intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo của Việt Nam và Myanmar nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:229

80
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lận án phân tích diện mạo của đối tượng nghiên cứu trong thực tế bảo lưu vốn văn nghệ truyền thống của nhân dân, sự diễn hóa của tác phẩm qua các sinh hoạt giao tiếp xã hội. Từ đó, có thể thấy được vị trí, vai trò cũng như sự tương tác giữa folklore với môi trường văn hóa truyền thống, những vẻ đẹp và giá trị cụ thể, sống động của sáng tác truyền miệng trong đời sống thực tế của nhân dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo của Việt Nam và Myanmar nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hữu Nghĩa TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CÓ YẾU TỐ PHẬT GIÁO CỦA VIỆT NAM VÀ MYANMAR NGHIÊN CỨU THEO HƯỚNG TIẾP CẬN BỐI CẢNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hữu Nghĩa TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CÓ YẾU TỐ PHẬT GIÁO CỦA VIỆT NAM VÀ MYANMAR NGHIÊN CỨU THEO HƯỚNG TIẾP CẬN BỐI CẢNH Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 62 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. Hồ Quốc Hùng 2. PGS.TS. Phan Thị Thu Hiền Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Nghiên cứu sinh xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của cá nhân. Các minh chứng và số liệu, các phân tích và kết luận khoa học được trình bày trong luận án là trung thực. Trong đó, có một số nội dung nghiên cứu đã được công bố trong các bài báo khoa học của tác giả, các nội dung còn lại trong luận án chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt DẪN NHẬP .......................................................................................................... 1  1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1  2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 2  3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2  4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 15  5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 18  6. Đóng góp của luận án .................................................................................. 20  7. Bố cục của luận án ...................................................................................... 21  NỘI DUNG......................................................................................................... 22  Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...................................................... 22  1.1. Cơ sở khoa học của hướng nghiên cứu bối cảnh ..................................... 22  1.1.1. Nghiên cứu folklore và sự ra đời của hướng nghiên cứu bối cảnh ........................................................................................... 22  1.1.2. Nghiên cứu bối cảnh: một số định hướng mang tính phương pháp luận............................................................................ 33  1.2. Những nét chính về văn hóa của Myanmar và Việt Nam ........................ 41  1.2.1. Văn hóa tộc người ............................................................................. 41  1.2.2. Văn hóa Phật giáo ............................................................................. 43  1.3. Vấn đề tư liệu về đối tượng nghiên cứu ................................................... 47  1.3.1. Nguồn tư liệu ..................................................................................... 47 
  5. 1.3.2. Nguyên tắc tiếp cận tư liệu diễn xướng ............................................ 50  1.3.3. Vị trí – vai trò của tư liệu văn bản .................................................... 51  1.3.4. Vấn đề phân loại đối tượng nghiên cứu ............................................ 52  Chương 2. BỐI CẢNH VĂN HÓA DÂN TỘC - CÁC ĐỀ MỤC BẢO LƯU TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CÓ YẾU TỐ PHẬT GIÁO ................................................................................. 64  2.1. Người kể chuyện và vốn truyện kể .......................................................... 64  2.1.1. Người kể chuyện ............................................................................... 64  2.1.2. Vốn truyện kể .................................................................................... 68  2.2. Văn bản ghi chép và sự kiện kể chuyện ................................................... 70  2.2.1. Văn bản ghi chép ............................................................................... 70  2.2.2. Sự kiện kể chuyện ............................................................................. 72  2.3. Sinh hoạt đời thường và hoạt động văn nghệ........................................... 74  2.3.1. Sinh hoạt đời thường ......................................................................... 74  2.3.2. Hoạt động văn nghệ .......................................................................... 78  2.4. Một số hiện tượng trong thực tế bảo lưu truyện kể theo các chủ đề của Phật giáo ........................................................................................... 83  2.4.1. Việc nhấn mạnh chủ đề răn ác khuyến thiện và qui luật vô thường của kiếp người – một mẫu số chung của TCDGCYTPG ở Myanmar và Việt Nam ................................................................ 83  2.4.2. Việc đề cao giới đức trong truyện kể của người Myanmar gắn liền với sự tôn vinh hình tượng người đàn ông .............................. 85  2.4.3. Việc đề cao thiên tính trong truyện kể của người Việt Nam gắn liền với việc tôn vinh hình tượng người phụ nữ ............................. 87  Chương 3. BỐI CẢNH DIỄN XƯỚNG - ĐẶC ĐIỂM VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CÓ YẾU TỐ PHẬT GIÁO VỚI CÁC YẾU TỐ CỦA TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP ................................................................. 96 
  6. 3.1. TCDGCYTPG từ văn bản cố định hóa đến văn bản diễn hóa trong bối cảnh diễn xướng ................................................................................ 96  3.1.1. Từ tiềm năng nghĩa đến tiềm năng bối cảnh của truyện kể ............ 96  3.1.2. Từ cấu trúc tự sự được biên soạn lại đến cấu trúc tự sự trong ngôn bản diễn kể thực tế ............................................................... 107  3.1.3. Từ khả năng bao quát hạn hẹp theo tiêu chuẩn chung của bối cảnh văn hóa cộng đồng đến sự diễn hóa qua các sự kiện giao tiếp cụ thể .............................................................................. 111  3.2. TCDGCYTPG với các nhân tố tham gia giao tiếp ................................ 118  3.2.1. Truyện kể với vai trò sáng tạo của người kể chuyện ...................... 118  3.2.2. Truyện kể trong mối tương tác giữa người kể chuyện và người tham dự ................................................................................. 131  Chương 4. MỘT VÀI MẪU PHÂN TÍCH BỐI CẢNH DIỄN XƯỚNG CỤ THỂ CỦA TRUYỆN CỔ DÂN GIAN CÓ YẾU TỐ PHẬT GIÁO ............................................................................. 141  4.1. Tiết mục diễn xướng truyện kể Tên tướng cướp vô não ........................ 143  4.1.1. Hồ sơ dữ liệu tiết mục diễn xướng ............................................... 143  4.1.2. Phân tích sự kiện kể chuyện ......................................................... 144  4.1.3. Phân tích diễn biến các tương tác xã hội và vai trò của truyện kể trong sự kiện giao tiếp .................................................. 147  4.1.4. Một vài ghi nhận về người cung cấp thông tin và tiết mục ......... 152  4.2. Tiết mục diễn xướng truyện kể Lòng hiếu của chim oanh vũ................ 154  4.2.1. Hồ sơ dữ liệu tiết mục diễn xướng ............................................... 154  4.2.2. Phân tích sự kiện kể chuyện ......................................................... 155  4.2.3. Phân tích diễn biến các tương tác xã hội và vai trò của truyện kể trong sự kiện giao tiếp .................................................. 159  4.2.4. Một vài ghi nhận về người cung cấp thông tin và tiết mục ......... 164  4.3. Tiết mục diễn xướng truyện kể Chim công thuyết pháp ........................... 166 
  7. 4.3.1. Hồ sơ dữ liệu tiết mục diễn xướng ............................................... 166  4.3.2. Phân tích sự kiện kể truyện ........................................................... 166  4.3.3. Phân tích diễn biến các tương tác xã hội và vai trò của truyện kể trong sự kiện giao tiếp .................................................. 169  4.3.4. Một vài ghi nhận về người cung cấp thông tin và tiết mục ......... 173  4.4. Tiết mục diễn xướng truyện kể Khổ....................................................... 173  4.4.1. Hồ sơ dữ liệu tiết mục diễn xướng ............................................... 173  4.4.2. Phân tích sự kiện kể truyện ........................................................... 174  4.4.3. Phân tích diễn biến các tương tác xã hội và vai trò của truyện kể trong sự kiện giao tiếp .................................................. 177  4.4.4. Một vài ghi nhận về người cung cấp thông tin và tiết mục ......... 180  4.5. Một phân tích tổng hợp về vai trò sáng tạo của người kể chuyện trong các pháp thoại Phật giáo ...................................................... 181  4.5.1. Việc kiến tạo mô hình tâm lý của tình huống giao tiếp ................ 182  4.5.2. Khả năng điều tiết các tương tác thẩm mỹ trong sự kiện giao tiếp ......................................................................................... 187  4.5.3. Kỹ năng phát huy vai trò các yếu tố trợ ngôn tạo sức hấp dẫn cho tiết mục ................................................................................... 191  KẾT LUẬN ...................................................................................................... 198  DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .................................... 201  TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 203 
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Danh mục tác phẩm thuộc khu vực nội điển .................................... 53  Bảng 1.2. Danh mục tác phẩm thuộc khu vực ngoại điển................................. 55  Bảng 1.3. Danh mục tác phẩm có thể xác định yếu tố Phật giáo trên văn bản ....................................................................................... 58  Bảng 1.4. Danh mục tác phẩm không thể xác định yếu tố Phật giáo trên văn bản ....................................................................................... 60  Bảng 2.1. Điều kiện tiếp cận truyện kể theo các chủ đề của Phật giáo ở người trẻ - Người kể chuyện .......................................................... 66  Bảng 2.2. Điều kiện tiếp cận truyện kể theo các chủ đề của Phật giáo ở người trẻ - Nhóm truyện kể ........................................................... 68  Bảng 2.3. Điều kiện bảo lưu TCDGCYTPG – Văn bản ghi chép .................... 72  Bảng 2.4. Điều kiện bảo lưu TCDGCYTPG – Sinh hoạt kể chuyện ................ 74  Bảng 2.5. Điều kiện bảo lưu TCDGCYTPG – Các hình thức tự sự ngoài văn học .................................................................................... 79 
  9. DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT YTPG : yếu tố Phật giáo TCDGCYTPT : truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo VBCĐH : văn bản cố định hóa VBTBC : văn bản trong bối cảnh SKGT : sự kiện giao tiếp SKKC : sự kiện kể chuyện NKC : người kể chuyện NTD : người tham dự TLPV : tư liệu phỏng vấn PL : Phụ lục HN : Hà Nội TP. HCM : thành phố Hồ Chí Minh tr. : trang Nxb: : Nhà xuất bản
  10. 1 DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo1 chiếm khối lượng đáng quan tâm và được duy trì, bảo tồn bởi các sinh hoạt thực hành Phật giáo và sinh hoạt đời sống của cư dân Đông Nam Á. Bộ phận truyện cổ này bên cạnh những thuộc tính dân gian còn chứa đựng nhiều khía cạnh đặc thù của văn hóa Phật giáo ở mỗi nước. Mang những yếu tính của sáng tác folklore, TCDGCYTPG vừa là một hiện tượng hữu cơ gắn liền với bối cảnh văn hóa dân tộc vừa mang tính chất xuyên văn hóa trong các bối cảnh sinh hoạt thực hành diễn xướng. Kết hợp nghiên cứu sự tồn tại của chúng trong bối cảnh rộng của văn hóa dân tộc và trong bối cảnh hẹp của các hình thức sinh hoạt và các tình huống diễn xướng cụ thể sẽ đưa lại những khám phá khoa học thú vị trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, văn học và tôn giáo. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, khác với những gì giới học thuật nhận thức về đối tượng, tình hình nghiên cứu văn học dân gian ở Việt Nam lâu nay chủ yếu vẫn lấy văn bản tác phẩm làm đối tượng độc lập, tối ưu mà ít chú ý đến hướng tiếp cận và khảo sát tác phẩm - mà lẽ ra phải được đặt lên hàng đầu - trong những tình huống sinh hoạt cụ thể của đời sống. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn góp một phần công sức vào việc nghiên cứu tác phẩm văn học dân gian trong bối cảnh tồn tại thực tế của nó, ở cả hai cấp độ: bối cảnh văn hóa dân tộc và bối cảnh diễn xướng. Myanmar, trong lịch sử và ngay ở thời điểm hiện tại, là một trong số rất ít quốc gia có sự phát triển Phật giáo Theravada ổn định và vững vàng. Lựa chọn quốc gia này làm đối tượng nghiên cứu trên tinh thần so sánh với Việt Nam, chúng tôi muốn đối chiếu và phân tích những tương đồng về văn hóa ở hai dân 1 Từ đây về sau xin viết tắt là TCDGCYTPG
  11. 2 tộc cùng chia sẻ một không gian địa lí cũng như cùng tiếp thu một vài ảnh hưởng quan trọng của các nền văn minh lớn trong châu lục nhưng do một số nét riêng trong điều kiện tự nhiên cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng nên có những dị biệt đáng kể. Trên đây là những động lực chính thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài luận án: “Truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo của Việt Nam và Myanmar nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh”. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Tiếp cận TCDGCYTPG của Việt Nam và Myanmar theo hướng nghiên cứu bối cảnh, luận án là một thử nghiệm bước đầu nghiên cứu đời sống đích thực của một nhóm đối tượng folklore trong sự bảo lưu sống động của nhân dân. Việc làm này cũng thể hiện mong muốn góp phần khắc phục phần nào những bất cập và bổ sung những khoảng trống của hướng nghiên cứu văn bản truyền thống. Đặt trong bối cảnh văn hóa và bối cảnh diễn xướng, luận án phân tích diện mạo của đối tượng nghiên cứu trong thực tế bảo lưu vốn văn nghệ truyền thống của nhân dân, sự diễn hóa của tác phẩm qua các sinh hoạt giao tiếp xã hội. Từ đó, có thể thấy được vị trí, vai trò cũng như sự tương tác giữa folklore với môi trường văn hóa truyền thống, những vẻ đẹp và giá trị cụ thể, sống động của sáng tác truyền miệng trong đời sống thực tế của nhân dân. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Các nghiên cứu ở Việt Nam Cho đến cuối thế kỷ XX, TCDGCYTPG chưa bao giờ được giới khoa học chọn làm đối tượng nghiên cứu chuyên biệt và độc lập. Tuy nhiên, hầu như không có một công trình nghiên cứu lịch sử văn học dân gian Việt Nam nào không đề cập đến bộ phận truyện kể này. Do vậy, có thể khẳng định, song song với thành tựu chung về nghiên cứu lịch sử văn học, việc nghiên TCDGCYTPG cũng đạt được những kết quả đáng ghi nhận trên hai phương diện: khảo cứu đặc điểm dân tộc học và phân tích đặc điểm loại hình.
  12. 3 Trên thực tế, những nét đặc thù của đối tượng dễ tạo ra tâm lí dè dặt từ phía những người làm công tác nghiên cứu khi xem xét chúng như một bộ phận sáng tác tự sự truyền miệng của nhân dân, cụ thể là hoài nghi chất dân gian của chúng. Do đó, xoay quanh bộ phận truyện kể có yếu tố Phật giáo có hai loại vấn đề cần giải quyết: (1)- Xác định tư cách truyện cổ dân gian; (2)- Làm rõ nội hàm khái niệm và phân loại. Hai vấn đề này chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ trong quá trình trình bày lịch sử vấn đề. Đầu tiên, vấn đề đặt ra là bộ phận truyện kể này có đủ tiêu chuẩn để được xem là truyện cổ dân gian hay không? Nếu có thì tính chất cổ và chất dân gian của chúng thể hiện như thế nào? Có hai tiêu chuẩn quan trọng mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi và nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên xác lập đối với truyện cổ dân gian là tính chất cổ [12, tr.66-67] hay chất liệu dĩ vãng [26, tr.59-61] và chất dân gian hay tính gần gũi, không xa lạ với đời sống nhân dân. Thứ nhất, về vấn đề chất dân gian, theo chúng tôi, có hai khúc mắc cần làm rõ để xác định tư cách bộ phận truyện kể có yếu tố Phật giáo. Một là, rất có khả năng quan niệm “dân gian” hay “nhân dân” của một số tác giả đồng nhất với khu vực văn hóa “nông dân” nên những gì ngoài khu vực ấy bị cho là “ngoại đạo”, là “phản dân gian”. Theo quan điểm này, truyện dân gian chỉ phản ánh những vấn đề cuộc sống và đấu tranh của nông dân. Với quan điểm mang tính “kiểm duyệt” như vậy, nhiều truyện kể mang chủ đề tôn giáo bị loại khỏi khu vực truyện cổ dân gian. Về khía cạnh này, Alan Dundes cho rằng: “ngoài nông dân còn có nhiều nhóm dân gian hoạt động tích cực khác như dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp” [189, tr.13]. Song song với quan điểm ấy, các khái niệm về “vốn truyện kể” của Barbara Krishenblat - Grimblett [150, tr.666], các hình thức “giao tiếp theo nhóm nhỏ” hay “người truyền bá truyền thống tích cực” và “người truyền bá truyền thống thụ động” của Robert A. Georges [196, tr.62-67.], v.v.. đã góp phần xác định nội hàm khái niệm dân gian. Do vậy, truyện kể có yếu tố Phật giáo có thể được nhìn nhận như là một nhóm truyện kể dân gian đặc
  13. 4 thù, được truyền bá trong một phạm vi hạn chế so với những truyện dân gian thuần túy. Hai là, có tác giả đứng trên góc nhìn lí tưởng tuyệt đối về lập trường tư tưởng lành mạnh của nhân dân cho rằng những truyện kể truyền bá chủ nghĩa yếm thế hay mê tín là sản phẩm của nhà chùa nên rất xa lạ với quan điểm của nhân dân. Trên thực tế, những truyện như vậy khá ít ỏi [xem TL số 42, tr.51, 61, 143 và TL số 82, tr.297-298]. Phải chăng, tư tưởng của nhân dân có thể nào là một thứ bảo vật toàn bích - không hề gợn chút bi quan, đặc biệt là sự mê tín? Về khía cạnh này, có thể khẳng định đại đa số truyện kể có yếu tố Phật giáo tồn tại cho đến ngày nay đều gần gũi với tâm tư, tình cảm của nhân dân ở cả mặt tích cực và hạn chế của nó và được đông đảo nhân dân ủng hộ, lưu truyền. Chỉ có điều, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể mà chúng được truyền bá tích cực hay thụ động mà thôi. Thứ hai, về chất liệu dĩ vãng, truyện kể có yếu tố Phật giáo hoặc là thoát thai từ những kiểu mẫu tư duy và kiểu mẫu tự sự trong kinh điển Phật giáo thì có thể khẳng định tính chất cổ của nó; hoặc là đã qua sự nhào nặn và biến đổi cho phù hợp với nếp sống, nếp nghĩ truyền thống của nhân dân thì hồn cốt văn hóa bản địa đã thay thế những yếu tố vay mượn, du nhập từ bên ngoài. Phải chăng, trong khi nghi ngờ về tính chất cổ của bộ phận truyện kể này, nhiều nhà nghiên cứu đã cân nhắc sức nặng của chúng trên cán cân văn hóa bản địa-văn hóa du nhập? Nếu như sự đồng nhất giữa khái niệm “dân gian” với khái niệm “nông dân” là lí do để không thừa nhận truyện kể có yếu tố Phật giáo là truyện dân gian thì sự đồng nhất giữa “chất liệu dĩ vãng” với “văn hóa bản địa” là lí do để phủ nhận tính chất cổ của nhóm đối tượng này. Nếu giải tỏa được những khúc mắc nói trên, có lẽ, bộ phận truyện kể có yếu tố Phật giáo đang được khảo sát có đủ cơ sở và tiêu chuẩn về tính chất cổ và chất dân gian để được xem là truyện cổ dân gian và các thuật ngữ “truyện cổ dân gian về Phật giáo”2, “truyện dân gian mang màu sắc Phật giáo” hay “truyện dân gian có yếu tố Phật giáo” chỉ là những tên gọi khác nhau của bộ phận truyện 2 Theo chúng tôi, từ “về” không diễn đạt chính xác về nghĩa khi sử dụng trong trường hợp này.
  14. 5 kể này mà thôi. Đi vào lịch sử nghiên cứu đối tượng, chúng ta sẽ làm rõ những khúc mắc kể trên. Các khảo cứu dân tộc học chủ yếu thuộc về các công trình nghiên cứu trong khoảng năm thập kỉ cuối thế kỷ XX của các chuyên gia đầu ngành folklore Việt Nam như: Nguyễn Đổng Chi (1915-1984), Bùi Văn Nguyên (1923-2003), Đinh Gia Khánh (1924-2003), Cao Huy Đỉnh (1927-1975), Nguyễn Tấn Đắc (1931), Chu Xuân Diên (1934), Vũ Ngọc Khánh (1926-2012).v.v.. Viện chứng về mốc thời gian lịch sử, các nhà nghiên cứu thống nhất quan điểm cho rằng Phật giáo truyền từ Ấn Độ và lan tỏa ảnh hưởng vào truyện cổ dân gian Việt Nam từ rất sớm: từ buổi “bình minh của lịch sử” (Trần Văn Giàu) [52, tr.15], “cuối thời Bắc thuộc”, từ thời “Khâu Đà La” (Cao Huy Đỉnh) [42, tr.40, 74], từ “thời Hùng Vương”(Lê Mạnh Thát) [141, tr.96], từ “thế kỷ thứ nhất trước công nguyên”(Hồ Liên) [97, tr.85].v.v.. Viện chứng về gốc rễ Phật giáo trên từng tác phẩm cụ thể, những khảo cứu của giới nghiên cứu đưa lại những kết quả đáng ngạc nhiên. Nếu góp nhặt những công bố rải rác từ các công trình nghiên cứu trong khoảng 50 năm trở lại đây, chúng ta có được một danh sách khá dài các truyện cổ dân gian có cội nguồn xa xưa từ trong nội điển Phật giáo. Cao Huy Đỉnh xác định những truyện: Bốn anh mù sờ voi, Con cò, Con cua và đàn cá tép, Mèo lại hoàn mèo, Cứu vật vật trả ơn, cứu người người trả oán,.v.v. truyền vào nước ta từ đầu công nguyên cùng với Phật giáo [42, tr.70]. Đinh Gia Khánh nhận định “Nhiều Phật thoại đã tách khỏi kinh Phật, hoặc lời thuyết giáo của sư sãi để trở thành truyện ngụ ngôn hoặc truyện cổ tích của nhân dân ta. Đó là những truyện ngụ ngôn như Sẩm sờ voi, Mèo lại hoàn mèo, hoặc truyện cổ tích Cây nêu ngày Tết...” [82, tr.128]. Tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam xác định truyện Bính và Đinh có nguồn gốc từ Tạp bảo tạng kinh. Bên cạnh đó, tác giả khẳng định hình tượng rắn hóa thành vàng (hay ngược lại vàng hóa rắn khi lọt vào tay kẻ xấu) lưu hành ở một số dân tộc trong một số motif giới hạn, chẳng hạn gần gũi với ta ở vùng Đông
  15. 6 Nam Á thì có các bản của người Kinh, Mường, Tày, Miến Điện (Myanmar). Tác giả khẳng định “chúng đều tiếp thu từ một “bản gốc”: bản trong Tạp bảo tạng kinh, vốn được dịch ra chữ Hán từ năm 472. Có nghĩa là về mặt thời gian, “bản gốc” được nhập tịch theo lối truyền miệng vào các dân tộc nói trên, có thể còn sớm hơn nữa, mà cội nguồn phát sinh phải là nơi ra đời của đạo Phật.” [12, tr.1678]. Mặc dù không đặt ra mục tiêu nghiên cứu văn học, trong công trình Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1999), khi so sánh đối chiếu 200 truyện cổ tích trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, Lê Mạnh Thát nhận thấy các truyện: Sự tích dưa hấu (số 1), Sự tích con dã tràng (số 15), Của trời trời lại lấy đi, giương đôi mắt ếch làm chi được trời (số 61) và truyện Hai con cò và con rùa (số 143) có thể truy một phần hay toàn bộ cốt truyện vốn có mặt trong Cựu tạp thí dụ kinh. Tác giả nhận định rằng đấy là những văn bản truyện kể xưa nhất hiện biết của lịch sử văn học Việt Nam – trong khoảng từ thế kỷ III đến thế kỷ I [141, tr.113-116]. Trong luận văn Thạc sĩ: “Truyện dân gian Việt Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình”, tác giả Đỗ Văn Đăng đã xác định các truyện: Cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán, Hai con cò và con rùa, sự tích cá he, Của trời trời lại lấy đi, giương đôi mắt ếch làm chi được trời, Sự tích sông Nhà Bè ,.v.v.. xuất phát từ Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh và kinh Đại bảo tích [40, tr.40, 41]. Ngoài ra, theo tác giả, các truyện trong Jataka 546 có cốt truyện giống với hệ thống truyện trạng nhí của Việt Nam [40, tr.43]. Viện chứng quan trọng hơn cả chính là những dấu hiệu cổ xưa của văn hóa bản địa thể hiện ở chiều sâu cấu trúc và nghĩa lí của tác phẩm. Từ các trường hợp Tứ pháp trong Phật điện Sơn Môn Dâu, Man Nương, Quan Âm Thị Kính v.v.. Cao Huy Đỉnh đã xác định mô thức Phật bà trong các tích truyện của người Việt. Theo tác giả, đó là biểu hiện mạnh mẽ nhất của tinh thần trọng nữ trong cơ tầng văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của cư dân bản
  16. 7 địa Đông Nam Á nói chung và của người Việt nói riêng [42, tr.41- 42]. Liên quan đến đơn vị mẫu cỗ này, Giáo sư Bùi Văn Nguyên (1992) cho rằng: “Truyện Quan Âm tống tử này có thể coi là truyện Việt Nam trăm phần trăm, mặc dù tác giả (khuyết danh) nói Thị Kính người nước Cao Ly, và mặc dù, ngay ở Triều Tiên cũng có Đạo Phật. Truyện này được hư cấu theo mô-típ cổ tích, khác với truyện chúa Ba Diệu Thiện lại có liên quan đến một mô-típ truyền thuyết về thời cộng đồng Bách Việt cổ” [110, tr.66]. Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên cũng đã xác định một mẫu đề quan trọng trong Tấm Cám mà theo nhiều người có liên quan đến triết lí Phật giáo về sự luân hồi: “Trong truyện Tấm Cám, có nhân vật ông Bụt và mẫu đề “nhân vật chết đi và sống lại qua nhiều kiếp loài vật và cây cỏ”. Nhân vật ấy và mẫu đề ấy có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm vạn vật hữu linh, ở tín ngưỡng vật tổ thời cổ và phản ánh sự̣ phổ biến của đạo Phật ở nước ta” [64, tr.1608 -1609]. Quan niệm vạn vật hữu linh, tín ngưỡng vật tổ mà tác giả đề cập chính là những dữ kiện dân tộc học về mặt tín ngưỡng của cư dân Việt cổ. Chiều sâu của những nghiên cứu dân tộc học nói trên chính là sự khẳng định sức mạnh nội tại của cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á nói chung và bản lĩnh, bản sắc dân tộc nói riêng. Theo các tác giả Nguyễn Tấn Đắc và Đức Ninh, điều đó thể hiện qua xu hướng người Việt “tước bỏ nhiều yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ và thay đổi một số tiết và motif để cho phù hợp với vũ trụ quan và quan niệm đạo đức của mình.” Do đó, các bản kể của người Việt càng xa với bản gốc [37, tr.160-161]. Cụ thể hơn, bản lĩnh và bản sắc Việt thể hiện ở “tinh thần đấu tranh”của nhân dân theo quan niệm của Giáo sư Đinh Gia Khánh [81, tr.105], ở “tâm lý hướng thiện thấu đáo của dân tộc”, “tâm lý thể tất nhân tình truyền thống” và “sự chừng mực về độ” theo sự chiêm nghiệm của Giáo sư Nguyễn Đổng Chi [12, tr.1370-1371] hay là “triết lý tình thương” theo nhận định của Giáo sư Bùi Văn Nguyên [110, tr.63, 68]. v.v… Vì lẽ đó, mặc dù thoát thai từ Phật giáo, hình tượng nhân vật Bụt biểu
  17. 8 hiện sâu sắc lối sống, nếp nghĩ, tình cảm của người Việt. Sự dân tộc hóa sâu đậm đến mức ông Bụt “chỉ có cái tên làm cho ta nghĩ đến tôn giáo” (Đinh Gia Khánh) [81, tr.49-50], “là lí tưởng thiện của nhân dân không hơn không kém” (Cao Huy Đỉnh) [42, tr.61] và “đã được dân gian xếp cao hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế” và trở thành “lược lượng cứu tinh cho người cùng khổ” - một sự “dân tộc hóa triệt để ngay từ tên gọi đến sắc thái tinh thần, tâm lý và tư tưởng thẩm mỹ.” (Nguyễn Đổng Chi) [12, tr.1609]. Có thể thấy, dù không được nghiên cứu như một đối tượng chuyên biệt nhưng truyện kể có yếu tố Phật giáo luôn được ý thức trong mối quan hệ với môi trường văn hóa, cụ thể là vấn đề lịch sử tư tưởng Phật giáo trong tổng thể lịch sử tư tưởng dân tộc. Trên cơ sở đó, đối tượng này được đặt trong mối quan hệ tam giác: Văn hóa bản địa - Văn học dân gian - Văn hóa Phật giáo. Trong mối quan hệ giữa truyện kể với tôn giáo, hầu hết các khảo cứu khoa học về bộ phận truyện kể này đều đặt chúng trong môi trường văn hóa Phật giáo du nhập khá sớm, khoảng những thế kỷ đầu công nguyên, và thời kỳ truyện cổ tích phát triển nở rộ song hành với những giai đoạn huy hoàng của Phật giáo, thời đại Lý - Trần. Trong mối quan hệ giữa truyện kể với văn hóa dân tộc, giới nghiên cứu đạt đến sự thống nhất cao trong việc khẳng định: cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á đã có một bề dày lịch sử kiến tạo nên bản sắc tâm hồn dân tộc Việt Nam trước thời điểm Phật giáo được du nhập và thâm nhập vào quần chúng nhân dân. Như vậy, những viện chứng dân tộc học đã làm rõ được hai vấn đề cơ bản, đúng hơn là hai tiêu chuẩn để xếp truyện kể có yếu tố Phật giáo vào kho tàng truyện cổ dân gian đó là tính chất cổ và chất dân gian của bộ phận truyện kể này. Điều này góp phần giải quyết một trong những vấn đề khúc mắc tồn tại lâu nay trong giới nhiên cứu folklore Việt Nam về đối tượng. Thành tựu xét trên phương diện thứ hai - các đặc điểm loại hình của nhóm TCDGCYTPG - chủ yếu thuộc về các công trình học thuật trong khoảng 10 năm trở lại đây. Trước đây, bàn về đặc điểm loại hình của TCDGCYTPG, thuộc lớp
  18. 9 nghiên cứu tiền bối hầu như chỉ có cố Giáo sư Nguyễn Đổng Chi là người đưa ra những nhận định đi vào chi tiết khi ông phân tích “hình thức phát triển kết cấu chính-tà” trong cấu tạo cốt truyện và “sự chuyển hóa” để “hướng thiện” của hình tượng nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam [12, tr.1367-1369]. Từ mục tiêu nghiên cứu truyện cổ tích Việt Nam, tác giả đã chạm đến một bộ phận truyện kể “cá biệt” và phát hiện ra những đặc điểm loại hình mang tính loại biệt của đối tượng này để rồi từ những nét đặc thù ấy, tác giả khái quát thành những chiêm nghiệm độc đáo về dân tộc tính tiềm ẩn trong cấu trúc bề sâu của tâm thức dân gian. Bước sang thế kỷ XXI, hướng nghiên cứu loại hình đối với truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo được quan tâm nhiều hơn. Đầu tiên, có thể điểm qua những nhận định rải rác ở một số bài viết không nghiên cứu chuyên biệt về đối tượng. Khúc Nhã Vọng (Vũ Ngọc Khánh) nhận thấy truyện cổ có yếu tố Phật giáo “ít tính cách thần kỳ, gần với cổ tích sinh hoạt hơn” [174, tr.38]. Nguyễn Quang Vinh phát hiện từ chi tiết thị Mầu lên chùa tìm cách quyến rũ Kính Tâm motif “chài sư” vốn đã có từ trước trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam [172, tr.108]. Lê Tiến Dũng nhấn mạnh “tính chất đột biến” trong quá trình tự sự [30, tr.29] trong khi Nguyễn Xuân Đức chỉ ra “hiện tượng lẫn tuyến” và “đổi tuyến” trong sự phát triển nhân cách nhân vật của TCDGCYTPG [45, tr.59-62]. Đi sâu hơn trong hướng nghiên cứu này là các tác giả Nguyễn Hữu Sơn và Lại Phi Hùng. Trong luận án “Khảo sát loại hình tiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh”, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã dành chương III để khảo sát các yếu tố folklore và mối quan hệ giữa cốt truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh với thư tịch cổ và truyện cổ tích. Tác giả đã nêu ra mối quan hệ giữa Phật giáo và văn học dân gian thông qua việc phân tích các kết cấu, motif trong các tiểu truyện thiền sư vốn tiếp thu những motif, cốt truyện cổ tích của dân gian; sau đó, chính những motif này thâm nhập trở lại vào lòng dân gian, trở thành
  19. 10 những truyện kể dân gian, điển hình như các câu chuyện về thiền sư Minh Không, Không Lộ.v.v. [134, tr.109]. Cùng tính chất với công trình trên là bài viết “Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam”. Nguyễn Hữu Sơn và Lại Phi Hùng đã lấy Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam gồm 200 truyện làm cơ sở khảo sát và đã thống kê được 29/200 truyện có liên quan xa gần đến cảm quan Phật giáo để xác định 6 biểu hiện của cảm quan Phật giáo trong các truyện cổ tích khảo sát có thể hiện trên các cấp độ yếu tố, chi tiết, nhân vật. Các tác giả nhận định: “Tâm thức dân gian coi trọng Phật giáo và đi đến xây dựng cả một hệ mô-típ Phật thoại” [133, tr.53]. Theo các tác giả này, motif Phật thoại và “việc Phật giáo hóa những mẫu người thật, chi tiết sự thật.” Đặc biệt, công trình đưa lại một nhận định thú vị về kiểu dạng cốt truyện của nhóm đối tượng khảo sát: “Các truyện mang cảm quan Phật giáo hoàn toàn chỉ xuất hiện đậm đặc ở truyện về nguồn gốc sự vật” và “gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc nguyên mẫu”[133, tr.54-55]. Một trong những bài nghiên cứu chuyên sâu phương diện hình thức của văn bản phải kể đến bài viết “Phương diện kết cấu trong nghệ thuật kể chuyện- thuyết pháp của Jataka (những câu chuyện tiền thân đức Phật)” của tác giả Phan Thu Hiền. Trong bài viết này, người viết đi sâu phân tích sự gắn kết phương thức kể chuyện-thuyết pháp độc đáo trong Jataka theo hướng tiếp cận nghiên cứu tự sự học kết hợp văn học-văn hóa. Trên bình diện tổ chức các cấp độ truyện kể, tác giả phân tích kết cấu pháp thoại Jataka từ hình thức truyện chuỗi đến kết cấu lồng khung và kết cấu parapol. Trên phương diện tổ chức hình thức ngôn từ (cụ thể là về vấn đề thể văn), tác giả khám phá cấu tạo đan xen giữa truyện kể và thi kệ. Từng hình thức cấu tạo được tác giả mô tả chi tiết và đúc kết những nhận định khoa học thuyết phục [61]. Tiếp cận chuyên biệt về giá trị thực tiễn của Jataka là bài viết “Ảnh hưởng của Jataka trong văn hóa Đông Nam Á” của Phan Thu Hiền và Đỗ Văn Đăng. Tiếp theo sự khảo sát hệ hình cấu trúc Bổn sinh kinh, các tác giả đã đi sâu khảo
  20. 11 sát ảnh hưởng của Jataka ở Đông Nam Á nhằm làm sáng tỏ một số nét đặc thù trong bản chất Phật giáo Ấn Độ cũng như trong việc tiếp biến văn hóa Phật giáo của các quốc gia Đông Nam Á. Bài viết bàn về nguồn gốc ra đời và quá trình thâm nhập của Jataka vào văn hóa các quốc gia Đông Nam Á trên cơ sở đối sánh với quá trình này ở Trung Hoa. Từng khía cạnh thâm nhập của Jataka qua các hình thức tự sự (ngôn từ, hình ảnh, vật thể) đã được tác giả chứng minh cụ thể. Các quá trình đối lưu từ tôn giáo đi vào đời sống, từ tôn giáo đến triết học, đạo đức của Jataka đã được phân tích khá tỉ mỉ. Bài viết đã tái hiện một bức tranh sống động của văn hóa Phật giáo Đông Nam Á, trong đó Jataka đóng một vai trò đặc biệt quan trọng [63]. Từ năm 2005 đến nay, đã có 3 công trình học thuật của các học viên cao học và nghiên cứu sinh nghiên cứu sâu đặc điểm loại hình của TCDGCYTPG: luận văn Thạc sĩ “Truyện dân gian Việt Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình” của Đỗ Văn Đăng (2005), “Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưới góc độ so sánh loại hình” của Nguyễn Hữu Nghĩa (2009) và luận án Tiến sĩ “Truyện cổ Phật giáo trong truyện dân gian Việt Nam” của Đặng Thị Thu Hà (2013). Có thể thấy, tuy chưa giải quyết triệt để tình trạng bề bộn trong việc định danh đối tượng vốn tồn tại dai dẳng bấy lâu nay nhưng các tác giả đã góp phần làm sáng rõ khá nhiều vấn đề xoay quanh việc định nghĩa, phân loại và phân tích các đặc điểm loại hình của truyện kể có yếu tố Phật giáo như cấu tạo cốt truyện, hệ thống nhân vật, quỹ mô-típ đặc thù.v.v.. Sự xuất hiện với tư cách một đối tượng nghiên cứu đặc biệt trong nhiều tài liệu của giới folklore học Việt Nam đã chứng minh vị trí quan trọng của TCDGCYTPG trong kho tàng truyện cổ dân gian của dân tộc. Về TCDGCYTPG của Myanmar, cho đến nay, phần nhiều chỉ có những tuyển tập tác phẩm, như Truyện dân gian Miến Điện của Minh Trí, Văn Minh, Hoàng Hải (1963), Truyện dân gian Miến Điện của Quang Hùng, Trần Văn Phú
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2