Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay (trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội)
lượt xem 12
download
Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm tìm hiểu thực trạng hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội (trường hợp làng Sáp Mai) trong bối cảnh hiện nay. Chỉ ra những tác động của công nghiệp hóa, đô thị hóa lên hệ giá trị gia đình và các hệ quả mà nó mang lại, đồng thời phân tích xu hướng biến đổi của hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay (trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM ------------------------- Nguyễn Thị Phượng HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH VEN ĐÔ HÀ NỘI HIỆN NAY (Trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội) LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội - 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM ----------------- Nguyễn Thị Phượng HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH VEN ĐÔ HÀ NỘI HIỆN NAY (Trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội) Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Trần Ngọc Thêm Hà Nội - 2018
- 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án. Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 2018 Tác giả Nguyễn Thị Phượng
- 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... 1 MỤC LỤC .............................................................................................................. 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................... 3 DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH .......... 24 1.1. Khái niệm giá trị ......................................................................................... 24 1.2. Giá trị gia đình ........................................................................................... 28 1.3. Cấu trúc giá trị gia đình .............................................................................. 30 1.4. Khu vực ven đô .......................................................................................... 32 1.5. Một số luận điểm lý thuyết ......................................................................... 34 1.6. Làng Sáp Mai và hệ giá trị gia đình truyền thống ở Sáp Mai....................... 40 Tiểu kết ............................................................................................................. 53 Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH Ở SÁP MAI HIỆN NAY ......... 55 2.1. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa vật chất ..................... 55 2.2. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa tinh thần ................... 66 2.3. Thực trạng hệ giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa ứng xử ...................... 77 Tiểu kết ............................................................................................................. 93 Chương 3: XU HƯỚNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TRẠNG HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH Ở SÁP MAI ......................................................................... 96 3.1. Bối cảnh tác động đến sự biến đổi hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội từ sau đổi mới đến nay .................................................................................. 96 3.2. Các xu hướng biến đổi của hệ giá trị gia đình ....................................... 101 3.3. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi hệ giá trị gia đình làng ven đô Sáp Mai....................................................................................................... 114 Tiểu kết ....................................................................................................... 124 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 126 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................... 130 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 131 PHỤ LỤC............................................................................................................ 146
- 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Ch.b: Chủ biên GDP: Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product) NCS: Nghiên cứu sinh Nxb: Nhà xuất bản PV: Phỏng vấn STT: Số thứ tự TP: Thành phố UBND: Ủy ban nhân dân
- 4 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Tỷ lệ các hộ gia đình sở hữu các tiện nghi sinh hoạt hiện đại ................. 56 Bảng 2.2: Sự lựa chọn giá trị trong lĩnh vực văn hóa vật chất ................................ 59 Bảng 2.3: Những giá trị gia đình ven đô tiếp nhận từ đô thị ................................... 63 Bảng 2.4: Sự lựa chọn giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa tinh thần ................. 67 Bảng 2.5: Mức độ tặng quà cho người thân trong gia đình ..................................... 74 Bảng 2.6: Mức độ tổ chức sinh nhật trong các gia đình .......................................... 75 Bảng 2.7: Sự lựa chọn giá trị gia đình trong lĩnh vực văn hóa ứng xử .................... 78 Bảng 2.8: Mức độ chia sẻ trong công việc nhà........................................................... 86 Bảng 2.9: Quan niệm giá trị con cái trong gia đình ................................................ 92 Bảng 3.1: Thu ngân sách nhà nước của Hà Nội 2008- 2013 ................................... 96 Bảng 3.2: Khuôn mẫu chào hỏi và cách xưng hô ................................................. 112 Bảng 3.3. Thực trạng giáo dục giá trị gia đình truyền thống................................. 117
- 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong khoảng gần hai thập niên trở lại đây, ở Việt Nam nói chung, TP Hà Nội nói riêng đang diễn ra quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ. Công nghiệp hóa, đô thị hóa không chỉ làm mở rộng địa giới hành chính của thủ đô Hà Nội mà còn tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, lao động nghề nghiệp, dịch chuyển dân cư giữa khu vực nông thôn và đô thị. Việc thu hồi đất nông nghiệp để cho mục đích sử dụng phi nông nghiệp đã có ảnh hưởng đến đời sống của các hộ gia đình. Ở Việt Nam, từ năm 1990 đến năm 2003 đã có 697.417 ha đất đã bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng và phục vụ các mục đích phi nông nghiệp khác [62]. Theo số liệu công bố của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong khoảng thời gian từ 2001-2005, có 366.000 ha đất nông nghiệp đã được chuyển thành đất đô thị và đất công nghiệp. Con số này chiếm 4% tổng diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng dẫn đầu với con số 4,4% diện tích đất nông nghiệp của toàn khu vực được chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp [145]. Ở thủ đô Hà Nội, từ năm 2000 đến năm 2010, có 11.000 ha đất, chủ yếu là đất nông nghiệp đã được chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp để phục vụ cho 1736 dự án phát triển đô thị và khu công nghiệp. Sự chuyển đổi này ước tính sẽ làm mất việc làm truyền thống của khoảng 150.000 hộ nông dân [144]. Cho tới đầu năm 2011, Hà Nội có tổng cộng 19 khu công nghiệp mới, sử dụng 7.526 ha đất [8, tr.13] cùng với một khu công nghệ cao, 45 cụm công nghiệp vừa và nhỏ và nhiều khu đô thị mới ở khu vực ven đô [75, tr.88]. Kết quả là khu vực ven đô Hà Nội đã trở thành nơi chứng kiến một quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ; nhiều làng ven đô thành các trung tâm công nghiệp và đô thị năng động. Là một làng ven đô, Sáp Mai thuộc xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội cũng nằm trong quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ của thủ đô với hầu hết diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp Bắc Thăng Long. Từ năm
- 6 2003, từ một địa bàn thuần nông, Sáp Mai đã nhanh chóng trở thành một khu vực dịch vụ năng động với những nhà máy, cơ sở sản xuất nằm ngay bên cạnh làng. Cơ cấu kinh tế của xã không còn nghiêng về nông nghiệp như trước mà đã chuyển trọng tâm sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Tác động của chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm cho đời sống gia đình các hộ nông dân ở Sáp Mai có sự biến đổi mạnh mẽ. Những thay đổi nhận thấy rõ nét ở Sáp Mai là sự thay đổi về cảnh quan, tỷ lệ hộ gia đình chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ, thành phần dân cư; mức sống của các gia đình; mức độ mua sắm, tiếp cận với các loại phương tiện sinh hoạt, giải trí, thông tin liên lạc hiện đại... So với trước kia, nhu cầu hưởng thụ các hoạt động văn hóa, nghệ thuật vui chơi giải trí của các gia đình có sự tăng lên rõ rệt... Cần nói ngay là sự chuyển đổi này ở Sáp Mai vẫn còn đang tiếp tục, thậm chí mới ở giai đoạn ban đầu, nghĩa là yếu tố đô thị chưa được hình thành một cách rõ nét, trong khi yếu tố nông thôn, nông dân vẫn chưa mất đi sự ảnh hưởng của nó. Tình trạng quá độ từ nông thôn sang đô thị này, bên cạnh những mặt tích cực, đã làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực do tác động mặt trái của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa mang lại như: bạo lực gia đình, tranh chấp tài sản giữa anh em ruột thịt có xu hướng tăng, số vụ án liên quan đến tệ nạn xã hội cờ bạc, lô đề, ma túy... đã xuất hiện với tần suất nhiều hơn trên địa bàn xã kể từ khi có khu công nghiệp. Song hành với sự biến đổi trong đời sống gia đình là sự biến đổi về hệ giá trị của người dân Sáp Mai. Việc lựa chọn những giá trị hiện đại trong đời sống vật chất gia đình thay thế cho những giá trị truyền thống diễn ra khá nhanh và triệt để. Trong quan hệ gia đình, sự biến đổi về giá trị diễn ra chậm hơn. Bên cạnh việc du nhập một số giá trị mới như bình đẳng giới, quyền trẻ em... một số giá trị truyền thống đã được người dân tái cấu trúc lại và cấp thêm ý nghĩa cho phù hợp với bối cảnh mới. Nhìn nhận sự vận động của hệ giá trị gia đình ở Sáp Mai hiện nay và đặt chúng trong bối cảnh đặc thù của làng là phi nông nghiệp hóa cho thấy một thực tế khá rõ: việc đón nhận các giá trị mới và cải biến các giá trị gia đình truyền thống đã dẫn đến những thay đổi quan trọng trong hành vi ứng xử và lối sống của gia đình nơi
- 7 đây. Như chúng ta biết, một số lý thuyết hiện đại về giá trị - tiêu biểu là Inglehart và Baker [118], Tarkhnishvili và Tevzadze [134] đã nhận định rằng, trong xã hội hiện đại, các giá trị truyền thống sẽ bị thay thế bởi các giá trị hiện đại và mất đi vai trò vốn có của nó. Cụ thể là vai trò thống trị của nam giới, sự coi trọng quyền cha mẹ và đời sống gia đình suy yếu, thay vào đó là giá trị tập trung vào cá nhân. Những xã hội có mức an sinh xã hội thấp thường tập trung vào những an toàn về kinh tế và vật chất hơn là những giá trị khác. Và khi kinh tế xã hội phát triển, sẽ xuất hiện giá trị tự biểu hiện. Nói cách khác, tiền sẽ giúp cho con người có sự lựa chọn, và giá trị của họ là dùng sự lựa chọn đó để tự biểu hiện. Với việc nghiên cứu hệ giá trị gia đình ở Sáp Mai hiện nay sẽ phần nào kiểm chứng những quan điểm lý thuyết này, xem trên thực tế nó có những điểm gì giống và khác nhau so với những xu hướng biến đổi giá trị gia đình trên thế giới. Với các lý do trên, Hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội hiện nay (trường hợp làng Sáp Mai, xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội) đã được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận án này. Và do gia đình ven đô nói chung, gia đình ở Sáp Mai nói riêng đang nằm trong quá trình chuyển tiếp từ nông thôn sang đô thị, từ truyền thống sang hiện đại, vì vậy trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn nhìn nó trong sự vận động và biến đổi, đặt trong mối liên hệ với công nghiệp hóa và đô thị hóa. 2. Tình hình nghiên cứu Với nội dung trọng tâm là quá trình động của hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội từ sau đổi mới đến nay, bên cạnh các công trình nghiên cứu về giá trị gia đình, đề tài luận án có mối liên hệ gần gũi với các công trình nghiên cứu sự biến đổi của gia đình Việt Nam nói chung, đặc biệt là gia đình ở vùng ven đô trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Do đó, trong phần tổng quan vấn đề, đối với các nghiên cứu quốc tế, luận án sẽ ưu tiên cho các công trình nghiên cứu sự biến đổi giá trị gia đình, đặc biệt là ở khu vực châu Á và Đông Nam Á. Đối với các nghiên cứu trong nước, luận án sẽ điểm qua các công trình nghiên cứu về gia đình ở đồng bằng sông Hồng trước khi tập trung giới thiệu các công trình nghiên cứu gia đình ở khu vực ven đô nói chung và khu vực ven Hà Nội nói riêng, đặc biệt là từ hơn hai thập niên trở lại đây.
- 8 2.1. Các nghiên cứu về giá trị gia đình Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề giá trị từ xưa đến nay đã được khá nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến. Từ cuối thế kỷ XVIII, việc nghiên cứu giá trị đã dần phát triển thành một chuyên ngành khoa học độc lập với tên gọi là Giá trị (Axiology). Lý thuyết về giá trị ban đầu tồn tại trong khuôn khổ triết học, về sau mới dần tách ra và thâm nhập vào hầu như tất cả các ngành khoa học xã hội và nhân văn [84, tr.30]. Đã có nhiều học giả trên thế giới và Việt Nam bàn về giá trị dưới các góc độ triết học, tâm lý học như Immanuel Kant (1724-1804), Rudolph Hermann (1817- 1881), Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844-1900), Wilhelm Windelband (1848-1915), Karl Heinrich Marx (1818-1883), Christian von Ehrenfels (1859-1932), Alexius Meinong (1583-1920) John Dewey (1859-1952), George Edward Moore (1873- 1958)... Nghiên cứu về giá trị học hiện đại trên thế giới, điển hình có thể kể đến 3 học giả là Robert.S.Hartman với cuốn Cấu trúc của giá trị: những cơ sở của giá trị học khoa học (1967), Milton Rokeach với công trình Niềm tin, thái độ và giá trị: lý thuyết về tổ chức và sự biến đổi (1968) và Ronald F. Inglehart, người được biết đến với tư cách là giám đốc chương trình Điều tra giá trị thế giới (WVS) [84, tr.31 - 35]. Ở Việt Nam, có thể kể đến một số học giả tiêu biểu như Phạm Minh Hạc, Ngô Đức Thịnh, Hồ Sĩ Quý, Trần Ngọc Thêm... Theo Ngô Đức Thịnh, giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất cứ một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân thiện mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi, tình cảm con người [86, tr.22]. Còn Trần Ngọc Thêm cho rằng, “Giá trị là tính chất của khách thể được chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại trong một bối cảnh không gian- thời gian cụ thể” [84, tr.39]. Về giá trị gia đình, cho đến nay mới có rất ít người trực tiếp đề cập đến hoặc đưa ra những định nghĩa cụ thể, nhưng đã có nhiều công trình có nội dung hàm
- 9 chứa yếu tố giá trị được biểu đạt trong các đặc điểm của gia đình về hôn nhân, về các vai trò trong gia đình, sự lưu truyền dòng dõi, kế thừa tài sản và thờ cúng tổ tiên... Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính [9], Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [1], Văn Minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên [36], và các nghiên cứu gần đây của Trần Đình Hượu về gia đình Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo [39], Trần Từ bàn về cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ trong đó có bàn về gia đình [94], Mai Huy Bích bàn về đặc điểm gia đình ở đồng bằng sông Hồng [5].... Các đặc điểm chủ yếu được đề cập trong những nghiên cứu này bao gồm: hôn nhân là việc của gia đình, chồng là chủ gia đình, vợ phụ thuộc chồng, con cái phụ thuộc vào cha mẹ, con cái phải vâng lời cha mẹ, coi trọng con trai, con trai được quyền thừa kế tài sản, thờ cúng tổ tiên, tính cộng đồng gia đình... Về hôn nhân, gia đình người Việt theo chế độ phụ quyền nên hôn nhân là ở nhà chồng. Đặc điểm nổi trội trong hôn nhân truyền thống là hôn nhân sắp đặt với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Do mục đích của hôn nhân là để có con nối dõi, do vậy việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải là việc cá nhân của con cái [1, tr.83]. Trong gia đình, người gia trưởng có quyền uy tuyệt đối ở trong nhà, có quyền sở hữu, quản lý tài sản, sở hữu vợ con và có quyền độc đoán về việc hôn nhân của con cái... Địa vị của người đàn bà là phải tuân theo luân lý “tam cương ngũ thường” của Nho giáo, luôn phụ thuộc vào đàn ông [1, tr.91]. Trong quan hệ với cha mẹ, con cái luôn ở địa vị phụ thuộc. Cha đối với con cái phải nghiêm, con đối với cha phải hết sức hiếu. Con cái phải kính trọng và vâng lời cha mẹ, phải nuôi dưỡng ông bà cha mẹ... Ngoài ra anh em phải sống hòa thuận, anh yêu mến em, em kính trọng anh [36, tr.87]. Do mục tiêu của hôn nhân là lưu truyền dòng dõi nên giá trị con trai trong gia đình luôn được coi trọng. Đối với người chồng, hôn nhân đánh dấu việc anh ta đạt địa vị người lớn, nhưng chỉ khi có con trai anh ta mới hoàn thành nghĩa vụ với dòng dõi, địa vị của anh ta mới trở nên trọn vẹn. Còn với người vợ, khi sinh được con trai mới có thể được an toàn trong nhà chồng [7, tr.25]. Xưa kia, nếu vợ chính vợ lẽ đều không
- 10 có con trai mà người chồng đã già thì phải nuôi một người con trai trong họ hàng là người thừa tự, xem như con đích của mình [1, tr.105]. Việc thừa kế tài sản trong gia đình cũng lấy con trai làm chủ, đặc biệt là con trai trưởng. Tuy nhiên luật pháp và phong tục không tuân thủ chặt chẽ theo nguyên lý ấy mà vẫn cho các con trai khác cũng như con gái đều có quyền cùng chia tài sản với con trưởng [1, tr.106-107]. Một đặc điểm quan trọng của gia đình người Việt, mà tác giả Mai Huy Bích cho là “đặc điểm bao trùm lên các đặc điểm khác”, đó là tính cộng đồng (giá trị cộng đồng). Phân tích của ông về các chức năng cơ bản của gia đình đã khẳng định, điều tạo nên nét riêng của gia đình Việt Nam không chỉ ở ảnh hưởng Khổng giáo, mà đó là tính cộng đồng, tức cơ cấu chặt chẽ đặc biệt của gia đình, buộc các thành viên cá thể phải đặt lợi ích tập thể gia đình ở vị trí tối cao, hy sinh mọi lợi ích riêng nếu nó trái với lợi ích chung của cả tập thể gia đình. Tính cộng đồng của gia đình Việt Nam là sản phẩm của lịch sử xa xưa và có quan hệ mật thiết với tính cộng đồng của xã hội Việt Nam [5, tr.14-16]. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm trên, các nghiên cứu còn cho thấy, gia đình người Việt vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cơ tầng văn hóa bản địa, đó là chế độ mẫu hệ [86]. Do vậy, các phong tục và pháp luật đối với đàn bà ở Việt Nam so với luân lý có phần bớt nghiêm khắc hơn [1, tr.97- 99]. Thậm chí, người vợ Việt Nam còn được chồng yêu mến và trân trọng, được con cái yêu quý và kính nể và chiếm một chỗ đứng cao trong gia đình [36, tr.83]. Các nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên, Trần Đình Hượu, Nguyễn Từ Chi đều chỉ ra rằng, người vợ trong gia đình thường là người nắm giữ “tay hòm chìa khóa” và là “nội tướng”. Các quan hệ trong gia đình cũng có phần bình đẳng hơn rất nhiều so với cái vỏ luân lý bề ngoài [36], [39], [12]. Trên thế giới, những ý niệm về giá trị gia đình đã được các học giả quan tâm từ những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước khi công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ ở các nước phương Tây. Tuy nhiên phải cho đến những thập niên 90 của thế kỷ XX trở đi, các vấn đề về gia đình và sự biến đổi của nó mới được kiểm chứng sinh động trên thực tiễn. Các nghiên cứu về giá trị gia đình thường tập trung vào các khía cạnh về đời sống gia đình và cấu trúc gia đình như: quan hệ hôn nhân, quan hệ trong gia
- 11 đình, các kiểu loại gia đình, vấn đề ly hôn... Theo Jagger và Wright, có bốn nhóm giá trị gia đình được quan tâm bao gồm: i) giá trị gia đình truyền thống; ii) giá trị gia đình được thể chế hóa trong hệ thống luật pháp thường được nghiên cứu trong bối cảnh thay đổi luật pháp về gia đình với những biến đổi giá trị gia đình truyền thống; iii) khái niệm gia đình trong mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước; iv) gia đình trong chuyển đổi từ hiện đại đến hậu hiện đại. Đối với mỗi nhóm giá trị này lại có những khía cạnh giá trị gia đình khác nhau. Chẳng hạn với gia đình truyền thống, người ta quan tâm đến những khía cạnh mà con người hằng mong ước trong quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau. Đối với mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, vấn đề trách nhiệm của nhà nước hay gia đình trong việc chăm sóc người già và trẻ em được đặt ra. Một số giá trị gia đình có thể cùng xuất hiện ở nhiều thời kỳ khác nhau như tình yêu, quan tâm chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau, trách nhiệm và sự cam kết thực hiện nghĩa vụ về lòng hiếu thảo, và sự giao tiếp, sự chung thủy [dẫn theo 60, tr.35]. Theo Sobotka & Toulemon, các nghiên cứu ở Mỹ đã cho thấy hôn nhân đã trở nên không có vai trò quan trọng trong sản xuất kinh tế, tiêu dùng và chuyển giao tài sản từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hôn nhân không còn vai trò ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nam và nữ, sự chuyển đổi sang giai đoạn trưởng thành của nam và nữ. Hôn nhân cũng không còn ý nghĩa so sánh khi bàn về trải nghiệm tình dục, sắp xếp cuộc sống, sinh con và nuôi con. Hôn nhân ngày nay không còn ý nghĩa thiêng liêng như trước mà nó ngày càng được nhìn nhận về tính thực tiễn hơn là một thiết chế mang tính tôn giáo [132, tr.87]. Trong nghiên cứu The most Important Person in the World: A look at Contemporary Family value (Người quan trọng nhất trên thế giới: Nhìn vào giá trị gia đình hiện đại) của A.Vandenheuvel cũng cho thấy, việc kết hôn để sinh con và được an tâm hơn về mặt tài chính không còn được coi là lý do quan trọng nữa. Hôn nhân không còn là điểm bắt đầu của việc chung sống và bắt đầu có quan hệ tình dục giữa nam và nữ [135]. Theo Manning và cộng sự, hiện nay việc tìm hiểu và kết hôn của thanh niên nam nữ đã có sự chuyển đổi. Thay vì từ làm quen, tìm hiểu rồi đến
- 12 kết hôn, họ chuyển từ tìm hiểu sang chung sống và sau đó có thể kết hôn hoặc không. Phần nhiều những cặp nam nữ ngày nay coi sống thử và kết hôn là hai sự việc không loại trừ nhau mà sống thử trở thành một giai đoạn diễn ra trước khi tiến tới hôn nhân. Mô hình hôn nhân truyền thống vẫn giữ vai trò quan trọng nhưng chung sống không kết hôn đã được chấp nhận rộng rãi [125]. Đối với châu Á, hôn nhân vẫn là một giá trị quan trọng trong quan niệm của đa số người dân. Việc sống không kết hôn hay kết hôn quá muộn ở châu Á vẫn chưa trở thành phổ biến. Cuộc khảo sát về giá trị gia đình được thực hiện lặp lại năm 1993 và năm 2010 ở Singapore cho thấy, trong 10 người được hỏi thì có tới 8 người tin rằng hôn nhân là quan trọng [152]. Tuy nhiên tuổi kết hôn của thanh niên ở khu vực này cũng ngày càng cao hơn. Các cặp vợ chồng sau khi kết hôn thường thích sống riêng, và người vợ ngày càng tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động bên ngoài. Trong bài viết Late marriage and low fertility in Singapore: the limits of policy (Hôn nhân muộn và mức sinh ở Singapore: giới hạn về chính sách) G.W.Jones đã chỉ ra rằng, tuổi kết hôn đã tăng lên và một số người còn lưỡng lự trong việc kết hôn bởi các vấn đề như: áp lực sinh con sau khi kết hôn, tỷ lệ ly hôn gia tăng, và đặc biệt sự độc lập về kinh tế của người phụ nữ khi các cơ hội về học tập và việc làm của họ ngày càng mở rộng... [120]. 2.2. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình 2.2.1. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình trên thế giới Để nghiên cứu các chiều cạnh biến đổi giá trị gia đình, các nhà xã hội học cũng như nhân học trên thế giới thường gắn nó với sự phát triển, với công nghiệp hóa, đô thị hóa - biểu hiện cơ bản của hiện đại hóa cũng như sự chuyển đổi xã hội. Ít công trình nào khảo sát về biến đổi mà lại chỉ quan tâm đến một khía cạnh nêu trên mà thường xuyên có sự gắn kết tương hỗ nhất định. Một số vấn đề cơ bản thường thu hút các nhà nghiên cứu trong suốt nửa sau thế kỷ XX và vẫn phổ biến hiện nay đó là vấn đề biến đổi giá trị trong hôn nhân gia đình. Sự biến đổi này thường thể hiện trong các quan niệm về ý nghĩa của hôn nhân thông qua các chỉ báo về sinh đẻ và việc nuôi dưỡng con cái, sự lựa chọn nơi ở sau kết hôn, vai trò của sự tham gia lao động xã hội của phụ nữ trong hôn nhân...
- 13 Về biến đổi giá trị gia đình, đáng chú ý nhất là các nghiên cứu về sự biến đổi vai trò giới. Nghiên cứu của G.Kaufman [121] và J.L. Rhoden [130] đã đề cập đến những thay đổi vai trò của nam giới và phụ nữ ở nhà và nơi làm việc đã có tác động đến đời sống gia đình nói chung và các giá trị trong quan hệ vợ chồng nói riêng. Đặc biệt các tác giả đã đi sâu phân tích về sự độc lập về kinh tế của người phụ nữ dẫn đến những biến đổi vai trò của họ trong gia đình như: có nhiều lựa chọn cho cuộc sống cá nhân hơn, người phụ nữ cũng không phải cố gắng để cân bằng giữa đời sống gia đình và công việc - điều hoàn toàn khác với mô hình hôn nhân truyền thống. Bên cạnh đó các tác giả như Vandenheuvel, Kim và Hopped-Graff cũng đã đi sâu nghiên cứu về sự biến đổi của giá trị con cái trong gia đình ở các nước châu Á, về vai trò của người mẹ trong truyền thống và gia đình Hàn Quốc hiện đại.., trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị tinh thần của đứa con, xem đó như là một nhân tố làm cho cuộc sống gia đình trở nên phong phú hơn. Con cái ngày càng có ý nghĩa về mặt tình cảm hơn là sự đầu tư về kinh tế [123], [135]. Nghiên cứu của East West Center còn đề cập đến sự suy giảm giá trị bền vững của gia đình, thể hiện trong quan niệm của mọi người về ý nghĩa của gia đình, về tỉ lệ ly hôn và sự hài lòng về đời sống gia đình... trong các xã hội hiện đại ở châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản [110]. Có thể nói, các nghiên cứu quốc tế về biến đổi giá trị gia đình cho thấy, đang có sự giao thoa mạnh mẽ giữa truyền thống và hiện đại ở các nước trên thế giới như châu Âu, Mỹ nói chung và các nước công nghiệp mới ở châu Á nói riêng, thể hiện trong sự biến đổi về vai trò giới, các quan niệm về giá trị con cái, về giá trị bền vững của gia đình và ly hôn... Các nghiên cứu nói trên đã giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn so sánh trong nghiên cứu về giá trị gia đình giữa các khu vực trên thế giới, tiếp nhận các lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu hiện đại để phục vụ cho đề tài nghiên cứu. 2.2.2. Các nghiên cứu về sự biến đổi giá trị gia đình ở Việt Nam Trong thời gian qua, cùng với sự biến đổi trong đời sống gia đình, hệ giá trị gia đình của người Việt đã trải qua một quá trình biến đổi sâu sắc và được nhiều chuyên ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
- 14 Một số nghiên cứu và những cuộc điều tra quy mô lớn gần đây, hệ giá trị gia đình và sự biến đổi của nó trong xã hội đương đại cũng được gián tiếp đề cập như: Điều tra gia đình Việt Nam 2006 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan khác (2008), Điều tra cơ bản về bình đẳng giới (2005) của Viện Khoa học xã hội Việt Nam tại 13 tỉnh thành phố của Việt Nam; Điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ thực hiện năm 2000 tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam; các nghiên cứu liên ngành về gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi thuộc Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Thụy Điển do cơ quan Hợp tác quốc tế Thụy Điển tài trợ và Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý và thực hiện trong giai đoạn từ 2004- 2010; Điều tra về mối quan hệ vợ chồng trong gia đình của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện năm 2011 tại Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc.... Các cuộc điều tra nói trên, cùng với các công trình nghiên cứu, đã cung cấp một bức tranh toàn diện về những thay đổi trong các mối quan hệ hôn nhân gia đình ở Việt Nam cũng như vai trò và trách nhiệm của mỗi thành viên, góp phần làm sáng tỏ những thay đổi về giá trị chuẩn mực của gia đình dưới tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Trong nghiên cứu Gia đình Việt Nam và một số vấn đề đang đặt ra hiện nay, Nguyễn Hữu Minh đã chỉ ra một số vấn đề quan trọng của gia đình hiện nay trong quan hệ gia đình như sự biến đổi quan hệ giới và các mối quan hệ khác [53]. Nghiên cứu của Lê Ngọc Văn, cũng đi sâu phân tích sự biến đổi gia đình thể hiện trong quyền ra quyết định, quyền sở hữu tài sản... trong gia đình trên cơ sở số liệu Điều tra cơ bản về gia đình 2000 [100]. Vấn đề giá trị con cái, ứng xử giữa cha mẹ và con cái cũng được một số nghiên cứu đề cập đến như: Giá trị con cái trong gia đình Việt Nam - những vấn đề đặt ra của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới [105], Quan hệ cha mẹ - con cái vị thành niên: cơ sở lý luận và những vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay của Đặng Bích Thủy [87]...., qua đó chỉ ra những biến đổi căn bản trong ứng xử giữa cha mẹ - con cái và việc đón nhận các giá trị mới của gia đình.
- 15 Một số chuyên luận gần đây về đời sống văn hóa và quan hệ giữa người cao tuổi với con cháu trong xã hội Việt Nam hiện nay của Lê Ngọc Lân [48], Lê Ngọc Lân, Nguyễn Hữu Minh, Trần Quý Long [49] đều đi sâu phân tích vai trò, vị thế của người già và mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trong gia đình hiện nay. Việc điểm qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề giá trị gia đình từ trước đến nay hầu hết mới chỉ được đề cập một cách gián tiếp trong các công trình nghiên cứu về gia đình. Việc nghiên cứu hệ giá trị gia đình một cách hệ thống với cơ sở lý luận và khung phân tích cụ thể mới lần đầu tiên được tiến hành năm 2015 mang tên Hệ giá trị gia đình Việt Nam dưới góc nhìn xã hội học của nhóm tác giả Lê Ngọc Văn và cộng sự. Ở đây, các tác giả đã đặt hệ giá trị gia đình trong khung lý thuyết hiện đại hóa và lý thuyết nhóm để giải thích sự vận động và biến đổi của nó trên ba chiều cạnh là sự biến đổi giá trị gia đình trong đời sống vật chất, trong đời sống tinh thần - tâm linh và trong ứng xử gia đình [103]. Như vậy có thể thấy, cho đến nay vấn đề hệ giá trị gia đình Việt Nam căn bản vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách độc lập, mặc dù so với trước, các chiều cạnh của hệ giá trị gia đình đã được gián tiếp đề cập một cách phong phú đa dạng hơn. Trong các công trình trên đã chứa đựng những phân tích đáng chú ý về hệ giá trị gia đình Việt Nam trên các phương diện đồng đại cũng như lịch đại. Các nghiên cứu này đã gợi mở cho nghiên cứu sinh trong các cách tiếp cận khác nhau về nghiên cứu giá trị gia đình và có được cái nhìn tổng thể về bức tranh chuyển đổi giá trị gia đình ở Việt Nam hiện nay. 2.3. Các nghiên cứu về khu vực ven đô và biến đổi gia đình ven đô Hà Nội Cho đến nay, khu vực ven đô là nơi thu hút được khá nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả, do đây là khu vực luôn có sự biến đổi mạnh mẽ vì nằm sát khu vực đô thị và chịu ảnh hưởng rất lớn từ đô thị. Các nghiên cứu về văn hóa làng ven đô Hà Nội, trong đó vấn đề gia đình cũng được gián tiếp đề cập đến, thể hiện trong phong tục lối sống, sinh kế, sử dụng thời gian rỗi... và đó là nền tảng quan trọng cho sự biến đổi hệ giá trị gia đình. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như Văn hóa truyền thống làng xã ngoại thành Hà Nội dưới tác động của nền
- 16 kinh tế thị trường của Trần Đức Ngôn và các cộng sự [57], Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới của Ngô Văn Giá chủ biên [21], Câu chuyện làng Giang của Lương Hồng Quang và cộng sự [69], Những biến đổi kinh tế xã hội ở Dịch Vọng trong quá trình đô thị hóa từ làng xã thành phường (1999) của Trịnh Duy Luân, Biến đổi kinh tế xã hội ở vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa [55]... Trong các công trình nói trên, các tác giả đã đi sâu khảo sát về sự biến đổi văn hóa truyền thống của các làng xã ven đô, thể hiện trên các khía cạnh địa lý, kinh tế, nghề nghiệp, đời sống sinh hoạt, tôn giáo tín ngưỡng... cũng như tìm ra các xu hướng biến đổi cùng các nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi ở đây. Theo Ngô Văn Giá và cộng sự, sự tác động của đô thị hóa đến các giá trị văn hóa truyền thống được biểu hiện thông qua các cá nhân, gia đình và cộng đồng làng. Sự biến đổi này là khá rõ nét nên việc xây dựng, định hướng hệ giá trị văn hóa, trong đó có hệ giá trị gia đình ở các làng thuộc khu vực nói trên là hết sức cần thiết. Cùng chia sẻ quan điểm trên, nghiên cứu của Lương Hồng Quang và cộng sự cũng đã đi sâu phân tích mô tả sự biến đổi của hệ thống các giá trị chuẩn mực và các khuôn mẫu văn hóa của các hộ gia đình nông dân làng Giang (Hoài Đức, Hà Nội) khi bước vào quá trình đô thị hóa, trong đó nét nổi bật là sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa hiện đại và truyền thống, giữa nông thôn và đô thị, thể hiện trong mọi mặt đời sống của họ, làm nên bức tranh đặc thù về biến đổi văn hóa làng ven đô. Ngoài ra, các nghiên cứu từ góc độ xã hội học của Nguyễn Hữu Minh, Trịnh Duy Luân... còn đi sâu phân tích những tác động của đô thị hóa dẫn tới sự chuyển đổi nghề nghiệp, cơ cấu lao động việc làm của dân cư và đời sống văn hóa - xã hội... của một số làng xã ven đô Hà Nội mới lên phường, thể hiện qua các chỉ báo như: cơ cấu nguồn thu nhập, mức sống, nhà ở, cơ sở hạ tầng, môi trường, khuôn mẫu hôn nhân... Tuy nhiên theo các tác giả thì việc sử dụng đất, cơ sở hạ tầng, cơ cấu việc làm, các sinh hoạt văn hóa, lối sống... của cư dân ven đô vẫn còn mang nặng tính làng xã, dẫn đến những bất cập trong quá trình phát triển của khu vực này khi hội nhập vào đô thị.
- 17 Sự biến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư vùng đô thị hóa, đặc biệt là những biến đổi trong quan hệ ứng xử gia đình, dòng họ và cộng đồng ở đây còn được các nghiên cứu dưới góc độ nhân học làm sâu rộng hơn như nghiên cứu của Nguyễn Đình Tuấn ở phường Định Công và xã Minh Khai, Nguyễn Thị Hồng Yến ở hai phường Nhật Tân và Trung Kính... [108]. Bằng việc phân tích sự chuyển đổi một số giá trị trong hôn nhân; phong tục tập quán, việc sử dụng thời gian rỗi vào việc giải trí, sự thích ứng của người dân với những thay đổi khi làng xã trở thành phường, những thách thức về chuyển đổi sinh kế, việc làm, lối sống...các tác giả đã làm nổi bật những nét đặc thù của cư dân ven đô Hà Nội hiện nay. Trong công trình Công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội, Nguyễn Văn Sửu đã mô tả, phân tích và lý giải về quá trình đô thị hóa và những ảnh hưởng của các quá trình này đến sinh kế của các hộ gia đình nông dân ở ven đô Hà Nội, trong đó nổi bật là việc biến đổi không gian sản xuất và sự hình thành không gian đô thị cùng những hoạt động sinh kế mới [75]. Gần đây nhất là cuốn Làng ven đô và sự biến đổi văn hóa (trường hợp xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội) của Nguyễn Thị Phương Châm và Đỗ Lan Phương đã chỉ ra những tác động của đô thị hóa và những xu thế biến đổi văn hóa của làng cũng như sự thích ứng linh hoạt của người dân nơi đây trong quá trình hội nhập vào văn hóa đô thị... [11]. Những nghiên cứu trên, tuy chưa trực tiếp bàn về gia đình nhưng trên thực tế, vấn đề gia đình và sự biến đổi của nó được gián tiếp đề cập trong hầu hết các nghiên cứu đó. Bàn về gia đình ở khu vực ven đô, có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu Từ làng đến phố: đô thị hóa và quá trình chuyển đổi lối sống ở một làng ven đô (trường hợp phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) (2010), luận văn thạc sỹ của Bùi Thị Kim Phương [64]; các bài viết của Nguyễn Đình Tuấn về Một số biến đổi trong quan hệ ứng xử và sử dụng thời gian của người dân vùng chuyển đổi từ xã lên phường [92]; Những biến đổi cơ bản của hệ giá trị văn hóa gia đình truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh [30]; về Gia đình trong quá trình đô thị hóa tại các vùng ven đô Hà Nội
- 18 (nghiên cứu trường hợp xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) của Bùi Văn Tuấn [91]; Sự biến đổi văn hóa gia đình trong quá trình đô thị hóa (nghiên cứu trường hợp xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) của Nguyễn Thị Nhật Hoan [32]... Những đặc điểm nổi trội của văn hóa gia đình được đề cập trong các nghiên cứu này, đó là sự đan xen giữa “đặc tính” của gia đình nông thôn và gia đình đô thị. Gia đình ven đô Hà Nội một mặt vẫn giữ những đặc điểm của gia đình truyền thống, mặt khác cũng đã rất cởi mở và linh hoạt, ở đó có sự tái cấu trúc từ không gian sống, lối sống, tập tục, nghi lễ, các giá trị, chuẩn mực trong gia đình và giữa gia đình với dòng họ. Tại Sáp Mai, hiện có một số bài viết như: Biến đổi không gian sống, lối sống và văn hóa gia đình ở Sáp Mai của Nguyễn Thị Phượng và Nguyễn Tiến Lộc [67], Biến đổi nghi thức thờ cúng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt dưới tác động của quá trình đô thị hóa (khảo sát tại xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội) của Nguyễn Văn Thắng [77]... cũng chỉ mới bàn đến một vài khía cạnh trong sự biến đổi văn hóa gia đình nơi đây. Ngoài ra, còn một vài xuất bản phẩm của địa phương như: Lý lịch di tích xã Võng La, Lịch sử đấu tranh cách mạng xã Võng La, Đông Anh, Hà Nội [96]... với mục đích ghi lại truyền thống cách mạng của làng. Tóm lại, khi nghiên cứu về khu vực ven đô và gia đình ven đô, hầu hết các tác giả đều có chung quan điểm rằng, đây là một khu vực năng động và biến đổi nhanh, thể hiện trong văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, sinh kế và các ứng xử trong gia đình. Từ các nghiên cứu này, nghiên cứu sinh cần đặt ra và trả lời các câu hỏi cụ thể hơn: vậy trong sự biến đổi về không gian sống, lối sống, phong tục tập quán, sinh kế như trên, hệ giá trị gia đình đã biến đổi như thế nào? Các gia đình ven đô đã làm gì để thích nghi với quá trình biến đổi ấy...? Có thể nói, các nghiên cứu về khu vực ven đô và gia đình ven đô đã cung cấp cho nghiên cứu sinh một vốn tri thức phong phú về ven đô nói chung cũng như cung cấp những gợi ý mang tính phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa gia đình ven đô đương đại. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng hệ giá trị gia đình ven đô Hà Nội (trường hợp làng Sáp
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Văn Hóa học: Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống)
260 p | 249 | 58
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa Thiền tông trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
310 p | 186 | 53
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng (qua trường hợp làng Quan họ Viêm Xá)
176 p | 157 | 33
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
24 p | 199 | 27
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Bản địa hóa Đức mẹ Maria tại Việt Nam
229 p | 83 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Diễn ngôn về giới trên truyền thông sau đổi mới
234 p | 37 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Sự dung hợp giữa phật giáo Bắc Tông với tín ngưỡng dân gian ở tỉnh Tiền Giang
255 p | 41 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Hát Xoan Phú Thọ trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam
293 p | 48 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Không gian sáng tạo trong đời sống văn hóa đô thị (qua nghiên cứu một số không gian sáng tạo tại Hà Nội)
174 p | 27 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020 qua nghiên cứu kênh VTV4 - Đài Truyền hình Việt Nam
242 p | 17 | 10
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa trầm hương Việt Nam
221 p | 17 | 8
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa học: Biến đổi của diễn xướng nghi lễ lên đồng (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Nam Định)
27 p | 96 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn Hóa học: Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống)
28 p | 109 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Biến đổi văn hóa làng ở Bắc Ninh hiện nay (qua trường hợp làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong và làng Bất Lự, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du)
192 p | 11 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Văn hóa: Hệ thống thẩm mĩ trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ
163 p | 24 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Chợ Tiền Giang từ góc nhìn văn hóa học
26 p | 9 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa trầm hương Việt Nam
27 p | 8 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Biến đổi văn hóa làng ở Bắc Ninh hiện nay (qua trường hợp làng Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong và làng Bất Lự, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du)
27 p | 7 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn