Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm làm sáng tỏ tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin, từ khái niệm tính trữ tình cho đến những yếu tố biểu hiện tính trữ tình trong truyện ngắn (cả những yếu tố thuộc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ĐỖ THỊ HƢỜNG TÍNH TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN IVAN BUNIN Chuyên ngành : Văn học nƣớc ngoài Mã số : 9220242 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Hải Phong HÀ NỘI, 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng được bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tác giả luận án NCS. Đỗ Thị Hƣờng
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hải Phong – người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học nước ngoài, Khoa Ngữ văn và phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị em đồng nghiệp của tôi ở Viện Văn học, cô giáo tiếng Nga của tôi và gia đình đã luôn ở bên động viên tinh thần và giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện luận án. Tác giả luận án Đỗ Thị Hường
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài.............................. ..........................................................................1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi tư liệu nghiên cứu ................................................................ 3 4. Phương pháp nghiên cứu … ..................................................................................... 5 5. Giới thuyết khái niệm………… .........................................................................…..6 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……… ....................................................13 7. Đóng góp mới của luận án……… ......................................................................... .13 8. Cấu trúc luận án.. ............................................................................................. …...14 9. Lưu ý ................................................................................................................... …14 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU… .................................... .15 1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga… ............... .15 1.2. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở phương Tây.. .…22 1.3. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Việt Nam… ....... 25 CHƢƠNG 2: ẤN TƢỢNG LỜI VĂN TRỮ TÌNH…… ........................................31 2.1. Gia tăng biểu cảm lời văn … ............................................................................... 31 2.1.1. Cảm xúc hóa đối thoại …… ............................................................................ .32 2.1.2. Độc thoại hóa đối thoại và phối cảm lời kể với lời độc thoại .......................... 37 2.2. Tăng cường nhạc tính lời văn …… .................................................................... .41 2.2.1. Phép điệp tạo nhạc tính……………………… .................................…………42 2.2.2. Lời văn xen thơ, nhạc…………………… ................................................... …53 2.3. Thi vị hóa ngôn từ…… .................................................................................... …59 2.3.1. Phong vị dân gian………………………… .....................................…………59 2.3.2. Vẻ đẹp ngôn từ của đức tin và tư tưởng………… ..................................…….63 CHƢƠNG 3: CHỦ THỂ VÀ ĐỐI TƢỢNG TRỮ TÌNH.. ............................ ……74 3.1. Chủ thể trữ tình - Người kể chuyện “chủ quan” ..................... ........................... .74 3.1.1. Người kể chuyện toàn tri “thâu tóm” cảm xúc........... ......................................75
- 3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất– nhân vật “trải nghiệm” cảm xúc… .......…...78 3.1.3. Luân chuyển người kể chuyện, thống nhất xúc cảm… ........................... …….81 3.2. Nước Nga trong miền hoài niệm……………… ..........................................…...84 3.2.1. Thiên nhiên Nga trong vẻ đẹp vĩnh hằng……… ..................................………85 3.2.2. Điền trang – thế giới của kỷ niệm…………… .......................................……..90 3.3. Vẻ đẹp nữ vĩnh hằng………………………… ......................................………..98 3.3.1. Những bức chân dung “ấn tượng”……….……… ............................... ………98 3.3.2. Những tâm hồn Nga cứu rỗi………………… ...............................…………104 3.3.2.1. Tình yêu cứu rỗi……………………………… ...........................…………105 3.3.2.2. Lí tưởng cứu rỗi………………………………… ..........................……….109 CHƢƠNG 4: CỐT TRUYỆN TRỮ TÌNH VÀ CẢM THỨC BI HOÀI ............114 4.1. Những mô thức cảm xúc – sự kiện ………… .............................................. ….114 4.1.1. Cảm xúc tiếc nuối – dòng chảy “hoài niệm”…… ..........................................114 4.1.2. Cảm xúc mãnh liệt – khoảnh khắc “hiện tại”……… .................................…117 4.1.3. Cảm xúc “an phận” – vòng đời “tĩnh lặng”… .....................................……...119 4.1.4. Vòng tuần hoàn cảm xúc – sự kiện……… ........................……………….....122 4.2. Cốt truyện hành trình tâm trạng… .....................................................................127 4.2.1. Chuỗi cốt truyện tâm trạng tuyến tính… .................................................. …..127 4.2.2. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi tuyến tính ..........................................………132 4.2.3. Chuỗi cốt truyện tâm trạng phi sự kiện…..........................................…….....135 4.3. Cảm thức bi hoài – nguồn mạch trữ tình truyện ngắn Bunin ............................ 138 4.3.1. Cái đẹp và cảm thức bi hoài………… .......................................…………….139 4.3.2. Tình yêu trong cảm thức bi hoài…… .........................................……………142 4.3.3. Khoảnh khắc cảm thức bi hoài……........................................………………144 KẾT LUẬN…………… ........................................................................…………..148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Một trong những thước đo khẳng định vị thế văn học hiện nay là giải Nobel văn học. Nước Nga, với 5 lần được vinh danh, xứng đáng là một nền văn học danh tiếng. Điều đặc biệt là, người khởi đầu cho “chuỗi giải thưởng Nobel văn học của Nga” Ivan Bunin vốn là một người Nga lưu vong. Và cũng rất đặc biệt, “khác với các nhà văn Nga lưu vong đợt đầu tiên, các tác phẩm của Bunin đã được xuất bản ở Liên Xô ngay dưới thời chính quyền Xô viết” [34; tr. 15]. Nói cách khác, Bunin đã được “trở về” Tổ quốc bằng chính những sáng tác rất Nga của mình. Điều đó khẳng định vị thế, vai trò và sức mạnh của văn chương Bunin ở ngay chính nước Nga quê hương ông và trên thế giới. Ivan Alekseevitr Bunin (1870 – 1953) là nhà văn, nhà thơ Nga, viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Peterburg (1909), giải Nobel Văn học (1933). Bunin được biết đến trước hết là một nhà thơ, nhưng giải Nobel được trao cho ông vì những sáng tác văn xuôi “kế tục truyền thống vĩ đại của kỷ nguyên rực rỡ thế kỷ XIX ở những điểm khả thủ cho sự phát triển”, vì “tài năng xuất chúng và siêu việt của riêng ông, nó làm nên dấu ấn của kiệt tác cho văn nghiệp của ông” [186]. Có thể nói người viết văn xuôi mang đậm cốt cách thi sĩ Bunin đã làm rạng danh cho văn học Nga bằng những tác phẩm được cả thế giới ngưỡng mộ: Làng, Sukhodol, Quý ông từ San Francisco đến, Tình yêu của Mittia, Cuộc đời Arseniev và những truyện ngắn tuyệt phẩm Những quả táo Antonov, Say nắng, Hơi thở nhẹ, Chiếc cốc đời, Ngày thứ Hai chay tịnh…. Bằng những trang văn của mình, nhà văn “đơn độc trong một kỷ nguyên nhiều biến động” [186] đưa người đọc về với thế giới thuần Nga của thế kỷ trước với những khung cảnh cổ kính xa xưa, trầm mặc, với không gian nông thôn ngập tràn hương thơm của táo Antonov, những con đường rợp bóng cây xanh hay làn hơi thở nhẹ lan đi “dưới bầu trời đầy mây, trong gió xuân lành lạnh”… Ở Việt Nam, tác phẩm của Bunin được dịch từ cuối thập niên 80 của thế kỉ XX. Năm 1987, dịch giả Hà Ngọc đã giới thiệu với độc giả Việt những truyện ngắn: Hơi thở nhẹ, Quý ông từ San Francisco đến, Chiếc cốc đời, Canh khuya, Những quả táo Antonov… Sau đó, các dịch giả Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân bổ sung thêm nhiều tác phẩm nổi tiếng khác: Trên biển đêm khuya, Rusya, Natali, Lần gặp cuối cùng, Một
- 2 chuyện tình nhỏ, Kavkaz… Gần đây nhất, dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền đã giới thiệu những truyện ngắn Galia Ganskaya, Con quạ, Tania, Ở Paris. Vì thế, không khó để tiếp cận và yêu thích Bunin. Với chúng tôi, tình yêu với Bunin và những truyện ngắn đậm chất trữ tình của ông cũng xuất phát từ những áng văn đẹp đẽ và sâu lắng đã được chuyển ngữ ấy. Bunin trưởng thành trong giai đoạn “Phục Hưng” của văn chương Nga - Thế kỷ Bạc với rất nhiều trường phái mới xuất hiện. Những người đương thời với Bunin đều dấn thân vào các cuộc phiêu lưu với chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa đỉnh cao… Khi viết văn xuôi, Bunin vẫn kế thừa truyền thống vĩ đại của chủ nghĩa hiện thực Nga, với Lev Tolstoy, Anton Chekhov... đồng thời “âm thầm” đổi mới nó bằng những kỹ thuật và thủ pháp tự sự của “chủ nghĩa hiện đại”, gia thêm cho nó xúc cảm của một nhà thơ, để người đọc thậm chí có ấn tượng văn xuôi Bunin “trữ tình hơn cả thơ trữ tình của chính nhà văn” [theo Gleb Struve - 194; tr. 424]. Các tác phẩm văn xuôi của Bunin, đặc biệt là truyện ngắn giống như những bài thơ văn xuôi bề mặt thì nhẹ nhàng thanh khiết nhưng lại chứa đựng “mạch ngầm trữ tình” bên trong, mà nếu khám phá được mạch ngầm ấy sẽ phần nào hiểu và cảm được tâm hồn Nga rất Nga của nhà văn lưu vong trên đất Pháp. Tuy nhiên chính “mạch ngầm trữ tình” này khiến cho việc “tiếp cận” truyện ngắn của ông không dễ dàng như thưởng thức chúng. Cần có cả cái nhìn tự sự và trữ tình kết hợp với trực giác nghệ thuật khi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Bunin nói riêng và văn xuôi Bunin nói chung. Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để giúp người khác cũng thấy được sức quyến rũ của truyện ngắn Bunin, làm thế nào để làm nổi bật cái hay, cái tài của nhà văn, làm thế nào để chỉ ra được “chất” Bunin? Đó là điều không dễ dàng. Chúng tôi lựa chọn đề tài Tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin, gắng sức trả lời những câu hỏi khó khăn trên, để bày tỏ tình yêu với văn học Nga, với nhà văn Ivan Bunin, góp một tiếng nói vào việc giới thiệu, nghiên cứu Bunin ở Việt Nam, đồng thời mong muốn có những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu, giảng dạy về hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học nói chung. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- 3 Mục đích nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là làm sáng tỏ tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin, từ khái niệm tính trữ tình cho đến những yếu tố biểu hiện tính trữ tình trong truyện ngắn (cả những yếu tố thuộc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật); qua đó xác định mối liên hệ của tính trữ tình với chiều sâu tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn, hay nói cách khác là làm rõ “chất” Bunin trong văn xuôi Nga và thế giới, xác định những đóng góp của Bunin cho sự phát triển của văn học thế giới, cũng như tiếng vọng sáng tác của ông vào đời sống văn học đương đại. Để thực hiện được mục đích trên, chúng tôi đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau: - Xác định những yếu tố tạo ấn tượng trữ tình trên bình diện tổ chức ngôn từ, hình tượng sự vật như sự gia tăng xúc cảm, tăng cường nhạc tính, thi vị hóa lời văn trong truyện ngắn Bunnin. - Tìm hiểu đặc trưng biểu hiện của các dạng thức chủ thể trữ tình (người kể chuyện, nhân vật) và những đối tượng chủ yếu khơi dậy xúc cảm trữ tình trong truyện ngắn của Bunin; qua đó phần nào xác định cảm hứng chủ đạo kết nối tác giả - nhân vật – người đọc trong tác phẩm. - Làm sáng tỏ các mô thức thức cảm xúc – sự kiện, cũng như các kiểu cốt truyện trữ tình trong tổ chức trần thuật của truyện ngắn Bunin; xác định cảm thức bi hoài toát lên từ các truyện ngắn Bunin như nguồn mạch trữ tình chủ yếu bắt nguồn từ cảm quan nghệ thuật của nhà văn; từ đó xác định phong cách truyện ngắn trữ tình của nhà văn cũng như những đóng góp của Bunin trong cách tân thể loại truyện ngắn. 3. Đối tƣợng, phạm vi tƣ liệu nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các truyện ngắn của Ivan Bunin. Cụ thể hơn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu tính trữ tình như nét đặc trưng cho phong cách truyện ngắn của Bunin để thấy được tài năng cùng phong cách nghệ thuật tinh tế trong cá tính sáng tạo của nhà văn, phần nào chỉ ra được cơ chế hòa hợp của chất trữ tình trong tác phẩm tự sự. Đặc biệt, qua việc tìm hiểu tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin, chúng tôi muốn khẳng định “truyền thống trữ tình” trong sáng tác của các nhà văn Nga từ cổ điển cho đến hiện đại. Đây cũng là một giá trị riêng của nền văn học đồ sộ này.
- 4 3.2. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu Truyện ngắn chiếm một số lượng rất lớn trong sự nghiệp của Ivan Bunin. Suốt cuộc đời cầm bút, ông đã để lại 21 tập truyện ngắn và truyện vừa. Trong số đó mới chỉ có 34 truyện ngắn được dịch sang tiếng Việt. Đây là một con số rất khiêm tốn. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi ưu tiên đi sâu nghiên cứu những truyện ngắn theo chúng tôi là tiêu biểu nhất cho phong cách của Bunin (kết hợp với đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thông qua các sách, tạp chí và dựa trên tiêu chí những tác phẩm được chọn dịch ở phương Tây và Việt Nam). Đó là những tác phẩm nằm trong các tập: Những truyện ngắn 1892-1901; Những truyện ngắn, truyện vừa 1902-1910; Những truyện ngắn, truyện vừa 1911-1914; Nước vô biên (1914-1926), Ngữ pháp tình yêu (1914-1926), Cây thần/ Cây Thiên Chúa (1927-1931), Những lối đi dưới hàng cây sẫm tối (1938-1953), Những truyện ngắn những năm cuối đời (1931-1952). Ngoài ra còn có những truyện ngắn không được đưa vào các tuyển tập xen kẽ giữa các giai đoạn trên. Văn bản chúng tôi sử dụng trong luận án: -Văn bản tiếng Nga: Бунин И.А. (2006) Полное собрание сочинений в ХIII томах, “Воскресенье”, Москва [99]. Truyện ngắn của Bunin tập trung ở các tập 1, 2, 3, 4, 5, 6 gồm 188 tác phẩm. - Văn bản tiếng Việt: + I.A.Bunin, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao động, H., 2002 (Phan Hồng Giang giới thiệu, Hà Ngọc, Phan Hồng Giang, Thái Bá Tân, Hữu Việt, Đoàn Tuấn dịch từ nguyên bản tiếng Nga). + Ivan Bunin, Những lối đi dưới hàng cây tăm tối, Nxb Văn học - Nhã Nam, H., 2006. In lại từ Ivan Bunin, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học; H., 1987 (Hà Ngọc dịch và giới thiệu). + Ivan Bunin, Hơi thở nhẹ, Nxb Hội Nhà văn, H., 2006. In lại từ Ivan Bunin, Nàng Lika, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, H., 1988 (Phan Hồng Giang dịch và giới thiệu). + Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 6/2003. + Truyện ngắn Bunin trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 10/2011.
- 5 + Truyện ngắn của Ivan Bunin trên internet (Nguyễn Thị Kim Hiền dịch). - Văn bản tiếng Anh: + Bunin I. (2007), Collected Stories, Ivan R.Dee Chicago Publisher, Chicago, USA, (Graham Heltlinger translated). + Bunin I. (2008), Dark Avenues, Oneworld Classic publisher, London, United Kingdom, (Hugh Aplin translated). 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án triển khai hướng tiếp cận chủ đạo là tiếp cận hệ thống kết hợp với tiếp cận lịch sử - văn hóa. Chúng tôi xem xét các truyện ngắn của Bunin không chỉ như các tiểu hệ thống với tính chỉnh thể của nó, mà còn nghiên cứu loại hình hóa các tác phẩm này trong toàn bộ hệ thống sáng tác của Bunin với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài liên quan đến các vấn đề tiểu sử, bối cảnh văn hóa – xã hội – lịch sử. Sáng tác của Ivan Bunin trải qua hai giai đoạn được phân định rõ ràng: trước và sau Cách mạng Tháng Mười. Chúng tôi xem xét cả hai giai đoạn sáng tác truyện ngắn này cùng với mảng sáng tác thơ trong cùng một hệ thống phong cách nghệ thuật tuy có những nét đặc trưng riêng, có biến đổi, song vẫn có thể xác định được đặc điểm chung làm nên một thế giới nghệ thuật nhất quán. Cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu của chúng tôi là vấn đề vừa mang tính chất khoa học vừa mang tính chất mĩ học: tính trữ tình. Xem xét những vấn đề nội hàm của thuật ngữ trên cả hai phương diện cho phép chúng tôi có một cái nhìn vừa bao quát vừa cụ thể về đặc trưng này trong văn học, cụ thể ở đây là truyện ngắn của Bunin. Truyện ngắn của Bunin dù đậm tính trữ tình, vẫn thuộc thể loại tự sự. Bởi thế đối tượng đặc biệt này cần được soi chiếu từ góc độ lí thuyết tự sự. Chúng tôi kết hợp vận dụng hướng nghiên cứu thi pháp học với lí thuyết trần thuật học hiện đại làm nền tảng cho những nghiên cứu của mình. Theo chúng tôi, việc sử dụng các lí thuyết này trong việc nghiên cứu truyện ngắn của Ivan Bunin là hợp lí và khả thi, bởi những truyện ngắn của Bunin, dù được coi là tiếp nối truyền thống hiện thực cổ điển của văn học Nga thế kỷ XIX, vẫn rất mới mẻ và hiện đại. Trong luận án, chúng tôi còn sử dụng những thao tác nghiên cứu cụ thể sau:
- 6 - Thống kê – phân loại: khảo sát, thống kê, phân loại các dạng thức người kể chuyện, các mô thức cảm xúc trữ tình, các dạng thức cốt truyện và các dạng thức điệp trong tác phẩm. - Phân tích – tổng hợp (văn học và ngôn ngữ học): được sử dụng trong việc làm rõ giá trị cũng như chức năng thẩm mĩ cùng ý nghĩa của những thủ pháp, những phương thức nghệ thuật của Bunin trong truyện ngắn. - So sánh – đối chiếu: là thao tác cần thiết trong việc xác định nét đặc trưng của tính trữ tình trong văn xuôi Bunin với tính trữ tình của các nhà văn trước ông, những nhà văn cùng thời và những nhà văn sau ông. 5. Giới thuyết khái niệm 5.1. Khái niệm “tính trữ tình” Điểm mấu chốt trong đề tài Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin là xác định nội hàm khái niệm tính trữ tình và đặc trưng tính trữ tình trong truyện ngắn, trên cơ sở đó phân tích, lí giải những biểu hiện của tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. Đây là một việc làm không dễ dàng, bởi trong các Từ điển tiếng Việt, Từ điển thuật ngữ văn học ở Việt Nam, khái niệm tính trữ tình không được các nhà nghiên cứu, biên soạn đưa vào thành một mục từ độc lập. Chúng ta chỉ gặp thuật ngữ “trữ tình”, “thơ trữ tình”, “nhân vật trữ tình”. Vì vậy, để xác định nội hàm khái niệm tính trữ tình, chúng tôi dựa vào nội dung khái niệm tương đương trong các từ điển tiếng Nga và tiếng Anh, từ đó trình bày cách hiểu về thuật ngữ tính trữ tình cũng như những biểu hiện cơ bản của tính trữ tình trong truyện ngắn nói chung và truyện ngắn Ivan Bunin nói riêng. Theo các từ điển Thuật ngữ Văn học – Mĩ học Nga – Pháp – Việt, Từ điển Anh – Nga, Từ điển Anh – Việt, thuật ngữ tính trữ tình/tính chất trữ tình tương đương với thuật ngữ лиризм trong tiếng Nga và lyricism trong tiếng Anh. Thực tế, лиризм và lyricism được các từ điển trên giải thích sang tiếng Việt tương đương với thuật ngữ tính chất trữ tình, (tính chất) trữ tình, tính trữ tình. Ở đây, chúng tôi thống nhất sử dụng ba thuật ngữ tính trữ tình - лиризм - lyricism trong cùng một nội hàm ý nghĩa mà chúng tôi sẽ giải thích cụ thể dưới đây.
- 7 Trước hết, chúng tôi chủ ý lựa chọn thuật ngữ tính trữ tình chứ không phải thuật ngữ chất trữ tình hay tính chất trữ tình. Căn cứ vào nghĩa từ nguyên của “tính”, “chất” và “tính chất” theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh (“Tính: Nguyên lí sở dĩ sinh ra người – Bản nguyên về tinh thần của người – Bản chất của người hoặc của vật”. Tính được dùng với nội hàm ý nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn so với chất (với nghĩa tính chất) và tính chất (với nghĩa bản tính) [1; tr. 400]), chúng tôi nhận thấy: Tính là bản chất, thuộc tính của con người hoặc sự vật, giúp phân biệt con người này với con người khác, sự vật này với sự vật khác. Tính về cơ bản đồng nghĩa với chất và tính chất, tuy nhiên thuật ngữ tính gợi ra sự liên kết cao độ trong hệ thống của các yếu tố, thiên về định tính và khái quát, còn thuật ngữ chất và tính chất thiên về sự thống kê cụ thể các yếu tố của hệ thống, thiên về tính định lượng và tổng kết. Tính mang nội hàm khái niệm danh từ (xét về mặt từ loại) cao hơn chất và tính chất (thiên về nội hàm tính từ). Do đó dùng thuật ngữ tính sẽ chỉ ra được mức độ liên kết sâu sắc mang bản chất của các yếu tố làm nên sự vật, đồng thời cho thấy sự sáng tạo, khoa học và khái quát cao hơn trong nghiên cứu một đối tượng khoa học. Tìm hiểu nội hàm khái niệm của thuật ngữ tính trữ tình - лиризм và lyricism, chúng tôi nhận thấy thuật ngữ này được nhìn nhận dưới nhiều góc độ ý nghĩa phong phú, nhưng tương đối thống nhất. Trong tiếng Anh (American English) lyricism được hiểu theo hai nghĩa: 1. Đặc điểm hay phong cách trữ tình, thường trong thơ. 2. Cảm xúc trữ tình, nhiệt tình, đặc biệt khi cảm xúc không bị kiềm chế hay khi cảm xúc thái quá [The Random House Unabridged Dictionary, 189]. British Dictionary cũng xác định lyricism là: 1. Phẩm chất, đặc tính hay phong cách của thơ ca trữ tình. 2. Sự dạt dào của tình cảm hay lòng nhiệt tình [Collins English Dictionary, 189]. Còn trong Từ điển Nga - Nga, лиризм được giải thích: 1. Sự xúc cảm, sự tha thiết, xúc động của thơ ca (trong tác phẩm nghệ thuật). 2. Bản chất trữ tình, tâm trạng/ tư tưởng trữ tình [110; tập 2, tr. 187]. Từ điển Tiếng Nga của Ozhegov thì khẳng định лиризм. 1. Đặc trưng trữ tình, nội dung trữ tình. 2. Sự nhạy cảm với cảm xúc của tâm trạng, sự mềm mại và tinh tế của cảm xúc [144; tr. 279]. Như vậy, bản thân thuật ngữ tính trữ tình trong
- 8 các ngôn ngữ nước ngoài cũng nhấn mạnh khía cạnh tình cảm, cảm xúc được biểu hiện mạnh mẽ, tinh tế, nhạy cảm đặc biệt trong các tác phẩm nghệ thuật, phổ biến là thơ ca. Với tư cách là một thuật ngữ văn học, лиризм được định nghĩa như sau: Là một phạm trù thẩm mĩ, một dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là sự/nỗi xúc cảm thầm kín và riêng tư của con người [150]. Đặc biệt, cảm xúc, cảm giác, tâm trạng của nhân vật và của tác giả tác phẩm văn học thuộc “phạm trù лиризм” được biểu lộ một cách trực tiếp và mở [89]. Theo các từ điển ngôn ngữ Nga và các từ điển thuật ngữ văn học của Nga, nghĩa của лиризм xuất phát từ лирика, лиризм gần với thuật ngữ лиричность (chất trữ tình). Theo chúng tôi khảo sát, thuật ngữ лиризм được sử dụng với ý nghĩa chủ động hơn, phổ quát hơn, mang tính quan niệm của tác giả hơn là thuật ngữ лиричность được sử dụng để chỉ chất trữ tình thường không mang tính đặc thù cho một phong cách. Bởi vậy, chúng tôi lựa chọn лиризм thay vì лиричность. Tìm hiểu từ nguyên của лиризм, chúng tôi cũng khảo sát nội hàm ý nghĩa của thuật ngữ лирика để từ đó đưa ra được những nét đặc trưng được coi là tiêu chí cho tính trữ tình лиризм. Trước hết, trong Từ điển Nga - Nga, лирика có ba ý nghĩa: 1. Một trong ba loại/phương thức cơ bản của văn học nghệ thuật, trong đó thực tế được phản ánh một cách sâu sắc thông qua những cảm xúc tha thiết, tư tưởng và tâm trạng của tác giả. Là yếu tố cảm xúc trong tác phẩm của một nhà văn. 2. Một thể loại văn học, cụ thể thơ trữ tình. 3. Tính đa cảm, đa tình, dễ cảm, dễ xúc động [110; tập 2; tr. 186]. Trong các Từ điển thuật ngữ văn học, лирика được phân tích trên các khía cạnh: - Trữ tình là sự biểu hiện của cảm xúc, nhân vật chính của nó là tình cảm, nó sẽ hiển thị những xúc cảm của trái tim, tất cả những giai điệu của âm nhạc tâm hồn. - Nhà thơ trữ tình trong tính chủ quan của mình buộc phải hiểu mình và làm mê đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người; đó chính là một trong những nét quyến rũ nhất của anh ta: nói về mình, kể về mình, anh ta cũng đồng thời nói với chúng ta, anh ta làm cho độc giả cũng hiểu tình cảm của anh ta; tâm hồn nhà thơ-tâm hồn nhân loại, và ở đây cái chủ quan hòa làm một với vẻ đẹp kỳ diệu của cái khách quan. - Trong một bài thơ trữ tình, đặc biệt quan trọng là âm nhạc của câu thơ, giai điệu; âm nhạc và giai điệu này thấm vào ngôn từ của bài thơ đó. Và thứ âm nhạc này không
- 9 đơn giản giống như hành động đệm đàn, hay thậm chí chỉ là một yếu tố phụ bên ngoài, có thể có hoặc không. Không, nó là một phần không thể thiếu của bài thơ, một trong những yếu tố quan trọng nhất thuộc về bản chất bên trong của thơ. Shiller cho rằng âm nhạc trong nhiều bài thơ trữ tình của ông xuất hiện trong tâm hồn của ông trước khi văn bản thành hình. Đáng chú ý là, khi tính trữ tình thẩm thấu/thâm nhập vào không chỉ những câu thơ, mà còn văn xuôi, nó sẽ biểu lộ/ làm nên tính giai điệu rõ rệt, và nó gắn tất cả vào cùng một bản nhạc. - Nhà thơ trữ tình cảm nhận được chất thơ trong chính mình và trong cả thế giới rộng lớn bên ngoài, do đó trong thơ của mình, anh ta giải quyết được các vấn đề phổ quát của thế giới và chính mình, thống nhất thực tế khách quan và thực tại tâm lí thành một thể thống nhất hữu cơ. Những sự phân tích trên của các học giả người Nga (Iu.Podolsky và N.Iu.Rusova) trong Từ điển thuật ngữ Văn học [94], [150] cho thấy một cái nhìn tổng thể về phương thức trữ tình như là một trong ba phương thức biểu hiện cơ bản nhất của văn học, đồng thời tập trung khẳng định thể loại thơ trữ tình với tư cách là thể loại biểu hiện tính trữ tình đậm đặc nhất. Ở Việt Nam, thuật ngữ “trữ tình” cũng được giải thích rất cụ thể thông qua cách kết hợp nghĩa từ nguyên với lịch sử phát triển của các hình thái, các phương thức biểu đạt của văn học. Trữ tình là “một trong ba phương thức thể hiện đời sống (bên cạnh tự sự và kịch), làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện lại một cách khách quan các hiện tượng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh” [33; tr. 373]. Những nét đặc trưng nhất của phương thức trữ tình được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh trên các khía cạnh: - Nguyên tắc chiếm lĩnh hiện thực: nguyên tắc chủ quan là nhân tố cơ bản quy định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình. - Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng. Do đó nó thường không có cốt truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này và dung lượng thường ngắn.
- 10 - “Cái tôi” trữ tình giữ vị trí đặc biệt quan trọng vì nó là nguồn trực tiếp duy nhất của nội dung tác phẩm. “Cái tôi” trữ tình thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình. - Xúc cảm trong tác phẩm trữ tình bao giờ cũng là xúc cảm đương đại. Ngay cả khi tác phẩm trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc cảm trữ tình vẫn thể hiện như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra. - Tác phẩm trữ tình thâm nhập vào những chân lí phổ biến nhất của tồn tại con người như sống, chết, tình yêu, lòng chung thủy, ước mơ, tương lai, hi vọng. - Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu. Tác phẩm trữ tình bao gồm thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Tuy nhiên, thơ trữ tình vẫn chiếm ưu thế và thể hiện được đầy đủ nhất những đặc trưng của thể loại này. Căn cứ vào các đặc điểm trên, các tác phẩm được coi là trữ tình trước hết phải là các tác phẩm giàu xúc cảm, ngôn từ giàu hình ảnh và nhịp điệu, bộc lộ ý thức cá nhân sâu sắc của tác giả trước các vấn đề mang tính phổ quát về sự tồn tại con người, đồng thời lôi cuốn người đọc hòa vào dòng xúc cảm, suy tưởng về những vấn đề ấy,. Trong cuốn Tính trữ tình của văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX nhà nghiên cứu V. Ostaptseva, viện dẫn ý kiến của M. Kniazeva trong luận án Tính trữ tình như một loại hình cảm hứng chủ đạo, đặc biệt nhấn mạnh chủ quan tính, khẳng định tính trữ tình trước hết là “khởi nguồn mang tính cá nhân được ý thức, được biểu lộ qua nhân vật trữ tình, và công khai thể hiện chủ quan tính của tác giả” [145; tr. 4]. Cũng cùng quan điểm với Ostaptseva, Luo Sichen trong bài viết Phạm trù tính trữ tình trong văn xuôi của Bunin (khía cạnh ngôn ngữ) dẫn ý kiến của Epishkin khẳng định hai nét nghĩa của tính trữ tình: “sự xúc động, cảm xúc, sự chân tình trong tác phẩm nghệ thuật” và “tâm trạng trữ tình” [128; tr. 419]. Tác giả bài viết cũng liệt kê cụ thể những dấu hiệu của tính trữ tình: cảm xúc của tác giả trong tác phẩm; tâm trạng trữ tình của tác giả thể hiện trong tác phẩm; lời của chủ thể trữ tình hay nhân vật; yếu tố kết cấu và ngôn ngữ của văn bản thơ ca phục vụ cho việc truyền đạt tâm trạng trữ tình; tinh thần trữ tình thể hiện trong những tác phẩm văn xuôi của tác giả làm cho chúng gần với thi ca về phương diện xúc cảm – hình tượng [128; tr. 419]. Từ tất cả những lí giải trên về thuật ngữ лирика, лиризм, lyricism chúng tôi đưa ra cách hiểu của mình về thuật ngữ tính trữ tình: tính trữ tình là một phạm trù thẩm mĩ, một
- 11 dạng đặc trưng đặc biệt của tư duy nghệ thuật, trong đó nổi trội là nỗi xúc cảm thầm kín và riêng tư của con người được thể hiện trực tiếp và cảm nhận một cách tương đối thống nhất trong mối quan hệ đồng điệu tác giả - nhân vật - người đọc. Cụ thể hơn, những tiêu chí của tính trữ tình trong tác phẩm gồm có: tình cảm, cảm xúc là yếu tố quan trọng hàng đầu, nhân vật trữ tình nói về mình nhưng biểu lộ được tất cả những gì thầm kín nhất, sâu sắc nhất, phổ quát nhất cho toàn nhân loại, âm nhạc và nhịp điệu là thành tố không thể thiếu, thiên nhiên và thế giới bên ngoài hòa hợp với thế giới bên trong tâm hồn con người và quan trọng nhất là tác giả, trong tính chủ quan của mình “buộc phải hiểu mình và làm mê đắm những người khác, làm mê đắm tất cả mọi người”, cuốn người đọc vào dòng xúc cảm của mình và của nhân vật trong tác phẩm. Sự thống nhất xúc cảm của ba chủ thể thẩm mỹ này làm nên sự quyến rũ đậm tính trữ tình cho tác phẩm. 5.2. Đặc trƣng tính trữ tình trong truyện ngắn Như đã phân tích ở trên, phương thức trữ tình, theo cấu trúc ngôn từ, bao hàm trong nó cả thể loại thơ và văn xuôi. Thực tế, rất nhiều sáng tác của các cây bút văn xuôi mang đậm yếu tố trữ tình và thường được gọi chung là văn xuôi trữ tình. V.I. Maslovsky trong Từ điển Bách khoa toàn thư văn học (1987) của Nga có xem xét văn xuôi trữ tình - лирическая проза như “một biến thể phong cách của văn xuôi nghệ thuật”, trong đó “đồng thời tồn tại cả những yếu tố loại hình của tự sự, cũng như trữ tình. Thừa hưởng từ tự sự những biểu hiện nhất định của cốt truyện, nhiều nhân vật, những yếu tố tính cách hoá nhân vật và lời văn không vần điệu ngoại trừ một số ít trường hợp. Thừa hưởng từ trữ tình,- sự góp mặt của chủ thể trần thuật (tác giả, người kể chuyện, nhân vật), điểm nhấn cực đoan của những tình tiết hay những từ ngữ cụ thể biểu cảm, và cả sự tăng cường vai trò quan trọng đặc biệt của những leitmotiv chủ đạo, trong bối cảnh cốt truyện suy yếu, những leitmotiv này trở thành yếu tố kiến tạo. Sự thẩm thấu vào nhau của chất tự sự và trữ tình trong văn xuôi trữ tình được bảo đảm bởi vai trò đặc biệt của chủ thể trần thuật, về nguyên tắc, trở thành trung tâm kết cấu tác phẩm. Những yếu tố tự sự (sự kiện, tính cách) hoà trong dòng chảy dào dạt của những liên tưởng, trữ tình ngoại đề, dường như dịch chuyển vào bên trong tâm thức trần thuật và được hoàn kết bởi chỉnh thể tâm thức
- 12 đó” [121; tr. 185]. Như vậy, văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của tính tự sự và tính trữ tình. Ở đây chúng tôi muốn nói đến truyện ngắn, thể loại tiêu biểu thuộc phương thức tự sự trong tương quan với thơ, là thể loại tiêu biểu thuộc phương thức trữ tình. Đặc trưng của truyện ngắn là “khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người”. Nhân vật truyện ngắn thường hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người. Truyện ngắn thường có kết cấu đơn tầng, đơn tuyến, thường được xây dựng theo nguyên tắc “liên tưởng” hoặc “tương phản” chứ không đa tầng, nhiều tuyến. Cốt truyện của truyện ngắn thường là một lát cắt của cuộc sống thường ngày, diễn ra trong thời gian và không gian hạn chế với chức năng khám phá một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Yếu tố quan trọng nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đọng, giàu ý nghĩa biểu đạt và nhiều ẩn ý [33; tr. 371]. Còn đặc trưng của thơ là “hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [33; tr. 309]. Truyện ngắn trữ tình, như một bộ phận của văn xuôi trữ tình, cũng mang đặc trưng cơ bản nhất của thể loại này, đó là sự chi phối của cảm xúc tới các yếu tố của phương thức tự sự như đã nói ở trên, đặc biệt là cốt truyện và ngôn từ. Nếu văn xuôi trữ tình là sự hài hòa của văn xuôi và thơ, của tính tự sự và tính trữ tình thì truyện ngắn trữ tình cũng chứa đựng trong nó sự hài hòa đó. Do đó, xem xét tính trữ tình trong truyện ngắn, trước hết chúng tôi khẳng định bản chất tự sự của thể loại này và xem xét sự “biến đổi” của chúng dưới tác động của những đặc trưng của tính trữ tình như là phong cách, là “chất”, là “cá tính sáng tạo” của nhà văn. Tính trữ tình trong truyện ngắn, như vậy, nói một cách chính xác, là sự hòa hợp của yếu tố thơ trong văn xuôi, của phương thức trữ tình trong phương thức tự sự, của cảm xúc trong cốt truyện, tình huống, của âm điệu, nhịp điệu trong lời văn, của cái chủ quan trong cái khách quan của hiện thực. Vì thế, bên cạnh việc làm rõ những đặc trưng tự sự, cần làm rõ cả những yếu tố trữ tình được biểu hiện trong tác phẩm (tình cảm chủ đạo, nhân vật, ngôn ngữ...) và nguyên tắc liên kết, hòa hợp những yếu tố đó của tác giả. Trong luận án Những hình thức và chức năng của tính trữ tình trong văn xuôi I.A.Bunin những năm 1920, tác giả Elena Kapinos khẳng định quan điểm của Shmid về
- 13 những tiêu chí của tính trữ tình trong văn xuôi, khiến nó gần với thơ: “cự tuyệt kết cấu tuyến tính”, “biểu tượng của cảnh và các chi tiết”, “nguyên tắc liên kết các thành tố”, “lắp ghép”, “giàu ẩn ý”, “sự đa dạng của nhịp điệu và hình ảnh”, “kết hợp hình tượng tạo hình – hội họa – cảm xúc với sự tổng hợp nhiều nghệ thuật khác”, “sự tương tác các thành tố khác nhau trong thể loại” [118]. Nhà nghiên cứu Ostaptseva trong cuốn Tính trữ tình của văn xuôi Nga những năm 30 của thế kỷ XIX [145] cũng đã tổng kết những yếu tố làm nên tính trữ tình trong một tác phẩm văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Đó là: tính chủ quan hay tính cá nhân; thiên nhiên và sự hợp nhất con người – thiên nhiên; sự hài hòa giữa cái hữu hạn – cái vô hạn, giữa thời gian – vĩnh hằng, khoảnh khắc – vĩnh cửu; cảm xúc và các motif cảm xúc; nhịp điệu (ngữ âm, cú pháp, kết cấu khung); các thủ pháp âm nhạc; các ngụ ý, biểu tượng, “âm bản” – “ý nghĩa ngầm” của văn bản. Về cơ bản, trong quan điểm của các tác giả nói trên đều có những sự trùng hợp nhất định, góp phần tạo nên sự thống nhất cao độ trong việc xác định những yếu tố làm nên tính trữ tình trong truyện ngắn. Có thể nói đó là những tiêu chí cơ bản giúp một tác phẩm nghệ thuật tự sự mang đậm dấu ấn trữ tình. Tuy nhiên, đối với từng nhà văn, từng tác phẩm, những biểu hiện của tính trữ tình lại không hoàn toàn giống nhau, điều đó phụ thuộc vào cá tính, khí chất và tài năng của mỗi người. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Luận án sẽ đóng góp vào việc nghiên cứu chuyên sâu một tác gia lớn của văn học thế giới - Ivan Bunin, góp phần mở rộng và khơi sâu những nghiên cứu về văn học Nga ở Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu tính trữ tình trong truyện ngắn của Bunin, luận án cho thấy ý nghĩa của hiện tượng giao thoa, tổng hoà giữa các thể loại tự sự và trữ tình như biểu hiện quan trọng trong khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật của chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ XX, góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu tính trữ tình trong văn xuôi nước ngoài. Phương pháp, những kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào nghiên cứu văn xuôi trữ tình trong văn học Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích đối với sinh viên, học viên các ngành ngữ văn cả trong quá trình nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy, góp phần vào công cuộc đổi mới nghiên cứu và dạy học ngữ văn trong nhà trường. Đây
- 14 cũng là tài liệu tham khảo cho các giáo viên văn học trong việc mở rộng vốn tri thức về các nhà văn Nga hiện đại, về văn học Nga thế kỷ XX. Từ đó, mở rộng vốn hiểu biết về một nền văn học vĩ đại của thế giới cho đối tượng học sinh, bồi đắp tình yêu thiên nhiên, văn hóa và cái đẹp, nuôi dưỡng sự phong phú của tâm hồn. 7. Đóng góp mới của luận án Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam đi sâu nghiên cứu trực tiếp tính trữ tình trong truyện ngắn của Ivan Bunin một cách có hệ thống. Luận án là sự kết hợp một cách mới mẻ và hứa hẹn nhiều thành tựu của thi pháp học, trần thuật học hiện đại và lí thuyết về tính trữ tình. Luận án là công trình đầu tiên chỉ ra những nét đặc trưng phong cách của nhà văn Nga đầu tiên đạt giải Nobel Ivan Bunin, giúp người đọc hiểu thêm về một cây bút kiệt xuất của truyện ngắn Nga và thế giới, góp thêm vào danh sách những tác giả văn học Nga được đọc và được nghiên cứu ở Việt Nam. 8. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương: - Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chương 2: Ấn tượng lời văn trữ tình - Chương 3: Chủ thể và đối tượng trữ tình - Chương 4: Cốt truyện trữ tình và cảm thức bi hoài 9. Lƣu ý Những trích dẫn chúng tôi đưa vào trong luận án gồm cả những tác phẩm của Bunin đã được dịch ra tiếng Việt và cả những tác phẩm chưa được dịch. Những văn bản ghi nguồn trích từ bộ Toàn tập Bunin bằng tiếng Nga đều do chúng tôi tự dịch. Tương tự với những tài liệu tham khảo bằng tiếng Nga và tiếng Anh được trích dẫn trong luận án.
- 15 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU So với các nhà văn Nga hải ngoại khác, Bunin được “trở về” Tổ quốc tương đối sớm hơn. Sau khi Bunin qua đời (1953), cuốn Toàn tập Bunin đầu tiên và đầy đủ nhất (tính đến thời điểm đó) được xuất bản ở Nga năm 1965 dưới sự chủ trì và đấu tranh kiên định của nhà thơ A.Tvardovsky đã minh chứng cho điều này. Từ đó đến nay, sức hấp dẫn của Bunin ở Nga và trên thế giới không hề giảm, số lượng những tác phẩm của ông và những công trình nghiên cứu về ông được xuất bản và công bố cả ở trong và ngoài nước Nga rất phong phú. Ở Việt Nam, 14 truyện ngắn đầu tiên của Bunin được dịch sang tiếng Việt năm 1987 (Nàng Lika được in cùng tập truyện ngắn nhưng thực chất là trích tiểu thuyết Cuộc đời Arseniev). Đến nay có thêm 20 truyện khác được dịch và công bố (chưa tính những tác phẩm nhiều hơn một người dịch). Số lượng các tác phẩm bổ sung sau gần 30 năm như vậy là không nhiều. Số lượng các công trình nghiên cứu trên các báo, tạp chí, sách tham khảo, giáo trình cũng không thực sự chuyên sâu, tất cả chỉ dừng ở mức giới thiệu. Trong quá trình thực hiện luận án Tính trữ tình trong truyện ngắn Ivan Bunin, trong khả năng ngoại ngữ của mình, chúng tôi đã tích cực tìm kiếm các tư liệu (sách, báo, tạp chí, internet) về Ivan Bunin, về truyện ngắn và tính trữ tình trong văn chương của ông trong khối lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về nhà văn bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Các tài liệu chúng tôi khai thác được cho thấy một cái nhìn toàn diện về Bunin từ các khía cạnh: tiểu sử, giải Nobel, vị trí và tầm ảnh hưởng, những nghiên cứu cụ thể về thơ, truyện ngắn và truyện vừa, tiểu thuyết. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài của mình, chúng tôi chỉ đề cập những tư liệu liên quan đến truyện ngắn Bunin cũng như những tư liệu có giá trị lí giải những ảnh hưởng tới quá trình sáng tác truyện ngắn của nhà văn. Chúng tôi lưu ý đặc biệt tới những tư liệu nghiên cứu có liên quan hay đề cập trực tiếp tới vấn đề tính trữ tình trong truyện ngắn Bunin. 1.1. Tình hình nghiên cứu về tính trữ tình trong văn xuôi Bunin ở Nga Ở Nga, Ivan Bunin là một trong số những nhà văn Nga thế kỷ XX được giới phê bình, nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Những công trình nghiên cứu mới nhất cho thấy hứng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
322 p | 419 | 84
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945
217 p | 363 | 81
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
184 p | 277 | 47
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt
237 p | 188 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh truyện cổ tích thần kỳ người Khmer Nam Bộ với truyện cổ tích thần kỳ người Việt (một số type và motif cơ bản)
169 p | 124 | 26
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
164 p | 76 | 24
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 - 1930)
232 p | 135 | 23
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: So sánh phương thích nối trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh
202 p | 115 | 22
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu thơ đi sứ của Đoàn Nguyễn Thục và Đoàn Nguyễn Tuấn
90 p | 107 | 14
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử
172 p | 131 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Cấu tạo và phương thức thể hiện tiếng cười của truyện cười hiện đại Việt Nam
179 p | 66 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Biểu tượng trong tiểu thuyết Haruki Murakami
32 p | 24 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Phản trinh thám trong bộ ba New York của Paul Auster
167 p | 107 | 9
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập
282 p | 29 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Mĩ cảm trong tiểu thuyết Haruki Murakami
237 p | 15 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tư tưởng thị tài trong thơ trung đại Việt Nam
490 p | 11 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Tiểu thuyết William Faulkner từ góc nhìn nhân học văn hóa
27 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay từ cách đọc chấn thương
27 p | 20 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn