nhập và đời sống nông dân ngày được nâng lên, tình trạng đói nghèo giảm đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao... nông dân ngày càng có đóng góp quan trọng vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. (3) Hiện nay, LIKT chủ yếu của nông dân nước ta gồm: Thứ 1, thu nhập từ sản xuất kinh doanh nông, lâm, thuỷ sản. Đây là nguồn thu nhập chủ yếu của nông dân hiện nay. Năm 2006, có 76% số hộ nông dân tham gia hoạt động tạo thu nhập từ nguồn này và số hộ có nguồn thu nhập chính từ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 79,15%. Thứ 2, thu nhập từ mua, bán, cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thứ 3, thu nhập từ sản xuất kinh doanh, công nghiệp, xây dựng. Năm 2006, số hộ có thu nhập chính từ nguồn này là 6,1%. Thứ 4, thu nhập từ dịch vụ. Năm 2006 số hộ có thu nhập chính từ nguồn này chiếm 11,25%. Thứ 5, thu nhập từ các nguồn khác. Năm 2006, có tới 3,7% số hộ nông dân có thu nhập từ nguồn này (sản xuất ngành nghề thủ công). Ngoài ra, một bộ phận nông dân cũng được trợ cấp từ nhà nước thông qua các chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách đào tạo lao động, chính sách an sinh xã hội... Các chính sách trên trở thành cách thức phân phối lại cho nông dân dưới dạng phúc lợi xã hội qua đó nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích trong xã hội.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
228 p | 627 | 164
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
203 p | 458 | 162
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Cơ cấu kinh tế của vùng trọng điểm Bắc Bộ trên quan điểm phát triển bền vững
0 p | 301 | 44
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Cơ sở khoa học hoàn thiện chính sách nhà nước đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) ở Việt Nam
0 p | 293 | 35
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô
145 p | 294 | 31
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của Thái Lan, Indonesia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
193 p | 104 | 27
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế khai thác mỏ dầu khí cận biên tại Việt Nam
178 p | 229 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam
217 p | 15 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò Nhà nước trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế biển ở thành phố Hải Phòng
229 p | 17 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội
216 p | 16 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 57 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú du lịch các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam
265 p | 17 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp khai thác than thuộc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
232 p | 14 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Bất bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế ở người cao tuổi
217 p | 6 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị: Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với liên kết du lịch - Nghiên cứu tại vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
224 p | 14 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động tại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
217 p | 9 | 4
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của đa dạng hóa xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm từ các nước đang phát triển
173 p | 14 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn