intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:170

87
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án khái quát, hệ thống hóa và làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về vốn và nguồn vốn, các vấn đề liên quan đến thuê tài chính và việc ra quyết định huy động vốn trên thị trường CTTC của doanh nghiệp; phân tích làm nổi bật bức tranh tổng thể về thực trạng thuê tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua khảo cứu thực tế; đánh giá kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Huy động vốn là một trong ba quyết định tài chính quan trọng nhất của doanh nghiệp. Để có thể ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn chính là yếu tố tiên quyết, điều kiện cần và đủ đối với doanh nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp, các phương thức cung ứng vốn và các hình thức huy động vốn cũng ra đời như một tất yếu khách quan. Trước những đòi hỏi mạnh mẽ của quá trình hội nhập, thuê tài chính được xem là một trong những sự lựa chọn thông minh của các giám đốc tài chính. Ở Việt Nam thời gian qua, mặc dù đã có nhiều phương thức cung ứng vốn cho doanh nghiệp, song hình thức vay vốn truyền thống gần như vẫn là sự lựa chọn duy nhất. Trong thời gian gần đây, hoạt động của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có sự suy giảm nhất định, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thực tế khách quan cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, và có thể nói khó khăn lớn nhất chính là thiếu vốn. Thiếu vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn dẫn đến thiếu năng lực tài chính, giảm hiệu quả kinh doanh. Cụ thể hơn, đó là khó tiếp cận với công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao và vươn ra những thị trường lớn. Bên cạnh thiếu vốn, đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhằm gia tăng lợi ích và chia sẻ rủi ro cũng chưa thực sự phát huy tính hiệu quả. Thời gian qua, việc tiếp cận và sử dụng hình thức thuê tài chính đã giúp tháo gỡ những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế. Tuy nhiên, thuê tài chính cũng như tất cả các hoạt động tài chính khác, đều tiềm ẩn những rủi ro và hạn chế nhất định. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, những vấn đề phức tạp nảy sinh như: mất cân đối cung cầu tín dụng, nợ xấu
  2. 2 hay rủi ro, những hạn chế về mặt pháp lý hay hoạt động của các chủ thể đã và đang đặt ra những bài toán khó cần có lời giải. Mặt khác, huy động vốn bằng thuê tài chính vẫn còn ở dạng tiềm năng, xét về cả quy mô cũng như tác động của nó tới nền kinh tế. Đối với nhiều doanh nghiệp, thuê tài chính vẫn còn là một khái niệm mới mẻ. Thời gian qua, bên cạnh những vấn đề thực tế, cũng đã có một số công trình, đề tài, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế nghiên cứu về vấn đề này. Các kết luận đưa ra có thể khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân và đề ra giải pháp giúp ổn định và phát triển thị trường cho thuê tài chính, nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bằng thuê tài chính. Tuy nhiên, để các giải pháp có thể phát huy được tính khả thi, cần phải có sự định hướng và những điều kiện cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn trong việc phát triển các kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể giảm áp lực về vốn trong bối cảnh kinh tế hiện nay, tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, NCS đã quyết định chọn đề tài: “Đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu ngoài nước Liên quan đến nội dung của đề tài nghiên cứu, trên thế giới cũng đã có một số tác giả, tác phẩm đề cập đến vấn đề này. Tác giả Brian Coyle với tác phẩm “Leasing”(2001) và James S. Schallheim với tác phẩm “Leas or Buy? Principles for Sound Corporate Decision Making” (Financial Management Association Survey & Synthesis Series) (1994) đã xây dựng một hệ thống toàn diện để nghiên cứu, lựa chọn quyết định thuê hay mua tài sản, với trọng tâm là thuê và cho thuê máy móc thiết bị đối với các doanh nghiệp. Nội dung
  3. 3 tác phẩm bao trùm hầu hết tất cả các vấn đề cơ bản trong việc phân tích lợi ích về thuế, các tác động của kế toán, rủi ro... đến việc ra quyết định thuê hay mua tài sản. Trong bối cảnh các doanh nghiệp lớn hay nhỏ luôn phải đối mặt với những quyết định khó khăn trong việc thuê hay mua tài sản cố định, thì những tính toán tài chính cả từ phía bên đi thuê và bên cho thuê là hết sức cần thiết. Một trong những điểm nhấn của tác phẩm là việc tập trung phân tích các chỉ tiêu NPV hay IRR, so sánh giữa lợi ích và chi phí, dòng tiền thuê hay mua tài sản, từ đó làm căn cứ lựa chọn những yếu tố có sức cạnh tranh cao nhất. Điều đó đã thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và thực hành trong lĩnh vực thuê mua tài sản. Ngoài ra, tác phẩm“Leasing” của Brian Coyle còn dành một dung lượng nhất định để giải nghĩa các từ, thuật ngữ phức tạp về cho thuê, thuê tài sản, thuê tài chính và quan điểm của các bên cho thuê, bên đi thuê về vấn đề này. Tác giả Chris Boobyer với tác phẩm “Leasing & Asset Finance, Fourth Edition” (2003) được đánh giá như bản tóm tắt “đầy đủ tất cả mọi thứ” cần phải biết về CTTC và tài sản thuê tài chính trên toàn thế giới. Tác phẩm đề cập một cách toàn diện đến các vấn đề như bảo lãnh rủi ro, thuê qua biên giới, tài chính, luật cạnh tranh, hỗ trợ nhà nước, mua sắm, thuế, đánh giá thuê, kế toán (vốn hóa và hạch toán thu nhập cho thuê), việc xem xét các vấn đề trong mua bán công ty cho thuê và chứng khoán của châu Âu. Các tác giả đi vào nghiên cứu từng khía cạnh CTTC và thuê tài chính có tính chất toàn cầu, từ khung khổ pháp lý như Luật cạnh tranh trong Liên minh Châu Âu và Vương quốc Anh, khuôn khổ thị trường thuê mua, sự khác biệt và giá trị của các hợp đồng thuê, cho đến kỹ thuật phân tích lợi ích, thuế, ghi chép kế toán và trách nhiệm, sự đánh giá, thỏa thuận giữa các bên trong một giao dịch thuê tài chính. Nội dung của tác phẩm rất rộng, chính vì vậy chưa có sự tập trung nhất định đối với những vấn đề quan trọng nhất trong việc thiết lập một hợp đồng
  4. 4 thuê tài chính. Đây là điểm mạnh và cũng có thể là những hạn chế cơ bản của tác phẩm. Khác với “Leasing & Asset Finance, Fourth Edition” của Chris Boobyer, tác phẩm “Equipment Leasing Leveraged Leasing”(2013) của các tác giả Ian Shrank và Arnold G Gough Jr do lại đi sâu vào nghiên cứu, cung cấp cách nhìn trực diện vào nội dung thuê tài chính, cho thuê thiết bị với những hợp đồng lớn. Đối với các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, ngành công nghiệp này tăng trưởng rất mạnh với giá trị các giao dịch lên đến nhiều tỷ USD, luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các nhà đầu tư và doanh nghiệp. Các tác giả đã đi sâu vào phân tích những lợi thế, các vấn đề rủi ro thực tế khi ký kết một hợp đồng thuê thiết bị. Đặc biệt, với cách đánh giá, nhìn nhận bên cho thuê từ phía các doanh nghiệp đi thuê đã tạo nên cái nhìn toàn diện về thuê tài sản nói riêng và thuê tài chính nói chung. 2.2. Nghiên cứu trong nước Trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn 2008 – 2012, có nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam đã chuyển sang lựa chọn hình thức huy động vốn trên thị trường CTTC (đi thuê tài chính), và điều này được xem là một trong những biện pháp có hiệu quả. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cho rằng, thuê tài chính chưa dễ dàng đáp ứng được nhu cầu, mong muốn khi còn vướng một số rào cản nhất định. Xuất phát từ thực tế trên, thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến các nội dung xung quanh vấn đề này. Luận án “Những giải pháp phát triển và hoàn thiện tín dụng thuê mua ở Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường” (1997) của tác giả Phạm Huy Hùng đã vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu để làm rõ lý luận về tín dụng thuê mua và có sự so sánh, đối chiếu với các hình thức tín dụng khác. Luận án được nghiên cứu chỉ sau khoảng 1 năm khi hình thức thuê tài chính có mặt tại Việt Nam (1995), nên giá trị được thể hiện
  5. 5 rõ nét ở tính định hướng cho sự phát triển hình thức này. Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải sớm phát triển hình thức tài trợ thuê mua ở Việt Nam trong quá trình đổi mới nền kinh tế thị trường. Tác giả phân tích thực trạng của phương thức tài trợ này qua hoạt động của hệ thống NHTM, khẳng định vai trò to lớn của CTTC đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế Việt Nam. Với những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc tham khảo thực tế nước ngoài và trên cơ sở thực trạng ở Việt Nam, tác giả luận án đã đưa ra những giải pháp xây dựng thị trường thuê mua đủ sức cạnh tranh với các thị trường khác. Tại thời điểm nghiên cứu, có thể nhận thấy đây là một bản luận án có rất có giá trị bởi nó ra đời khi thị trường CTTC và hình thức thuê tài chính ở Việt Nam còn rất sơ khai. Tuy nhiên, cũng chính bởi điều đó nên luận án bị giới hạn ở chỗ chưa thể hiện được những vấn đề thực tiễn sinh động của thị trường dịch vụ này. Các giải pháp đưa ra mới chỉ mang tính định hướng cho sự phát triển, chưa đủ cơ sở để hoàn thiện, khi thuê tài chính mới chỉ xuất hiện lần đầu ở Việt Nam. Tác giả Đoàn Thanh Hà với luận án “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam” (2003) đã đề cập một cách có hệ thống sự hình thành và phát triển của CTTC tại Việt Nam. Qua luận án, có thể nhận biết rõ CTTC là loại hình tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê tài sản. Nội dung nghiên cứu của luận án cũng khẳng định CTTC là hình thức thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế, đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về việc nâng cao khả năng cạnh tranh về vốn là rất lớn, tác giả muốn nhấn mạnh khả năng phát triển của CTTC bằng các giải pháp tác động vào các công ty CTTC là chủ yếu. Đây chính là điều kiện cần và đủ để có thể thúc đẩy việc huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên tại thời điểm, này số lượng công ty CTTC ở Việt Nam còn rất ít,
  6. 6 các vấn đề thực trạng còn đơn giản, nên những giải pháp tác giả đưa ra cần có đầy đủ cơ sở hơn nữa mới có thể mang tính khả thi cao. Cũng với mục đích phát triển thị trường CTTC, tác giả Lê Thị Kim Nhung trong bản luận án “Hoàn thiện các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam” (2004) đã đóng góp thêm những luận cứ khoa học nhằm hệ thống hóa các lý luận cơ bản về thị trường CTTC. Thị trường CTTC đã có thực trạng khoảng 10 năm, thông qua xem xét các khía cạnh của thị trường như môi trường pháp lý, hoạt động của các chủ thể trên thị trường… tác giả đã nhấn mạnh những thành tựu và chỉ rõ những hạn chế của thị trường này. Một trong những hạn chế cơ bản được tác giả nêu bật trong luận án chính là hành lang pháp lý về CTTC chưa đồng bộ và chưa được thực hiện có hiệu quả. Luận án phân tích rất cụ thể những nguyên nhân của thành công, của hạn chế, đồng thời đưa ra những dự báo về xu hướng phát triển thị trường dịch vụ này trong tương lai. Do thị trường CTTC là một thị trường chứa đựng những mối quan hệ tài chính rất phức tạp, mặt khác CTTC vẫn đang là một khái niệm mới mẻ và cho đến thời điểm hiện tại chưa phát sinh quá nhiều những vấn đề hạn chế, nên các giải pháp tác giả đưa ra chủ yếu tập trung vào việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động này. Luận án “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam” (2003) của tác giả Bùi Hồng Đới tập trung đi sâu vào phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của các công ty CTTC ở Việt Nam. Đặc biệt, luận án đã nhấn mạnh các vấn đề như cơ cấu và xu hướng phát triển nguồn vốn, dư nợ cho thuê, kết quả tài chính. Bên cạnh việc khái quát những nội dung lý luận chung về CTTC và một số vấn đề khác có liên quan, điểm nổi bật của luận án được thể hiện ở việc đưa ra 9 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cơ bản và các nhân tố tác động, trong đó nhân tố lãi suất được tác giả đánh giá là có tác động mạnh nhất đến hiệu quả hoạt động của các công ty (lãi suất huy
  7. 7 động, lãi suất cho thuê). Đến thời điểm hiện tại, vì còn mang tính mới mẻ, nên hoạt động CTTC chưa có nhiều thực trạng phức tạp, chính vì vậy bản luận án có nhiều điểm tương đồng với luận án của các tác giả cùng khoảng thời gian đó như Đoàn Thanh Hà, Lê Thị Kim Nhung.. Luận án cũng đã đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện và một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty CTTC tại Việt Nam Phần lớn các công trình nghiên cứu trên tiếp cận theo hướng xem xét hoạt động cung ứng vốn từ phía các công ty CTTC, hoặc đánh giá thị trường CTTC thông qua hoạt động CTTC của các công ty là chủ yếu. Hơn nữa, không gian và thời gian nghiên cứu của các công trình này nằm trong những năm trước đây, từ đó đến nay đã có nhiều biến động trên thị trường CTTC ở Việt Nam. Bên cạnh những công trình khoa học được thể hiện dưới dạng luận án tiến sĩ, trong thời gian qua cũng có một số đề tài nghiên cứu khoa học các cấp có liên quan. Đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động cho thuê tài chính nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đổi mới và phát triển công nghệ” (2010) của tác giả Nguyễn Bích Ngọc có tính thực tiễn cao bởi nó được nghiên cứu vào thời điểm mà cả hai vấn đề: CTTC và đổi mới khoa học - công nghệ tại doanh nghiệp đều là hai vấn đề thời sự, mang tính cấp thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tác giả đã khẳng định xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ tới chính là xu thế kinh tế tri thức. Đẩy mạnh tiếp cận, áp dụng và làm chủ tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến là yếu tố mang tính then chốt, ảnh hưởng đến sự tồn vong và phát triển của doanh nghiệp. Qua việc xem xét cụ thể thực trạng vấn đề CTTC hỗ trợ phát triển công nghệ của các doanh nghiệp ở Việt Nam, tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ tích cực và hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp trong thời gian tới. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích nghiên cứu nên đề tài chỉ giới hạn ở một trong những
  8. 8 ưu điểm chính của CTTC, đó là giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, đổi mới và phát triển công nghệ. Tác giả Vũ Thị Hoa trong đề tài “Nâng cao khả năng huy động vốn bằng hình thức thuê tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam” (2011) đã làm rõ thêm lý luận về thuê tài chính và những hình thức huy động vốn bằng thuê tài chính đối với các doanh nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng huy động vốn bằng thuê tài chính của các doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV ở Việt Nam, nhóm tác giả đã đánh giá thực trạng dựa trên các mặt về số lượng, giá cả, thời gian, v.v.., từ đó chỉ ra những thành công và nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong việc huy động vốn từ thuê tài chính. Bên cạnh những mặt đạt được, việc đánh giá thực trạng của các tác giả chưa thực sự đầy đủ, đặc biệt khi nhấn mạnh về vấn đề rủi ro CTTC, hiện đang là thực trạng chủ yếu trên thị trường CTTC, có ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp khi sử dụng hình thức này. Các giải pháp nếu được phân tích có chiều sâu hơn (đặc biệt khi nhìn nhận từ góc độ đi thuê tài chính) thì sẽ có giá trị cao hơn đối với thực tiễn. Đề tài “Cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” (2013) do Trần Đức Trung chủ nhiệm cũng có nội dung nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề này. Đề tài phác họa bức tranh tổng thể về DNNVV và những tác động của CTTC đối với các DNNVV, chiếm tỷ trọng rất lớn, trên 90% các doanh nghiệp. Với cái nhìn tổng quan về CTTC đối với các DNNVV, đề tài đã làm rõ những khái niệm, vấn đề cơ bản về CTTC, DNNVV và phương thức cung ứng vốn cho các DNNVV từ loại hình dịch vụ này. Trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết phải huy động vốn từ thuê tài chính trên cơ sở nhìn nhận những hạn chế của DNNVV, những khó khăn của DNNVV khi huy động vốn từ các kênh truyền thống ở Việt Nam. Trong quá trình phân tích, đánh giá thực trạng, tác giả đã nhấn mạnh tới vấn đề rủi ro, hay cụ thể hơn là vấn đề nợ xấu trong hoạt động
  9. 9 CTTC của các công ty CTTC ỏ Việt Nam hiện nay. Qua đó nhận thấy rằng, việc quản lý tốt hoạt động CTTC nói chung cần sự kết hợp của rất nhiều đối tượng và các yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố vĩ mô từ phía Nhà nước và từ bản thân các công ty CTTC là chủ yếu. Ngoài những công trình khoa học, trong thời gian qua cũng đã có một số bài báo khoa học của các tác giả đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Điển hình như bài “Thị trường cho thuê tài chính Việt Nam trong quá trình hội nhập” của tác giả Trịnh Phan Lan đăng trên Tạp chí Tài chính (9/2010); bài báo “Quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính” của tác giả Doãn Hồng Nhung đăng trên Tạp chí Tài chính doanh nghiệp (7/2012). Một số bài báo khác như “Phát triển thị trường cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa” của tác giả Nghiêm Thị Thà đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán (2/2014) hay bài báo “Cho thuê tài chính - Không chỉ là bánh ngọt” của tác giả Đông Hải đăng trên tạp chí Đầu tư chứng khoán... cũng đã đề cập, trao đổi xung quanh vấn đề này. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về vấn đề nợ xấu hay khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện, v.v.. các tác giả đều cho rằng: thị trường CTTC ở Việt Nam đang có rất nhiều tiềm năng để phát triển mạnh mẽ trong tương lai, từ đó tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng thuê tài chính. Thời gian qua, ở Việt Nam cũng có một số buổi tọa đàm, hội thảo khoa học chuyên sâu có liên quan đến nội dung đề tài luận án mà NCS tiếp cận được. Buổi tọa đàm "Giải đáp pháp luật về thu hồi tài sản cho thuê tài chính" ngày 07/06/2011 do Ban quản lý Chương trình 585 – Bộ Tư pháp phối hợp với Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam và các cơ quan có liên quan tổ chức. Trong buổi tọa đàm, các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CTTC và các doanh nghiệp hoạt động CTTC thảo luận về những vướng mắc pháp lý trong
  10. 10 hoạt động CTTC, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Đồng thời, các kết luận được đưa ra cũng làm cơ sở cho công tác biên soạn Dự thảo văn bản thay thế Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-NHNN-BCA-BTP hướng dẫn “Thu hồi và xử lý tài sản CTTC của công ty CTTC”. Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Rountable Discussino on Vietnam Leasing Industry” do IFC (International Finance Corporation) kết hợp với các chuyên gia đầu ngành về CTTC đến từ Mỹ và Thụy Sỹ đã được tổ chức ngày 25/06/2013 tại Hà Nội. Hội thảo đề cập đến những hạn chế, thực trạng của thị trường CTTC, đặc biệt là vấn đề về năng lực tài chính của các doanh nghiệp, vấn đề quản lý thu hồi tài sản thuê tài chính, khung pháp lý, v.v... Các vấn đề được đưa ra đánh giá, làm cơ sở đề xuất cho các giải pháp. Đặc biệt, những kinh nghiệm được chia sẻ từ các chuyên gia ngành CTTC đến từ Mỹ và Châu Âu đã đem lại những gợi mở nhất định về việc ổn định thị trường CTTC tại Việt Nam. Hội thảo cũng tập trung đóng góp cho dự thảo Nghị định mới của Chính phủ về hoạt động CTTC dự định sẽ ban hành đầu năm 2014. Hội thảo có tính mở khi những giải pháp mới chủ yếu tập trung vào hoàn thiện hành lang pháp lý về CTTC tại Việt Nam. Thông qua các công trình, các tài liệu nghiên cứu dưới hình thức luận án, đề tài khoa học hay bài báo... (gọi chung là công trình) của các tác giả và các buổi hội thảo khoa học mà NCS tiếp cận được cho thấy: Thứ nhất, nhìn chung các công trình đều tập trung đề cập, nghiên cứu các vấn đề xung quanh nội dung về CTTC ở Việt Nam với những mức độ khác nhau. Có công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quá trình chuyển đổi nền kinh tế với tín dụng thuê mua ở giai đoạn đầu du nhập vào Việt Nam, có công trình lại xác định trọng tâm về hoàn thiện các giải pháp phát triển
  11. 11 phương thức CTTC. Một số công trình tập trung nghiên cứu những tác động của CTTC đối với sự phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp hay tập trung xem xét tại một số doanh nghiệp cụ thể. Thứ hai, những kết quả nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn của các công trình đã trình bày như trên là những tư liệu để NCS có thể xem xét, chọn lọc, vận dụng ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, qua nghiên cứu kỹ nội dung của các công trình khoa học, NCS nhận thấy phần lớn các công trình mới chỉ nhìn nhận trên góc độ cung ứng vốn, cụ thể là ở góc độ cho thuê. Đối chiếu các vấn đề trên, với phạm vi không gian và thời gian có sự khác biệt so với các công trình nghiên cứu trước, luận án của NCS có định hướng đi sâu vào nghiên cứu tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam trên thị trường CTTC, tức là xem xét trên góc độ đi thuê tài chính và các vấn đề có liên quan là chủ yếu. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có luận án nào nghiên cứu về huy động vốn bằng thuê tài chính. Như vậy, có thể khẳng định luận án của NCS thực hiện không trùng lặp với các công trình nghiên cứu nào cả về nội dung, không gian và thời gian nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu - Khái quát, hệ thống hóa và làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về vốn và nguồn vốn, các vấn đề liên quan đến thuê tài chính và việc ra quyết định huy động vốn trên thị trường CTTC của doanh nghiệp. - Phân tích làm nổi bật bức tranh tổng thể về thực trạng thuê tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua khảo cứu thực tế. Đánh giá kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. - Khẳng định sự cần thiết khách quan phải huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp. Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
  12. 12 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận án xác định đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các vấn đề về thuê tài chính đối với doanh nghiệp Việt Nam, trên cả góc độ lý luận và thực tiễn. - Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào các doanh nghiệp đi thuê tài chính ở Việt Nam; nghiên cứu đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp về tình hình huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp. Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở tổng hợp, phân tích các số liệu, tư liệu từ năm 2008 trở lại đây. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về mặt lý luận: Góp phần hệ thống hóa, bổ sung thêm những vấn đề cơ bản về thuê tài chính và quyết định huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp. - Về mặt thực tiễn: Góp phần phân tích, đánh giá đầy đủ thực trạng vấn đề thuê tài chính ở Việt Nam, đề xuất những giải pháp có tính khả thi trong điều kiện thực tế. Sau khi được hoàn thiện, luận án sẽ là tài liệu quan trọng giúp các đối tượng như các nhà quản lý vĩ mô, vi mô vận dụng để đưa ra những nhận định, quyết định kịp thời, hợp lý trong hoạt động kinh doanh, trong điều hành kinh tế, đặc biệt là quyết định thuê tài chính. Đồng thời có thể giúp các doanh nghiệp CTTC xem xét, bổ sung những hạn chế trong công tác quản lý hoạt động như hiện nay. Bên cạnh đó, luận án còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các đối tượng quan tâm khác. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án cũng được nghiên cứu dựa trên các quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp, thị trường tài chính nói riêng và CTTC nói chung.
  13. 13 Luận án còn sử dụng phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp từ các cuộc điều tra, khảo sát, từ nguồn thông tin, số liệu đáng tin cậy của các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước; so sánh, phân tích, tổng hợp thống kê nhằm nhận diện, mô tả thực trạng, đánh giá nguyên nhân, kết quả trong hoạt động thuê tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 7. Giới thiệu bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vốn và huy động vốn của doanh nghiệp trên thị trường CTTC. Chương 2: Thực trạng huy động vốn trên thị trường CTTC của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường CTTC đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
  14. 14 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. VỐN VÀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 1.1.1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp Đứng trên phương diện lý luận, có nhiều quan niệm khác nhau về vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để diễn đạt một cách khái quát và đơn giản thì: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được doanh nghiệp huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích gia tăng giá trị cho chủ sở hữu”. Vốn kinh doanh được coi là yêu cầu, điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành các hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải ứng ra một lượng vốn nhất định phù hợp với quy mô, điều kiện kinh doanh cụ thể. Từ đó, các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh như: sức lao động, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu sẽ được hình thành. Việc huy động vốn đảm bảo phục vụ nhu cầu kinh doanh, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp là một trong những chính sách và nhiệm vụ quan trọng luôn được các nhà quản trị đặc biệt chú ý. Trong hoạt động của doanh nghiệp, vốn kinh doanh được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau; thường xuyên vận động, chuyển hóa từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và phi hiện vật, rồi cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Sự tuần hoàn, chu chuyển này có tính thường xuyên, liên
  15. 15 tục, không ngừng, tạo nên các chu kỳ nhất định. Có thể nói, hình thái tiền tệ được hiểu là mặt giá trị của các loại tài sản được hình thành từ vốn, đây là hình thái cơ bản. Chính vì vậy, nếu xét ở góc độ tài chính doanh nghiệp, nhiều quan điểm đã khẳng định, quản trị tài chính doanh nghiệp thực chất chính là quản trị dòng tiền của nó. Nói đến vốn kinh doanh, chúng ta thường nghĩ ngay đến tiền tệ. Thực chất, tiền chỉ được coi là vốn kinh doanh khi nó được tích lũy một lượng nhất định, đồng thời gắn với doanh nghiệp và tham gia vào hoạt động kinh doanh với mục đích gia tăng giá trị cho các chủ sở hữu. Vốn kinh doanh như huyết mạch lưu thông giúp cho “cơ thể” doanh nghiệp có thể vận hành một cách uyển chuyển, nhịp nhàng. Cùng với các chức năng cơ bản như hoạt động, điều chỉnh, bảo vệ... , vốn kinh doanh còn thể hiện những vai trò cụ thể như: - Là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh. - Tạo điều kiện để các hoạt động của doanh nghiệp diễn ra liên tục, có hiệu quả. - Giúp doanh nghiệp khẳng định vị thế và thương hiệu, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Là công cụ phản ánh, đánh giá sự vận động của tài sản và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Có nhiều cách phân loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, tuy nhiên chúng ta thường phân chia và tiếp cận hai hình thức cơ bản, đó là vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định là bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Đó chính là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng, trang bị, hình thành nên các TSCĐ hữu hình như: máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công nghệ... và các
  16. 16 TSCĐ vô hình như: bản quyền, thương hiệu, công trình nghiên cứu... cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, bên cạnh đó còn ảnh hưởng rất lớn đến trình độ kỹ thuật công nghệ, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn cố định chu chuyển dần dần từng phần giá trị trong nhiều chu kỳ kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được TSCĐ về mặt giá trị. Sự chu chuyển của vốn cố định chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của TSCĐ. Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và chỉ hoàn thành một vòng chu chuyển khi đã được thu hồi đủ tiền khấu hao tài sản cố định. Do giữ vị trí then chốt và có đặc điểm vận động tuân theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Vốn lưu động là số vốn ứng ra để hình thành nên các tài sản lưu động như nguyên, nhiên, vật liệu, công cụ, dụng cụ, thành phẩm, sản phẩm dở dang, hàng hóa… nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện trong quá trình kinh doanh, luân chuyển toàn bộ giá trị trong một lần và được thu hồi toàn bộ, hoàn thành một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp cần phải có đủ vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau của vốn lưu động, khiến cho các hình thái có được mức độ hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho sự chuyển hóa hình thái của vốn được thuận lợi, góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, tăng hiệu suất sử dụng vốn lưu động và
  17. 17 ngược lại. Ngoài ra, vốn lưu động còn là công cụ phản ánh quá trình vận động của vật tư, đánh giá công tác tổ chức, quản lý, sử dụng vật tư, thể hiện ở số lượng vật tư, hàng hóa sử dụng ở các khâu kinh doanh nhiều hay ít, tiết kiệm hay lãng phí, v.v... Từ đó có thể kiểm tra, đánh giá kịp thời các hoạt động mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Như vậy, vốn kinh doanh luôn khẳng định được vị trí trọng yếu trong hoạt động của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là yêu cầu sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vốn kinh doanh cũng như những đặc điểm, chức năng, vai trò của vốn sẽ giúp nhà quản trị có thể xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho doanh nghiệp. Đồng thời, nhà quản trị cũng có thể lựa chọn và hướng tới một cơ cấu vốn tối ưu, vừa đảm bảo nhu cầu, an ninh tài chính nhưng lại tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận – mục tiêu quan trọng làm tăng giá trị của vốn cũng như của doanh nghiệp. 1.1.2. Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp Quy luật cung - cầu là một trong những quy luật cơ bản nhất của kinh tế học. Thực tiễn đã cho thấy tính đúng đắn của quy luật này trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong sự cạnh tranh trên thị trường và phạm vi cả nền kinh tế. Vốn kinh doanh là hàng hóa, điều này đã được khẳng định. Chính vì vậy, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đã đảm bảo cho tính khách quan về sự ra đời và đa dạng hóa của các loại nguồn vốn (nguồn tài trợ cho doanh nghiệp). Để có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, một lượng vốn cần và đủ luôn là những đòi hỏi cấp bách đặt ra đối với hầu hết các doanh nghiệp. Để có thể biến ý tưởng và kế hoạch, dự định kinh doanh thành hiện thực, doanh nghiệp cần phải huy động nguồn lực tài chính
  18. 18 và tổ chức tốt nguồn lực đó. Sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp với quy mô ngày càng lớn cũng đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô về vốn kinh doanh và đa dạng hóa các nguồn tài trợ. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được coi là những bộ phận, yếu tố chứa đựng vốn, có thể đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp khi các nhà quản trị sử dụng những phương thức phù hợp để huy động. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng, sự đa dạng hóa về cả hình thức nguồn vốn lẫn phương thức huy động vốn đã giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động trong việc lựa chọn các nguồn vốn thích hợp. Để có thể tổ chức và huy động vốn một cách thích hợp và có hiệu quả, cần có sự phân loại cụ thể các nguồn vốn, từ đó tùy thuộc đặc điểm, khả năng, điều kiện của doanh nghiệp mà xác định cơ cấu vốn và nguồn tài trợ phù hợp. Việc tìm và lựa chọn nguồn tài trợ cho doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn ở tính đặc trưng của các nguồn vốn. Dựa vào các tiêu thức nhất định có thể phân chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành nhiều loại khác nhau, cụ thể: - Theo quan hệ sở hữu về vốn: Theo cách phân loại này nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu: Khi đã được huy động, đó là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn từ ngân sách nhà nước, vốn góp ban đầu, vốn từ lợi nhuận không chia, vốn từ phát hành cổ phiếu... Nợ phải trả: Là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như: ngân hàng, nhà cung cấp, công nhân viên, các tổ chức kinh tế và cá nhân khác, v.v...
  19. 19 Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và hợp lý, doanh nghiệp biết được khả năng của mình trong việc huy động vốn là cao hay thấp. Doanh nghiệp phải kết hợp hài hòa hai nguồn vốn trên để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động, cũng như quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế và tình hình thực tế tại doanh nghiệp. - Theo thời gian huy động và sử dụng vốn: Theo cách phân loại này nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. Nguồn vốn thường xuyên: Đây là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn tạm thời: Là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng yêu cầu có tính chất tạm thời phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác. Việc phân loại nguồn vốn theo cách này sẽ giúp cho các nhà quản lý có điều kiện thuận lợi trong việc huy động vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn kinh doanh và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Hơn nữa cách phân loại này còn giúp các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về cách lựa chọn nguồn vốn và quy mô vốn thích hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
  20. 20 - Theo phạm vi huy động vốn: Với cách phân loại này nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành: Nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp tạo ra, thường bao gồm: lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, khoản khấu hao tài sản cố định, tiền thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản... Cụ thể: Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ các tổ chức, cá nhân, các định chế tài chính không thuộc doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của đơn vị mình. Nguồn vốn này bao gồm: nguồn vốn liên doanh, liên kết, nguồn vốn vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, tín dụng thương mại của nhà cung cấp, thuê tài sản, phát hành chứng khoán, v.v.. Đối với mỗi nguồn vốn, hình thức huy động vốn đều có những điểm lợi và bất lợi nhất định. Nhà quản trị doanh nghiệp cần phải lựa chọn sao cho hiệu quả kinh tế mang lại là lớn nhất, chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Doanh nghiệp cần nhận thấy ưu điểm lớn của việc huy động vốn từ bên ngoài là tạo ra một cơ cấu tổ chức linh hoạt hơn trong việc cân đối, sử dụng vốn. Sử dụng đòn bẩy tài chính để khuếch đại lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Quyết định nguồn vốn là một trong ba quyết định chủ yếu của quản trị tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, nhận thức rõ những mặt ưu và nhược điểm của từng nguồn vốn, để có thể vận dụng vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, đồng thời đảm bảo nguyên tắc cân bằng tài chính và kích thích hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở nghiên cứu nguồn vốn kinh doanh, cho thấy: một mặt các doanh nghiệp cần tăng cường tổ chức, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2