intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Sự ưa thích rủi ro, nhận thức, hành vi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và sức khỏe của người trồng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long

Chia sẻ: Bình Bình | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:200

29
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tìm hiểu tác động của thuốc bảo vệ thực vật đến chi phí sức khỏe người tiếp xúc và ứng dụng của hàm chi phí sức khỏe; thực trạng sản xuất lúa và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại đồng bằng Sông Cửu Long.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Sự ưa thích rủi ro, nhận thức, hành vi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và sức khỏe của người trồng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ­­­­­­­­­­­­­­ SỬ THỊ THU HẰNG SỰ ƯA THÍCH RỦI RO, NHẬN  THỨC, HÀNH VI SỬ DỤNG THUỐC  BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ SỨC KHỎE  CỦA NGƯỜI TRỒNG LÚA Ở ĐỒNG  BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
  2. TP Hồ Chí Minh, Năm 2021
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH ­­­­­­­­­­­­­­ SỬ THỊ THU HẰNG SỰ ƯA THÍCH RỦI RO, NHẬN  THỨC, HÀNH VI SỬ DỤNG THUỐC  BẢO VỆ THỰC VẬT VÀ SỨC KHỎE  CỦA NGƯỜI TRỒNG LÚA Ở ĐỒNG  BẰNG SÔNG CỬU LONG CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN MàSỐ: 9310105 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS TRẦN TIẾN KHAI
  4. 2.TS LÊ THANH LOAN TP Hồ Chí Minh, Năm 2021
  5. 5 LỜI CAM ĐOAN Đề  tài nghiên cứu này do chính tác giả  thực hiện với sự  định hướng và  giúp đỡ  của giáo viên hướng dẫn. Luận án sử  dụng một phần dữ  liệu từ  đề  tài  nghiên cứu khoa học cấp bộ Mã số đề tài B2018­KSA­18, năm 2018­2020 có kinh   phí nghiên cứu do Bộ Giáo dục và Đào tạo và trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí  Minh tài trợ. Tác giả là thư ký đề tài, có tham gia đầy đủ các hoạt động khảo sát  và phân tích số liệu.  Các thông tin và dữ liệu tham khảo khác đều được trích dẫn và ghi nguồn   cụ thể trong danh mục tài liệu tham khảo.. Người cam đoan Sử Thị Thu Hằng
  6. 6 .MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan.............................................................................................................i Mục lục....................................................................................................................ii Danh mục các chữ viết tắt.....................................................................................vii Danh mục các Bảng..............................................................................................viii Danh mục các hình, biểu đồ.....................................................................................x Tóm tắt luận án.......................................................................................................xi
  7. 7 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVTV Bảo vệ thực vật ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long GRDP Tổng sản phẩm quốc nội của tỉnh IPM Integrated Pests Management ­ Quản lý dịch hại tổng hợp NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn TCTK Tổng cục thống kê UBND Ủy ban nhân dân
  8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG
  9. 9 DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
  10. 10 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIÊU ĐỀ: Sự   ưa thích rủi ro, nhận thức, hành vi sử  dụng thuốc   Bảo vệ  thực vật và sức khỏe của người trồng lúa  ở  Đồng bằng Sông  Cửu Long TÓM TẮT: Luận án thực hiện  ba mục tiêu nghiên cứu, đầu tiên, đo lường sự   ưa  thích  rủi   ro  bằng  phương  pháp  danh   sách  giá   tổng   hợp   (multiple   price   list   ­MLP), phương pháp này được thực hiện bằng việc thiết kế trò chơi  xổ số, đo  lường nhận thức về rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV bằng danh mục các câu   hỏi. Kế tiếp, luận án phân tích tác động của sự ưa thích rủi ro và nhận thức về  rủi ro đến lượng thuốc BVTV sử dụng bằng hồi quy OLS. Cuối cùng, luận án  nghiên cứu hành vi sử  dụng thuốc BVTV của các hộ  nông dân và  ước lượng  tác động của lượng thuốc BVTV sử  dụng đến chi phí sức khỏe của người   nông dân bằng phương pháp hồi quy Tobit. Kết quả cho thấy nông dân là những người không ưa thích rủi ro, và họ  có nhận thức khá tốt về những rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV.  Những người  không  ưa thích rủi ro có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV nhiều hơn, những   người có nhận thức về  rủi ro khi sử  dụng thuốc BVTV  cao có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV ít càng thấp. Tăng giá thuốc BVTV sẽ làm cho người nông  dân sử dụng thuốc BVTV ít hơn. Thông tin từ đại lý bán thuốc là nguồn người  nông dân tiếp cận nhiều nhất và đáng tin cậy nhất.  Nghiên cứu cũng cho thấy  thuốc trừ  sâu  ảnh hưởng mạnh nhất đến chi phí sức khỏe, kế  đến là thuốc   bệnh và cuối cùng là thuốc khác. Việc sử  dụng các biện pháp bảo vệ  cũng  giúp người nông dân giảm chi phí sức khỏe. Do đó để  sử  dụng thuốc BVTV  hiệu quả, giảm ảnh hưởng đến chi phí sức khỏe thì cần quản lý các đại lý bán  thuốc, tác động đến giá thuốc BVTV, nâng cao nhận thức của người nông dân 
  11. 11 trong việc sử  dụng thuốc và các biện pháp bảo vệ  thông qua các buổi tập  huấn. Từ khóa: Sự ưa thích rủi ro, nhận thức, thuốc BVTV, sức khỏe, Đồng  bằng sông Cửu Long DISSERTATION  TITLE:   Risk   preference,   perception,   behavior   of  pesticides and health of rice farmers in the Mekong Delta ABSTRACT: This  dissertation  measures  risk  preference  by  multiple  price  list  –MLP  method, namely lottery games, measures the risk perceptions in using pesticides  by   a   list   of   questions.   Next,   the  dissertation  analyzes   the   impact   of   risk  preference  and  risk  perceptions  on  the  amount  of  pesticide  use  through  OLS  regression.  Finally,   the  dissertation  studies  on   farmers'   behaviour   in   using  pesticide and estimates the impact of pesticide use on farmers' health costs using  Tobit regression. Results show that farmers are risk­averse, and they are quite aware of the  risks in using pesticides. Risk­averse people tend to use more pesticides, and the  people with high  risk perceptions  in using pesticide tend to use less pesticides.  Increasing pesticide  prices  will make  farmers  use  less  pesticides.  Information  from pesticides salers  is the most accessible and most reliable source of farmers.  Research also shows that  Insecticides  have the strongest impact on health costs,  followed by fungicides and finally, other pesticides. Using protective measures  also helps the farmer reduce health costs. Therefore, in order to use pesticides  effectively,   reduce   the   impact   on   health   costs,   it   is   necessary   to   manage  pesticides salers, affect the price of pesticides, raise farmers' awareness in using  pesticides and protective measures through training sessions.
  12. 12 Key words: Risk preference, risk perception, pesticides, health, Mekong  Delta
  13. 13 CHƯƠNG 1.        GIỚI THIỆU 1.1.     Bối cảnh nghiên cứu  Sản xuất lúa tại Việt Nam và Đồng Bằng Sông Cửu Long Lúa là cây trồng đóng vai trò chủ đạo trong nông nghiệp tại Việt Nam.  Diện tích canh tác lúa luôn chiếm tỷ  trọng lớn nhất trong tổng diện tích cây  trồng hàng năm. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (TCTK) năm 2018, từ  năm 2013 đến năm 2018, diện tích trồng lúa luôn chiếm trên 65% tổng diện   tích cây trồng hàng năm. Sản lượng lúa của Việt Nam h ằng năm đều tăng, tuy  nhiên mức tăng không cao. Năm 2012, sản lượng lúa là 43,74 triệu tấn, đến  năm 2018 đạt gần 44 triệu tấn (TCTK, 2018). Năm 2017, sản lượng xuất khẩu   gạo của Việt Nam là 5,887 triệu tấn, tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,661 tỷ USD,  tăng 22,4% so với năm 2016 (Bộ  NN&PTNT, 2017a), là nước có sản lượng  xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới, sau Thái Lan và Ấn Độ. ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất Việt Nam với 54% đến 55% tổng diện tích  trồng lúa và 56 đến 57% tổng sản lượng lúa của cả nước giai đoạn 2014­2019  (TCTK, 2020). Diện tích và sản lượng lúa của ĐBSCL có cùng xu hướng diễn   biến của cả nước. Mặc dù diện tích và sản lượng lúa của ĐBSCL giảm bình  quân hàng năm lần lượt là 0,86% và 0,77% giai đoạn 2014­2019; tuy nhiên,  năng suất lúa tăng bình quân hằng năm 0,09% trong cùng giai đoạn (T CTK,  2020). Năm 2019, diện tích gieo trồng của ĐBSCL là 4.070 ngàn ha với sản   lượng 24,28 triệu tấn. Bên cạnh đó, ĐBSCL cũng là vùng có sản lượng xuất khẩu gạo lớn nhất   cả nước. Năm 2017, xuất khẩu gạo của khu vực ĐBSCL đạt 5,5 triệu tấn, đạt  kim ngạch 2,49 tỷ  USD, chiếm hơn 93% trong tổng kim ngạch xuất gạo cả  nước (TCTK, 2018). Các lý do trên khẳng định vị  trí và tầm quan trọng của  ĐBSCL trong nền kinh tế  nông nghiệp của Việt Nam. Do đó, nghiên cứu về  việc canh tác cây lúa tại ĐBSCL không chỉ  có ý nghĩa lý luận, mà còn có ý  
  14. 14 nghĩa thực tiễn to lớn. Biểu đồ  1.1 và Biểu đồ  1.2 thể  hiện sự biến động về  diện tích trồng lúa cả năm và sản lượng lúa cả năm của các vùng.  Biểu đồ 1. Diện tích lúa cả năm phân chia theo vùng Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018 Biểu đồ 1. Sản lượng lúa cả năm phân theo vùng Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018 Thực trạng sử  dụng thuốc Bảo vệ thực vật tại Việt Nam và Đồng Bằng   Sông Cửu Long  Tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam Tại Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được sử dụng từ những  năm 40 của thế  kỷ  20 nhằm bảo vệ  cây trồng. Từ  năm 2013 đến năm 2015,  mỗi năm Việt Nam nhập và sử dụng từ 70.000 ­ 100.000 tấn, tăng gấp hơn 10   1 lần so vơi giai đoan tr ́ ̣ ươc năm 1985 ́  (Tổng cục Môi trường, 2015). Các loại  thuốc BVTV mà Việt Nam đang sử dụng có độ  độc cao, nhiều loại thuốc đã   lạc hậu (Tổng cục Môi trường, 2015). Các loại thuốc BVTV được sử dụng tại  Việt Nam bao gồm nhóm độc I (11,8­22%), nhóm độc II (40­58,8%), nhóm độc  III (11­30%), và nhóm độc IV (10­17%) (Nguyên Khôi, 2016). Hầu hết thuốc  BVTV sử dụng ở Việt Nam đều nhập khẩu từ nước ngoài, từ các nước: Trung  Quốc (số  lượng lớn nhất), Đức, Singapore,  Ấn Độ, Thái Lan và một số  quốc  gia khác. Tình hình nhập khẩu các loại thuốc BVTV được thể hiện qua Bảng   1.1. 1 Trước 1985, lượng hoa chât BVTV s ́ ́ ử dung hang năm khoang 6.500 – 9.000 tân ̣ ̀ ̉ ́
  15. 15  Bảng 1. Nhập khẩu thuốc BVTV và nguyên liệu tại Việt Nam Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Thuốc BVTV và nguyên  748 768 786,3 776,2 1021,3 939,0 liệu (Triệu USD) % so với năm trước ­ 102,7 102,4 98,7 131,6 91,9 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2018 Số  liệu  Bảng 1.  cho thấy, từ  năm 2015 đến năm 2016, lượng thuốc  BVTV nhập khẩu giảm dần, đến năm 2017 tăng mạnh. Mặc dù đến năm 2018,  lượng thuốc BVTV có giảm xuống nhưng mức giảm không đáng kể, vẫn cao   hơn so với năm 2016. Như  vậy, việc sử dụng thuốc BVTV của Việt Nam có   xu hướng tăng. Việc sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam vẫn còn lạm dụng   thuốc BVTV rất nhiều. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông   thôn, thuốc BVTV của Việt Nam chủ  yếu nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong   tháng 11/2017, giá trị thuốc BVTV và nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc là  461,443 ngàn USD, chiếm 52,6% trong tổng lượng thuốc nhập khẩu tháng 11  và tăng 48,9% so với cùng kỳ năm 2016 (Bộ NN&PTNT, 2017).  Thông tư 03/2018/TT­BNNPTNT quy định danh mục thuốc bảo vệ thực  vật được phép  sử dụng trong nông nghiệp tại Việt Nam gồm 1.736 hoạt chất   (Bộ  NN&PTNT, 2018). Tuy nhiên, các nghiên cứu tại Việt Nam về  việc sử  dụng thuốc bảo vệ  thực vật cho thấy, việc sử  dụng thuốc BVTV tại Việt   Nam chưa đúng phương pháp, chưa có sự  quản lý chặt chẽ  của chính quyền   địa phương (Trần Thị  Ngọc Lan và cộng sự, 2014; Trần Thị  Ngọc Lan, 2016;   Phan Văn Toàn, 2013).  Có tới 80%  thuốc  BVTV đang được sử  dụng không  đúng cách, không cần thiết và rất lãng phí (Nguyên Khôi, 2016). Do đó,   cần  thiết phải hiểu được nhận thức cũng như hành vi của các nông dân trong việc   sử  dụng thuốc BVTV. Trên cơ  sở  đó đưa ra những giải pháp thích hợp để 
  16. 16 giảm thiểu tình trạng lạm dụng thuốc BVTV, dùng sai cách, quá liều như thực  trạng nêu trên. Tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại Đồng Bằng Sông Cửu Long Tại ĐBSCL, thuốc BVTV được các nông dân sử  dụng  phổ  biến.  Tuy  nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Nông dân ít sử  dụng các thiết bị  bảo hộ khi phun thuốc, chủ yếu đeo khẩu trang và đội nón.   Các biện pháp bảo hộ khác khi tiếp xúc với thuốc BVTV cũng ít được sử dụng  (Phan Văn Toàn, 2013). Mặc dù nông dân nhận thức được tác hại của thuốc   BVTV, nhưng họ  vẫn không mặc quần áo bảo hộ  theo khuyến cáo của tổ  chức y tế thế giới (WHO). Lý do xuất phát từ  việc họ  cảm thấy không thoải  mái khi mặc đồ  bảo hộ  trong điều kiện khí hậu tại địa phương (Huỳnh Việt  Khải, 2014). Về tính độc của thuốc BVTV được sử dụng, nông dân ĐBSCL thường  sử  dụng các loại thuốc có độ  độc loại II và III (theo phân loại của WHO).  Thuốc BVTV không được sử dụng hợp lý về tần suất, thời gian, liều lượng và  không đảm bảo an toàn trong việc bảo quản. Ngoài ra, việc chất thải rắn và  lỏng từ quá trình sử dụng thuốc thường không được quản lý, xử  lý đúng cách   ở  đồng ruộng và  ở  nơi cất giữ. Điều này không chỉ  làm  ảnh hưởng đến sức  khỏe của người phun thuốc, mà còn  ảnh hưởng đến môi trường sống và các  loại động thực vật có lợi khác (Phan Văn Toàn, 2013). Hàng năm  ở  ĐBSCL, nông dân sử  dụng hàng ngàn tấn thuốc BVTV.  Trung bình, nông dân phun thuốc từ  5  đến 8 lần/vụ. Với lượng thuốc  đó,  lượng bao bì, vỏ  thuốc tương  ứng khoảng 4 đến 5kg/1ha. Tình trạng vứt bừa   bãi các chai lọ  đựng thuốc BVTV đã sử  dụng xuống kênh rạch, bờ  sông, bờ  ruộng, tạo nên tình trạng ô nhiễm môi trường (Quốc Trung, 2018). Sử  dụng   thuốc BVTV quá mức cần thiết cũng là một vấn đề. Theo thống kê, mỗi năm  tại ĐBSCL có khoảng 210 tấn thuốc diệt cỏ, 1.224 tấn thuốc trừ sâu, 4.245 tấn 
  17. 17 hoạt chất thuốc diệt nấm bị  lãng phí hoặc sử  dụng không hợp lí trong sản   xuất lúa (World Bank, 2017 trích trong Dương Đình Tường, 2018). Tình hình thực hiện IPM tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long Quản lý dịch hại tổng hợp (Integrated Pest Management – IPM) là biện  pháp cân nhắc một cách cẩn thận tất cả  các kỹ  thuật phòng trừ  dịch hại sẵn  có, phối hợp các biện pháp phù hợp để  giảm mật độ  dịch hại, chỉ  sử  dụng   thuốc BVTV khi quần thể dịch hại tới ngưỡng kinh tế nhằm giảm thiểu nguy   cơ  đến sức khỏe của người, động vật và môi trường (Cục bảo vệ  thực vật,   2016). Tại khu vực ĐBSCL, Bộ  Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đầu tư  3,04 triệu USD (tương đương 62,907 tỷ  đồng) từ  nguồn vốn vay của Ngân  hàng Thế  giới (WB) để  thực hiện Chương trình IPM trên cây lúa tại 7 tỉnh   trọng điểm sản xuất nông nghiệp ĐBSCL: An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang,   Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Thời gian thực hiện từ cuối thập   niên 1990 đến những năm 2000 (Minh Trí, 2013).  Mặc dù chương trình IPM được áp dụng từ lâu song chưa phát huy hết   hiệu   quả.   Trên   thực   tế,   thuốc   BVTV   vẫn   được   sử   dụng   rất   nhiều   (Cục  BVTV, 2016). Một cuộc  khảo sát nông dân và cửa hàng thuốc BVTV được  thực hiện tại 5 huyện trồng lúa thuộc tỉnh Đồng Tháp cho thấy, chỉ một phần   nhỏ  nông dân áp dụng IPM (84% báo cáo họ  không áp dụng), mặc dù đã qua  các lớp IPM từ những năm 1990, hầu hết nông dân phun thuốc khi không cần  thiết. Nông dân thường phun từ 7­10 lần/vụ, thường phun ngừa bệnh, hoặc khi   phát hiện sâu hại. Bên cạnh đó cách phun của hộ nông dân hiện nay không an  toàn và không hiệu quả, lượng thuốc phun vẫn cao hơn rất nhiều so với tiêu  chuẩn quốc tế (Cục BVTV, 2016). Khảo sát của Phan Văn Toàn (2013) đối với   các hộ  nông dân  ở  ĐBSCL cho thấy tỷ  lệ  hộ  nông nghiệp áp dụng IPM rất  thấp khoảng 15%. Điều này cho thấy việc áp dụng IPM chưa được người   nông dân chú trọng. Người nông dân ít áp dụng IPM do một số nguyên nhân: 
  18. 18 họ  không được tham gia các lớp IPM chính thức, rủi ro khi áp dụng kỹ  thuật   IPM lên thửa ruộng của mình khi không có sự  áp dụng IPM ở các thửa ruộng   xung quanh, sự phụ thuộc vào hóa chất do những tác động từ người bán thuốc  (Phan Văn Toàn, 2013). Bên cạnh đó, các chương trình IPM trước đây không  quan tâm nhiều đến nhận thức, hiểu biết của các hộ  nông dân, nên mức độ  hiểu biết về thuốc BVTV của các hộ nông dân vẫn còn thấp. Đây cũng có thể  là nguyên nhân người nông dân không thực hiện IPM, vẫn sử  dụng thuốc   BVTV một cách không an toàn và không hiệu quả. Qua phân tích thực trạng về sử dụng thuốc BVTV và tình hình áp dụng  IPM tại ĐBSCL cho thấy nông dân vẫn sử dụng thuốc BVTV quá nhiều, lãng  phí không an toàn và không hiệu quả, không chú trọng thực hiện IPM. Điều   này  gây  ra   một   số   vấn   đề   về   sức   khỏe   cho  những   người   sử   dụng   thuốc   BVTV. Do đó việc nghiên cứu về sự tác động sự ưa thích rủi ro và nhận thức   về rủi ro đến lượng thuốc BVTV và tác động của lượng thuốc BVTV đến chi  phí sức khỏe là một điều rất cần thiết. Sự ưa thích rủi ro và nhận thức về rủi ro khi sử dụng thuốc bảo vệ thực   vật của người nông dân Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều cho thấy, sự ưa thích rủi   ro có thể ảnh hưởng đến các quyết định của con người, kể cả trong lĩnh vực   nông nghiệp. Sự ưa thích rủi ro ảnh hưởng đến việc quyết định của nông dân  về giống cây trồng được sử dụng (Nguyễn Thành Phú, 2016; Liu, 2013), lượng  phân bón sử dụng (Khor và cộng sự, 2018) hay là lượng thuốc BVTV sử dụng  (Liu và Huang, 2013). Đối với việc sử dụng thuốc BVTV, những người không  ưa thích rủi ro có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV nhiều hơn. Họ  cho rằng,  
  19. 19 nếu không sử dụng thuốc BVTV sẽ gây  ảnh hưởng đến năng suất cây trồng,  ảnh hưởng đến thu nhập của họ (Liu và Huang, 2013).  Như vậy, khi biết được sự ưa thích rủi ro của các hộ nông dân, chúng ta   có thể lý giải được hành vi sử dụng thuốc BVTV của họ. Đây là yếu tố  quan   trọng trong việc nghiên cứu hành vi của các hộ nông dân, giúp các nhà quản lý   hiểu được tại sao các hộ  nông dân lại có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV   nhiều hơn mức khuyến cáo. Tuy nhiên, nghiên cứu về  sự  ưa thích rủi ro chủ  yếu là các nghiên cứu  ở  nước ngoài, tại Việt Nam còn khá ít. Chưa có nhiều  nghiên cứu ảnh hưởng của sự ưa thích rủi ro đến lượng thuốc BVTV sử dụng  tại Việt Nam. Zhang  và cộng sự  (2016) cho rằng, nhận thức về  rủi ro sức khỏe của  người nông dân sẽ ảnh hưởng đến hành vi sử dụng thuốc BVTV của họ. Các  nghiên cứu của Huỳnh Việt Khải (2014), Jallow và cộng sự  (2017), Migheli   (2017) cũng cho thấy sự hiểu biết về các rủi ro, kiến thức của người nông dân   trong quá trình sử  dụng thuốc BVTV sẽ  tác động đến lượng thuốc BVTV  được sử dụng. Như vậy, tìm hiểu nhận thức của người nông dân về rủi ro khi   sử dụng thuốc BVTV đóng vai trò quan trọng trong trong việc lý giải hành vi   sử  dụng thuốc BVTV của họ. Bên cạnh đó, chúng ta có thể  tác động nhận  thức để thay đổi hành vi, giúp người nông dân sử dụng thuốc BVTV một cách   hợp lý và khoa học hơn. Sự ưa thích rủi ro là đặc điểm cá nhân của con người,  chúng ta không thể can thiệp để thay đổi nó. Nhưng nhận thức về rủi ro thì có  thể tác động vào để thay đổi nhận thức bằng nhiều biện pháp. Việc thay đổi  nhận thức về rủi ro và đặc điểm cá nhân đối với sự ưa thích rủi ro sẽ tác động   làm thay đổi lượng thuốc BVTV sử dụng. Xuất phát từ  lý do trên, việc nghiên cứu về sự   ưa thích rủi ro và nhận   thức rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long,   xem xét tác động của cả hai yếu tố này đến lượng thuốc BVTV sử dụng là rất  
  20. 20 quan trọng và cần thiết. Kết quả  nghiên cứu là cơ  sở  khoa học để  đưa ra   những giải pháp thích hợp, nhằm hạn chế  tối đa tình trạng sử  dụng thuốc   BVTV bất hợp lí, không đảm bảo an toàn tại khu vực này. Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật tới sức khỏe của người tiếp xúc  Thuốc BVTV có tác hại đối với môi trường sống và đối với sức khỏe  của người người tiếp xúc với thuốc. Về môi trường sinh thái, sử dụng thuốc  BVTV gây ô nhiễm đất, các hóa chất độc hại có thể  thẩm thấu vào trong đất  (Craven và Hoy, 2005). Hóa chất độc hại từ  thuốc BVTV gây hại đến đất,   thủy sản, thực vật, gây hại đến những động vật diệt sâu bệnh, làm cho sâu  bệnh phá hoại mạnh thêm (Wilson và Tisdell, 2001). Về con người, những hóa  chất độc hại trong thuốc BVTV có thể  gây  ảnh hưởng đến sức khỏe của   người tiếp xúc (Aubert và Enjolras, 2014). Độc tính của thuốc BVTV có thể  gây ảnh hưởng ngay sau khi tiếp xúc, hoặc sau một thời gian sau khi tiếp xúc.  Mức độ  tác hại đến sức khỏe phụ  thuộc vào độ  độc của thuốc BVTV. Có  những loại thuốc BVTV dù tiếp xúc một lượng nhỏ  cũng có thể  gây  ảnh  hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Thuốc bảo vệ thực vật không những ảnh  hưởng đến hệ  hô hấp, hệ  thần kinh, bề  mặt da, mà còn  ảnh hưởng đến hệ  tuần hoàn nếu nhiễm phải. Người trực tiếp phun thuốc dễ bị  ảnh hưởng sức   khỏe nhất do hít thở  phải thuốc BVTV phát tán khi phun thuốc hoặc do bám  dính trên bề mặt da (Phan Bích Ngân và Đinh Xuân Thắng, 2006) . Người phun  thuốc có những biểu hiện như: nhức đầu, buồn nôn và các vấn đề  về  da, tác  động đến hệ thần kinh, gan và thận (Qiao và cộng sự, 2012). Việc tiếp xúc với  thuốc BVTV có liên quan mật thiết với các bệnh ung thư như ung thư  phổi,  ung thư  tuyến tiền liệt, ung thư  trực tràng, ung thư  tuyến tụy (Alavanja và   Bonner, 2012). Theo điều tra của Cục Y tế dự phòng và môi trường Việt Nam,  hàng năm có trên 5.000 trường hợp nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật phải 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0