intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Luật học: Thi hành bản án, quyết định của toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Cẩm Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:170

47
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành án hành chính gồm bản chất, khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố tác động đến thi hành án hành chính; Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động thi hành án hành chính ở Việt Nam hiện nay; Xác định quan điểm và đề xuất những giải pháp đảm bảo hiệu quả thi hành án hành chính tại Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Luật học: Thi hành bản án, quyết định của toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 9380102 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG VĂN TÚ Hà Nội - 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Hoàng Văn Tú. Các số liệu, tư liệu sử dụng trong Luận án là trung thực, chính xác. Những kết quả khoa học của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả Luận án Nguyễn Thị Phương Hà
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................. 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài luận án ................................................... 8 1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu ............................................................................... 21 1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án .................................. 25 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ......................................................... 28 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ................................................................................................................ 28 2.2. Chủ thể, đối tượng, thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ..................................................................................................................... 39 2.3. Các yếu tố tác động đến thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ... 51 Chương 3: THỰC TRẠNG THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................ 57 3.1. Pháp luật thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................ 57 3.2. Hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................ 81 3.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay ...................................................................... 103 3.4. Đánh giá chung thực trạng thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay ................................................................................ 114 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM ............ 120 4.1. Quan điểm bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam ........................................................................................................ 120 4.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam ............................................................................................... 125 KẾT LUẬN................................................................................................................ 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .......................... 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 152
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân HVHC Hành vi hành chính QĐHC Quyết định hành chính TAND Toà án nhân dân TGGQKN Trung gian giải quyết khiếu nại THADS Thi hành án dân sự THAHC Thi hành án hành chính THAHS Thi hành án hình sự TTGQ Thủ tục giải quyết TTHC Tố tụng hành chính TTPBGDPL Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật UBND Uỷ ban nhân dân VAHC Vụ án hành chính VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Số lượng các VAHC đã thụ lý; giải quyết, xét xử từ năm 2010 đến năm 2018 của TAND các cấp ..................................................................................................... 82 Bảng 3.2. So sánh tình hình khởi kiện QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND và UBND các cấp tại Toà án với tình hình khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước ............. 83 Bảng 3.3. Kết quả THAHC từ năm 2012 đến năm 2016 ..................................................... 85 Bảng 3.4. Kết quả THAHC năm 2017 và năm 2018 ........................................................... 86 Bảng 3.5. Kết quả kiểm sát THAHC năm 2017 và năm 2018 ........................................... 102
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực luôn được xem là biểu hiện của nền công lý ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Bởi qua bản án, quyết định đó người dân nhận được lẽ phải, sự công bằng mà họ tìm kiếm và chờ đợi trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tại Việt Nam, bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (còn gọi là thi hành án) là một nguyên tắc hiến định và một yêu cầu quan trọng trong chủ trương cải cách nền tư pháp. Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hình sự (gọi là thi hành án hình sự (THAHS); thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án dân sự (gọi là thi hành án dân sự (THADS) và thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính (gọi là thi hành án hành chính (THAHC) hiện là ba lĩnh vực thi hành án cơ bản. Đối tượng của THADS là các quyết định dân sự mang tính chất tài sản và nhân thân. Trong THAHS, đối tượng thi hành án là hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Riêng đối tượng của THAHC là các quyết định liên quan đến các cơ quan nhà nước mà chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, vị trí, mối quan hệ giữa cơ quan THAHC với người phải THAHC; tính chủ động, tính hiện thực trong việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án là một vấn đề không dễ dàng giải quyết. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết (TTGQ) các vụ án hành chính (VAHC) năm 1996 là văn bản pháp lý đầu tiên đặt ra vấn đề THAHC. Sau đó, nội dung về THAHC được quy định cụ thể, đầy đủ hơn và bổ sung quyền hạn đôn đốc THAHC của Cơ quan THADS tại Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2010. Thực tiễn thi hành mặc dù đạt được những kết quả nhất định song cũng phát sinh khá nhiều khó khăn, vướng mắc từ chính cơ chế đôn đốc thi hành án. Hơn 5 năm sau, Luật TTHC năm 2015 được Quốc hội thông qua, cơ chế thi hành án được thay đổi, nâng tầm của cơ quan tư pháp bằng Quyết định buộc thi hành án của Tòa án đã xét xử sơ thẩm VAHC đó. Tuy nhiên, theo báo cáo của cơ quan quản lý thi hành án cho thấy, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án về VAHC đã được thi hành vẫn đạt thấp khi áp dụng những quy định mới của Luật TTHC năm 2015. Ý thức chấp hành án và việc thực hiện pháp luật trong THAHC của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân vẫn còn hạn chế. Người dân vẫn không “mặn mà” với việc khởi kiện VAHC dù các tranh chấp hành chính không ngừng tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó theo tác giả, cần phải kể đến những nguyên nhân sau: 1
  8. Thứ nhất, hành lang pháp lý về thi hành án nói chung và THAHC nói riêng chưa đầy đủ, chưa thống nhất, còn rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Hoạt động THAHC vẫn chưa được điều chỉnh bằng một Luật riêng biệt như THADS hay THAHS. Thứ hai, chất lượng xét xử các VAHC ở nhiều địa phương hiện chưa cao. Những phán quyết trong bản án, quyết định của Toà án còn nhiều mâu thuẫn hoặc thường có tính chung chung, gây khó khăn cho quá trình THAHC. Thứ ba, nhận thức pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật của các chủ thể có liên quan trong THAHC còn nhiều hạn chế. Đặc biệt khi chủ thể phải thi hành án là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước có xu hướng gia tăng. Thứ tư, thực tiễn áp dụng cơ chế đặc thù trong THAHC chưa triệt để. Do đó, dù cũng theo xu hướng chung của đa số các quốc gia trên thế giới khi ưu tiên “tinh thần tự giác” trong THAHC song hoạt động này tại Việt Nam hiện không thực sự hiệu quả. Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về THAHC còn nhiều bất cập. Thực tế chưa đảm bảo sự phân công, phối hợp theo quy định của pháp luật giữa các cơ quan hành pháp, tư pháp và cơ quan kiểm sát; giữa cơ quan ở trung ương với các địa phương trong THAHC. Thứ sáu, kiểm sát THAHC là một trong những chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND các cấp nhưng so với THADS và THAHS chức năng này chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài ra, trong khả năng tiếp cận của tác giả, số lượng các công trình khoa học về THAHC, đặc biệt được nghiên cứu trong giai đoạn Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành là không nhiều. Đồng thời, tại các cơ sở đào tạo Luật uy tín trong nước hiện nay, việc giảng dạy môn học Luật về THAHC còn khá hạn chế. Đa số tại các trường nội dung về THAHC được lồng ghép trong môn học Luật TTHC mà chưa trở thành môn học riêng biệt như Luật THAHS hay Luật THADS. Những điều trình bày trên đây là lý do, lập luận cho lựa chọn nghiên cứu: “Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho Luận án Tiến sĩ Luật học. 2
  9. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích xây dựng luận cứ khoa học nhằm bảo đảm hiệu quả thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, Luận án có các nhiệm vụ sau đây: (1) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về THAHC gồm bản chất, khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố tác động đến THAHC; (2) Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động THAHC ở Việt Nam hiện nay; (3) Xác định quan điểm và đề xuất những giải pháp đảm bảo hiệu quả THAHC tại Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Những vấn đề lý luận và hành lang pháp lý về thi hành án nói chung và THAHC nói riêng ở Việt Nam; có sự so sánh, đối chiếu với lĩnh vực THADS và THAHS. - Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn kinh nghiệm về THAHC của một số quốc gia trên thế giới. - Số liệu và hiện trạng về THAHC ở Việt Nam nói chung, đặc biệt ở những địa phương có số lượng án hành chính cao hiện nay. - Những chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, về thi hành án nói chung và công tác THAHC nói riêng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, Luận án nghiên cứu những vấn đề cơ bản của pháp luật THAHC, bao gồm những quy định về nội dung, về tổ chức, về thủ tục và các biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong THAHC. Trên cơ sở đó, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật THAHC tại Việt Nam thời gian qua để đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đảm bảo hiệu quả THAHC trước yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam hiện nay. Luận án tập trung nhấn mạnh nội dung thi hành phần quyết định trong bản án của Toà án về quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) bị khởi kiện; phần dân sự (nếu có) được thi hành theo thủ tục THADS ít được đề cập sâu trong Luận án. 3
  10. Về thời gian, Luận án nghiên cứu những quy định của pháp luật THAHC kể từ khi Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996 có hiệu lực (01/7/1996) cho đến nay. Các số liệu đánh giá liên quan đến THAHC, cụ thể về tình hình thụ lý, giải quyết các VAHC tại Toà án từ năm 2010 đến hết năm 2018; tình hình đôn đốc, theo dõi THAHC được thống kê trên toàn quốc từ năm 2012 đến hết năm 2018, tức là sau khi áp dụng Luật TTHC năm 2010 (từ 01/7/2011) và sau khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành (01/7/2016) cho đến nay. Riêng nội dung buộc THAHC của Toà án và vấn đề kiểm sát THAHC chỉ thu thập được trong 02 năm 2017 và năm 2018. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện Luận án, trong đó tập trung vào những vấn đề như: (1) nguyên tắc độc lập của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là Toà án; (2) vai trò quan trọng của thi hành án nói chung và THAHC nói riêng đối với việc thực thi công lý; (3) tinh thần thượng tôn pháp luật trong mọi trường hợp, đối với mọi chủ thể dù đó là cơ quan công quyền hay bất kỳ cá nhân nào. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được tác giả sử dụng để luận giải hầu hết những nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án, sâu sắc nhất phải kể đến những nghiên cứu về thực trạng pháp luật THAHC và thực tiễn hoạt động THAHC qua các giai đoạn phát triển của pháp luật TTHC. Để có được những đánh giá khách quan tác giả luôn đặt thực trạng những quy định và thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật THAHC vào đúng bối cảnh đã ban hành và áp dụng thực hiện chúng trên thực tế. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng trong tất cả các chương của Luận án. Phân tích để làm rõ những vấn đề về lý luận, về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật THAHC thời gian qua; chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế để từ đó tổng hợp, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, giải pháp bảo đảm hiệu quả công tác THAHC ở Việt Nam hiện nay. 4
  11. - Phương pháp so sánh pháp luật: Sử dụng trong việc so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn đặc biệt là giai đoạn Luật TTHC năm 2010 và Luật TTHC năm 2015; so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước trên thế giới. Tìm ra những điểm còn bất cập của pháp luật trong nước hay điểm tương đồng, khác biệt trong pháp luật quốc tế về THAHC, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về THAHC trong thời gian tới. Từ đó, luận án được tiến hành theo những cách tiếp cận như sau: - Tiếp cận hệ thống: Để đưa ra những giải pháp bảo đảm hiệu quả hoạt động THAHC ở Việt Nam hiện nay, cần tập trung nghiên cứu từ những vấn đề lý luận, nhấn mạnh về thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật THAHC, sau đó dựa trên những chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách pháp luật của Nhà nước đồng thời có sự so sánh, học hỏi kinh nghiệm của pháp luật quốc tế. - Tiếp cận đa ngành, liên ngành: QĐHC, HVHC là đối tượng khởi kiện trong các VAHC là biểu hiện của sự tác động đa dạng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và liên quan đến nhiều đối tượng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Ngoài ra, sau khi có phán quyết của Tòa án, việc thi hành phải cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức để đưa những phán quyết đó thành hiện thực. Do đó, đề tài cần sử dụng cách tiếp cận này để có thể đưa ra những giải pháp hoàn thiện đồng bộ và toàn diện nhất. - Tiếp cận lịch sử: Thực tế cho thấy dù các quốc gia có những điểm tương đồng về văn hoá pháp lí, cấu trúc quyền lực, hệ thống pháp luật hay điều kiện kinh tế - xã hội thì vẫn có những khác biệt nhất định liên quan đến mô hình cơ quan quản lí, thi hành án cũng như những vấn đề liên quan đến thủ tục và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. Do đó khi nghiên cứu cần đặt vấn đề trong những bối cảnh lịch sử và những điều kiện cụ thể có liên quan để có thể đưa ra đánh giá phù hợp nhất. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án được thực hiện thông qua những hoạt động nghiên cứu nghiêm túc, toàn diện về thi hành bản án, quyết định của Toà án về VAHC trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay với những đóng góp mới sau: 5
  12. Thứ nhất, phân tích khá toàn diện những vấn đề lý luận như khái niệm, bản chất, đặc điểm của THAHC, khẳng định THAHC là dạng hoạt động hành chính – tư pháp với tính hành chính nổi bật hơn so với tính tư pháp. Xác lập vai trò của THAHC đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của THAHC trong kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt giữa cơ quan tư pháp đối với cơ quan hành pháp. Làm rõ hơn về cơ chế THAHC và các yếu tố tác động đến hiệu quả THAHC dưới góc độ lý luận. Thứ hai, trình bày cụ thể những quy định của pháp luật THAHC hiện hành quy định tại Luật TTHC năm 2015 về chủ thể, đối tượng, thủ tục và các biện pháp bảo đảm THAHC. Từ đó, nêu ra những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật THAHC giai đoạn hiện nay đặt trong sự so sánh với những quy định của Luật TTHC năm 2010 và pháp luật THAHC của một số quốc gia trên thế giới. Thứ ba, đánh giá thực tiễn hoạt động THAHC ở nước ta thời gian qua, đặc biệt nhấn mạnh cho giai đoạn khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành. Việc đánh giá này được thực hiện từ những nội dung sau: kết quả giải quyết VAHC tại TAND các cấp so sánh với kết quả THAHC; so sánh giữa tình trạng người dân lựa chọn giải pháp khiếu nại tại các cơ quan hành chính với việc khởi kiện tại TAND; kết quả thực hiện trách nhiệm theo dõi THAHC so sánh với kết quả đôn đốc THAHC tại Cơ quan THADS; kết quả thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với công tác THAHC; kết quả giám sát THAHC trong đó nhấn mạnh vai trò kiểm sát THAHC của VKSND các cấp. Từ việc đánh giá kết quả thực hiện những nội dung trên, Luận án xác định những tồn tại, những khó khăn của công tác THAHC tại Việt Nam hiện nay đồng thời cũng chỉ ra và phân tích nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả THAHC. Thứ tư, nêu ra các quan điểm bảo đảm hiệu quả đối với hoạt động THAHC trong đó có quan điểm về việc bảo đảm sự kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ các quan điểm bảo đảm hiệu quả THAHC, trên nền tảng lý luận và thực trạng THAHC, Luận án đề xuất những nhóm giải pháp sau: nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về THAHC, nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật THAHC nhấn mạnh việc xây dựng Luật THAHC, nhóm giải pháp QLNN về THAHC và một số giải pháp bổ trợ THAHC. 6
  13. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung những vấn đề lý luận về THAHC, góp phần thống nhất trong nhận thức về những nội dung như khái niệm, bản chất, đặc điểm và vai trò của THAHC. Đồng thời cung cấp những đánh giá về ưu và nhược điểm của pháp luật THAHC từ khi được xác lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại. Cung cấp, bổ sung những luận cứ khoa học vào việc hoàn thiện pháp luật THAHC và bảo đảm hiệu quả THAHC đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể trong THAHC, mà chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước; Toà án nhân dân (TAND) các cấp, đội ngũ Thẩm phán hành chính; hệ thống Cơ quan THADS; đội ngũ Chấp hành viên làm công tác THAHC; Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp, đội ngũ Kiểm sát viên thực hiện chức năng kiểm sát THAHC và các cơ quan, tổ chức có liên quan. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các Cơ quan quản lý THADS, Cơ quan THADS; cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương; các cơ sở đào tạo trong việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy về THAHC. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận về thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính Chương 3. Thực trạng thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay Chương 4. Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam 7
  14. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài luận án Thi hành án nói chung xét cho cùng là một đề tài không mới tại Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên Thế giới, bởi tầm quan trọng của nó trong việc góp phần bảo vệ hiệu quả các quyền của công dân, đảm bảo các nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, xét về cụ thể, nếu THADS và THAHS là hai lĩnh vực thi hành án có nhiều công trình không chỉ tập trung về mặt thực tiễn áp dụng mà còn cả trên phương diện lý luận thì những công trình về THAHC lại có phần hạn chế hơn. Tại Việt Nam, các tác giả chủ yếu nghiên cứu vào thời điểm khi Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996 và Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành (trước ngày 01/7/2016), giai đoạn sau khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực hiện còn khá khiêm tốn. Về pháp luật THAHC tại các quốc gia trên Thế giới, các tác giả trong và ngoài nước chủ yếu nghiên cứu về thực trạng pháp luật, nhấn mạnh các biện pháp bảo đảm hiệu quả THAHC từ đó đưa ra một số kinh nghiệm cần thiết và có thể áp dụng cho Việt Nam. Khía cạnh lý luận về THAHC vì vậy cũng khá hạn chế. Song, với tác giả, tất cả những nghiên cứu tại các giai đoạn phát triển của pháp luật Việt Nam về thi hành án nói chung và THAHC nói riêng hay các nghiên cứu về pháp luật THAHC tại một số quốc gia trên thế giới mà tác giả có cơ hội tiếp cận đều là những tài liệu tham khảo hữu ích. Việc đánh giá và kế thừa các nghiên cứu như đã luận giải ở trên được tác giả tiếp cận như sau: 1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận của đề tài luận án Cũng giống như hầu hết các quốc gia trên thế giới, nước ta xác định THAHC là một lĩnh vực cụ thể của thi hành án, cùng với THADS và THAHS. Bên cạnh những đặc điểm riêng xuất phát từ đặc thù về đối tượng khởi kiện hay đương sự trong VAHC, THAHC mang những đặc điểm, có những bản chất và vai trò của hoạt động thi hành án nói chung. Do đó, theo tác giả, về mặt lý luận, sự đánh giá, kế thừa các kết quả nghiên cứu không chỉ tập trung ở những công trình dành riêng về THAHC. Cụ thể như sau: 8
  15. Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về thi hành án nói chung, THADS và THAHS nói riêng trong đó nhấn mạnh về bản chất của hoạt động thi hành án PGS. TS Trần Đình Hảo (2003), Về cải cách tư pháp và vấn đề thi hành án xét từ góc độ của Luật Kinh tế dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tr.19-28; Nguyễn Công Bình (1998), Mấy vấn đề về THADS trong việc soạn thảo Bộ luật Tố tụng dân sự, Tạp chí Luật học số 5, tr. 43-44; Lê Vĩnh Châu (2016), Thi hành bản án, quyết định của Toà án về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội đều thống nhất thi hành án nói chung là một giai đoạn tố tụng độc lập, tức là về bản chất mang tính tư pháp hoàn toàn. Thi hành án là giai đoạn tiếp sau giai đoạn xét xử, có xét xử thì phải có thi hành, xét xử và thi hành là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự. Ngược lại, GS. TS Võ Khánh Vinh (2013), Luật Thi hành án hình sự, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Minh Tâm (2001), Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án, Tạp chí Luật học, số 2, tr. 21-22; Nguyễn Thanh Thuỷ (2008), Hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Chu Thị Hoa (2016), Pháp luật Thi hành án dân sự trong cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội đồng quan điểm khi luận giải tố tụng là xác định các chứng cứ để khôi phục lại trạng thái ban đầu của sự việc, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật và khi có phán quyết của toà án thì quá trình tố tụng kết thúc. Còn, thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm hiện thực các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án là mối quan hệ tổ chức thi hành, có tính hành chính và như vậy thi hành án vừa mang tính hành chính vừa mang tính tư pháp. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về THAHC, đặc biệt là về bản chất của hoạt động THAHC Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu về bản chất của hoạt động thi hành án nói chung của những công trình đi trước, tác giả Trương Hồng Quang (2015), Khái niệm, bản chất, đặc điểm và những điều kiện ảnh hưởng đến thi hành án hành chính, Tài liệu Hội thảo khoa học Kinh nghiệm THAHC của một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Bộ Tư pháp thực hiện, tr. 23-40 và Phạm 9
  16. Xuân Nam (2012), Thi hành án hành chính ở Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đều cho rằng THAHC là giai đoạn xuất hiện sau khi bản án, quyết định giải quyết VAHC của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đây không phải là một giai đoạn tố tụng mà là tổng thể các hoạt động nhằm mục đích làm cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế. Cũng ở góc độ lý luận, tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền (2012), Bảo đảm quyền con người trong thi hành án hành chính ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Huỳnh Thị Khánh Ly (2015), Thi hành án hành chính ở Việt Nam, Luận văn cử nhân, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Hoàng Giang (2017), Chuyên đề Những chủ trương, định hướng lớn trong việc xây dựng Luật Thi hành án hành chính ở Việt Nam, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp) không bàn luận về bản chất của hoạt động THAHC mà dựa trên những đặc trưng của hoạt động này so với THAHS và THADS để đưa ra khái niệm về THAHC, trong đó không xác định THAHC là giai đoạn tố tụng hay không là giai đoạn tố tụng mà nhấn mạnh đây là hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án về VAHC theo trình tự, thủ tục do pháp luật về THAHC quy định. Như vậy, bản chất của hoạt động thi hành án nói chung và THAHC nói riêng hiện vẫn còn nhiều quan điểm trái nhiều và chưa đạt được sự thống nhất. Song, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng THAHC không phải là một giai đoạn của TTHC mà là những hoạt động sau đó mang tính hành chính – tư pháp, tính hành chính nổi bật hơn so với tính tư pháp. Nội dung này tác giả sẽ chứng minh và làm rõ hơn trong nội dung của Luận án. Những vấn đề mang tính lý luận khác như đặc điểm, ý nghĩa của THAHC; trình tự, thủ tục THAHC cũng được các công trình nghiên cứu đề cập đến song theo tác giả vẫn chưa đầy đủ; đặc biệt việc phân biệt giữa bản án và quyết định có hiệu lực của Toà án về VAHC – đối tượng THAHC và các yếu tố cơ bản tác động đến hiệu quả THAHC đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Tóm lại, về mặt lý luận, cùng với việc xác định bản chất của hoạt động THAHC để đưa ra khái niệm phù hợp nhất, tác giả sẽ bổ sung những phân tích về đặc điểm, ý nghĩa của THAHC, trình tự, thủ tục của hoạt động này; phân biệt giữa các đối tượng thi hành và làm rõ các yếu tố tác động đến hiệu quả THAHC. 10
  17. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề thực tiễn của đề tài luận án Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật THAHC tại Việt Nam giai đoạn khi Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996 và Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành Tác giả Nguyễn Văn Tân với bài viết Thi hành án hành chính và những hạn chế trên Báo Đại biểu nhân dân, ngày 15/9/2009 và Vũ Thị Hằng (2012), Thực trạng thi hành bản án hành chính, quá trình xây dựng và một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hành chính về thi hành án hành chính, Tài liệu tập huấn nghiệp vụ THAHC, thi hành phần dân sự trong Bản án hình sự và công tác quản lý dự án xây dựng công trình của Bộ Tư pháp, tr. 1-28 cùng luận bàn những bất cập của pháp luật THAHC quy định tại Điều 74 Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996. Đồng thời, các tác giả cũng nhấn mạnh những hạn chế trong nhận thức của nhiều cơ quan nhà nước và người dân về thẩm quyền THAHC. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong THAHC, việc thi hành án kém hiệu quả, các khiếu kiện hành chính bị kéo dài, tình trạng án tồn đọng nhiều bên cạnh những bất cập của pháp luật THAHC giai đoạn này. Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 thực sự mang lại nhiều chuyển biến mới, tích cực hơn trong xét xử các khiếu kiện hành chính và trong hoạt động THAHC tại nước ta sau những bất cập từ Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996. Cùng với những quy định về giải quyết VAHC tại Toà án, những nội dung về THAHC được nêu ra trong Luật TTHC được đánh giá là khá hoàn thiện, có phần rõ ràng hơn. Tuy nhiên, khi đưa vào triển khai thực hiện vẫn phát sinh nhiều hạn chế. Các tác giả Hà Minh Tuấn tại Một số ý kiến về thi hành án hành chính, ngày 20/01/2015, Chuyên mục nghiên cứu trao đổi – Bộ Tư pháp; Trần Minh Giang với Thi hành án hành chính: Nhiều bất cập cần tháo dỡ, Báo Công lý, ngày 10/5/2015; Trương Hồng Quang và Nguyễn Thị Thương Huyền trong những nghiên cứu của mình đều xác định nguyên nhân chủ yếu của những bất cập về thực trạng THAHC là do hành lang pháp lý hiện vẫn chưa đầy đủ, quy định rải rác, còn tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và có quá ít điều luật điều chỉnh nên chưa đầy đủ cách thức để tổ chức thực hiện một cách hiệu quả công tác THAHC. Các tác giả Vũ Thị Hằng – Lý Thị Thúy Hoa (2015), Thi hành án hành chính tại Việt Nam, thực trạng và kiến nghị hoàn thiện, Hội thảo Kinh nghiệm THAHC của một số nước trên thế giới và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Bộ Tư pháp, tr. 5- 11
  18. 14; Trần Văn Duy, Những bất cập trong pháp luật hiện hành về thi hành án hành chính, Tạp chí Thanh tra số 3/2016, tr. 14-17 hay Hoàng Điệp, Thắng kiện, chật vật thi hành án, Báo Tuổi trẻ, ngày 12/10/2014 cụ thể hơn về hạn chế của thực tiễn THAHC khi đưa ra nhiều phân tích đối với cơ chế đôn đốc THAHC do Cơ quan THADS thực hiện. Ý thức chấp hành án hạn chế, việc tuân thủ pháp luật trong THAHC không nghiêm hay việc thiếu những biện pháp chế tài trong xử lý vi phạm THAHC một lần nữa được các tác giả xác định là những nguyên nhân quan trọng khác ngoài yếu tố pháp lý làm cho án hành chính xét xử đã khó, thi hành còn khó hơn. Cùng với Trương Hồng Quang, tác giả Hồ Quân Chính tại nghiên cứu Thi hành các bản án, quyết định hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh – Những khó khăn, vướng mắc và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên đề về THADS, tr. 22- 27 đã khẳng định những khó khăn, vướng mắc trên của công tác THAHC tại Thành phố Hồ Chí Minh – địa phương vốn có số lượng án hành chính cao nhất cả nước. Tác giả Thu Hằng trong Hỗ trợ tài chính để thi hành án: Người sốt sắng, kẻ thờ ơ, Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 19/5/2008 thì cho rằng hiệu quả THAHC giai đoạn này không cao một phần lỗi thuộc về các cơ quan đã ban hành QĐHC hoặc có HVHC trường hợp là người phải thi hành án đã tỏ ra khá “thờ ơ” trong quá trình thực hiện cơ chế hỗ trợ tài chính. Tóm lại, với giai đoạn khi Pháp lệnh TTGQ các VAHC năm 1996 và Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành, các công trình nghiên cứu mà tác giả có cơ hội tiếp cận ở trên đã có những phân tích khá cụ thể về hạn chế của pháp luật THAHC, những yếu kém trong công tác THAHC trên thực tế, trong đó nhiều công trình khi nghiên cứu chỉ đi sâu luận bàn về một hạn chế nhất định như việc thực hiện cơ chế đôn đốc THAHC tại các Cơ quan THADS. Những kết quả nghiên cứu này thực sự là cơ sở quan trọng để tác giả có cái nhìn tổng quát nhất về sự chuyển biến trong những quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật THAHC qua các giai đoạn. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật THAHC tại Việt Nam sau khi Luật TTHC năm 2015 và Nghị định 71/2016/NĐ-CP có hiệu lực thi hành Luật TTHC năm 2015 có nhiều sửa đổi quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế của Luật TTHC năm 2010, trong đó có nội dung về THAHC. Các tác giả Phan 12
  19. Trần Mai Phương (2016), Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Bùi Ngọc Hòa, Những nội dung mới của Luật Tố tụng hành chính, Tài liệu Tập huấn Luật TTHC, TAND Tối cao; Võ Công Hoàng, Quy định mới trong thi hành bản án, quyết định hành chính, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 4/2016, tr.62-64; Nguyễn Văn Thuận, Thẩm quyền của Toà án theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Trương Khánh Hoàn, Các cơ chế bảo đảm thực thi bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính tại Việt Nam và trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong công tác thi hành án hành chính, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp); Thành Công, Gỡ “nút thắt” cho theo dõi thi hành án hành chính, Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 19/9/2018 có nhiều luận bàn về những điểm mới tích cực của Luật TTHC năm 2015 nói chung và pháp luật THAHC nói riêng trong đó đặc biệt nhấn mạnh nội dung quản lý nhà nước về THAHC, nhấn mạnh về việc bỏ cơ chế đôn đốc THAHC của Hệ thống Cơ quan THADS thay vào đó là thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo dõi THAHC. Hoạt động xét xử các VAHC của TAND các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh; chất lượng bản án, quyết định của Toà án vốn là những nguyên nhân không mới có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả THAHC vì vấn đề này thực chất đã được một số tác giả nêu ra từ giai đoạn áp dụng Luật TTHC năm 2010. Tuy nhiên, việc đánh giá cụ thể những hạn chế này và dựa trên những quy định mới của Luật TTHC năm 2015 đến nay mới được các tác giả Hoàng Thị Thuý Vinh, Phan Thị Thu Hà (2017), Thực trạng và giải pháp giải quyết các vụ án hành chính tại Toà án, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp); Thân Quốc Hùng (2018), Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Toà án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia thực hiện. Năm 2017 được xem là năm đầu tiên áp dụng pháp luật THAHC theo quy định của Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án (Nghị định 71/2016/NĐ-CP), việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong đó chủ yếu tập trung thực trạng theo dõi THAHC của hệ thống Cơ quan THADS được các tác giả sau đề cập trong những nghiên cứu của mình, cụ thể gồm Trần Phương Hồng (2017), Theo dõi thi hành án hành chính và vai trò của các Cơ quan Thi hành án dân sự trong hoạt động theo dõi 13
  20. thi hành án hành chính, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp); Nguyễn Thị Kim Quy (2017), Pháp luật về thi hành án hành chính và thực trạng thi hành các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp); Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Những khó khăn, vướng mắc về pháp luật thi hành án hành chính từ góc nhìn theo dõi thi hành án hành chính, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp); Phạm Văn Dùng, Nhiều vướng mắc trong theo dõi thi hành án hành chính, Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 23/4/2018. Tóm lại, với giai đoạn Luật TTHC năm 2015 và Nghị định 71/2016/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, các nghiên cứu kể trên chủ yếu đánh giá những điểm tích cực nói chung của pháp luật THAHC. Các tác giả nhấn mạnh điểm mới từ quy định về xử lý kỷ luật đội ngũ cán bộ, công chức trong THAHC; nhấn mạnh những tích cực của quy định về thẩm quyền theo dõi THAHC của Cơ quan THADS thay cho cơ chế đôn đốc THAHC. Do đó, các công trình chưa có những đánh giá về hạn chế của sự thay đổi giữa hai cơ chế này, đồng thời chưa nêu được nguyên nhân vì sao sai phạm trong THAHC nhiều, quy định về xử lý kỷ luật cũng đã cụ thể nhưng chưa có trường hợp nào bị xử lý trên thực tế. Ngoài ra, khi đánh giá tình hình THAHC nói chung, các tác giả chủ yếu dựa trên tình hình theo dõi THAHC mà chưa có sự phân tích một cách toàn diện từ kết quả giải quyết, xét xử các VAHC tại TAND các cấp; tình hình quản lý nhà nước về THAHC và đặc biệt là hoạt động kiểm sát THAHC. Ngoài ra, thực trạng các yếu tố cơ bản tác động đến hiệu quả THAHC cũng chưa được đánh giá trong bất kỳ nghiên cứu nào. Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật THAHC tại một số quốc gia trên thế giới Hiệp hội quốc tế Tòa án hành chính tối cao (International Association of Supreme Administrative Jurisdictions – viết tắt là IASAJ) vốn được thành lập từ năm 1983 và theo quy định cứ ba năm một lần sẽ tổ chức những hội nghị để thảo luận về một chủ đề liên quan đến pháp luật hành chính. Năm 2004, IASAJ đã tổ chức hội nghị lần thứ VIII với chủ đề Thực thi các phán quyết của Tòa án hành chính (The implementation of the administrative courts' decisions) tại Madrid (Tây Ban Nha). Báo cáo tổng thuật hội nghị năm 2004 khi đó được xây dựng trên cơ sở báo cáo của 27 nước tham dự và nhấn mạnh vào khả năng hiện thực hoá các phán quyết của Toà án hành chính. Báo cáo được chia làm ba phần, cụ thể gồm: (1) Hậu quả pháp lý của các quyết định của Tòa án hành chính; (2) Quyền hạn của Tòa án 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2