intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Chiến lược xuất khảu hang hóa của các công tinh kinh doanh quốc tế

Chia sẻ: Nguyen Bao Ngoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

64
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Chiến lược xuất khảu hang hóa của các công tinh kinh doanh quốc tế

  1. Luận văn Chiến lược xuất khảu hang hóa của các công tinh kinh doanh quốc tế 1
  2. CHƯƠNGI: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU Ở CÔNG TY KINH DOANH QUỐC TẾ. I. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ a. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Theo cách khác chúng ta có thể định nghĩa xuất khẩu hàng hoá là : việc đưa hàng hoá ra thị trường nước ngoài để tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng nước ngoài. b. Bản chất của xuất khẩu hàng hoá Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho tới hàng hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho tới công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia. Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong hoạt động thương mại quốc tế. Nó có thể diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Xuất khẩu hàng hoá là nguồn chính của thu nhập và chi tiêu quốc tế ở hầu hết các quốc gia .Trong số các công ty tham dự vào một số dạng hoạt động thương mại quốc tế, ngày càng có nhiều công ty hơn xâm nhập vào các hoạt động xuất khẩu hơn bất kỳ loại giao dịch nào khác. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đầu tiên của một công ty quốc tế vì nó đòi hỏi sự ràng buộc và sự rủi ro tối thiểu về những nguồn lực của công ty. 2
  3. Xuất khẩu hàng hoá được tiếp tục ngay cả khi công ty đa dạng hoá phương thức hoạt động. Hay nói cách khác, trong một số trường hợp xuất khẩu có thể bị gián đoạn nhưng nó vẫn thường tiếp tục, hoặc bởi những hoạt động thương mại với các thị trường khác hoặc bước sang những hoạt động thương mại mới. 2. QUAN ĐIỂM CHỦ ĐẠO CỦA NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. a. Quan điểm chủ đạo của nhà nước vễ xuất khẩu hàng hoá Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại với nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, căn cứ vào luật tổ chức chính phủ ngày 39/09/1992, theo quy đ ịnh của Bộ trưởng Bộ thương mại thì chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam rất ưu tiên cho công tác xuất khẩu của các doanh nghiệp. Các quy định và hướng dẫn chi tiết về việc này được ghi trong nghị định 57 CP ngày 30/07/1998. Việc quản lý của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu đ ược thực hiện theo nguyên tắc sau:  Tuân thủ luật pháp và các chính sách có liên quan của Nhà nước về sản xuất lưu thông và quản lý thị trường .  Tôn trọng các cam kết với nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.  Đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp và đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.  Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới, xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Bộ thương mại cùng uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ tài chính, ngân hàng Nhà nước, các Bộ có liên quan trình Chính phủ danh mục mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, các chính sách và biện pháp để thực hiện các mục tiêu trên. Nhằm khuyến khích xuất khẩu trường hợp các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất khẩu, những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục nghành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xem xét và giải quyết cụ thể từng hợp đồng xuất khẩu nhưng mặt hàng đó. Đặc biệt trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã xác định rõ: Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội, tạo nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị, phát triển các nghành nghề , làng nghề truyền thống và các nghành nghề mới bao gồm cả tiểu thủ 3
  4. công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp. b. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá Đối với nền kinh tế quốc dân: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yêu cho nhập khẩu, phụ vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tại các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự phát triển và tăng trưởng là thiếu tiềm lực về vốn trong quá trình phát triển. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là cơ sở chính như mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của đất nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này có thể trả nợ được. Xuất khẩu góp phần chuyển dịnh cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta hoàn toàn phù hợp với su thế phát triển của kinh tế thế giơí. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu có thể được nhìn nhận theo các bước sau:  Xuất khẩu những sản phẩm của ta cho nước ngoài.  Xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà nước khác cần. Điều đó có tác dụng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.  Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành có liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.  Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu và cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.  Xuất khẩu tạo ra các tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước.  Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Đối với việc giải quyết công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. 4
  5. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy mối quan hệ khác như : du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế .v.v. phát triển theo.Ngược lại sự phát triển của các nghành này lại là điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Đối với một doanh nghiệp : Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng phát triển của các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ đem lại các lợi ích sau:  Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.  Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.  Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.  Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như việc đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…, cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép. II. QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU. 1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC LOẠI CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU. a. Khái niệm: Một cách đơn giản nhất, chiến lược được hiểu là những kế hoạch được thiết lập hoặc những hành động được thực hiện trong nỗ lực nhằm đạt tới các mục đích của tổ chức. Như vậy, chiến lược được xem là những kế hoạch cho tương lai, tức là những chiến lược được dự định và những hạn động được thực hiện, tức là những chiến lược được thực hiện. Song, cho dù đó là chiến lược được dự định hay được thực hiện thì nó đều phải hướng tới việc đạt được các mục tiêu, mục đích của tổ chức. Quản trị chiến lược là quá trình nghiên cứu các mục tiêu hiện tại cũng như tương lai, hoạch địch các mục tiêu của tổ chức. Đề ra, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quyết định nhằm đạt được mục tiêu đó trong môi trường hiện tại hoặc tương lai. Như vậy, quản trị chiến lược là một quá trình. Chiến lược Marketing xuất khẩu là logic Marketing xuất khẩu mà nhờ đó, đơn vị kinh doanh hy vọng đạt được các mục tiêu Marketing xuất khẩu của mình. Về nội 5
  6. dung chiến lược Marketing xuất khẩu bao gồm: các chiến lược xác định đối với thị trường mục tiêu, phối thức Marketing xuất khẩu và mức chi phí Marketing xuất khẩu. Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu là toàn bộ việc hoạch định các hoạt động Marketing xuất khẩu của doa nh nghiệp từ việc đưa ra các mục tiêu cho tới việc tổ chức thực hiện thành công các mục tiêu đó. Có thể xem Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu như một nghệ thuật thiết lập, thực hiện và đánh giá các quyết định Marketing xuất khẩu giúp cho chủ thể ra q uyết định đạt được mục tiêu nhất định. Thực hiện tốt công việc Quản trị chiến lược Marketing nói chung và Quản trị chiến lược Marketing xuất khẩu nói riêng sẽ đem lại cho các doanh nghiệp nhiều vị thế, nhiều lợi ích. Tuy nhiên, để đạt được sự thành công và phát huy được tác dụng thì cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:  Chiến lược phải phù hợp với định hướng thị trường và kênh lưu thông.  Xác định rõ các mục tiêu chiến lược và phải được quán triệt thông báo cho toàn thể mọi người trong doanh nghiệp nắm bắt và hiểu được mục tiêu kinh doanh ở từng thời kỳ và cả kế hoạch dài hạn.  Tuyệt đối nhất quán với các mục tiêu chiến lược đã đề ra ban đầu.  Phải liên kết chặt chẽ, thống nhất giữa chức năng Marketing với các chức năng khác của doanh nghiệp thương mại.  Cần phải kết hợp trực giác với phân tích dữ liệu thông tin. Nếu không quan tâm đến dữ liệu thì thực chất chỉ là quản trị bàng quan, không phải quản trị theo trực giác.Quản trị theo trực giác phải có sự rèn luyện, tích luỹ kinh nghiệm (kể cả thành công và thất bại), kết hợp với thông tin cập nhật thì các quyết định quản trị mới đem lại hiệu quả thực sự cho doanh nghiệp.  Nguyên tắc cuối cùng là phải biết thích nghi với sự thay đổi, chủ động và lượng hoá đủ các yếu tố biến động của thị trường thì quản trị chiến lược Marketing của công ty mới thành công. b. Chiến lược dự định và chiến lược thực hiện: Như đã đề cập ngắn gọn ở phần khái niệm của chiến lược, cần thiết phải có sự phân biệt giữa chiến lược dự định và chiến lược thực hiện: đó là những kế hoạch của nhà quả trị đề ra và những hành động mà họ thực hiện trong thực tế. BIỂU HÌNH 1 : CHIẾN LƯỢC DỰ ĐỊNH VÀ CHIẾN LƯỢC ĐƯỢC THỰC HIỆN Chiến lược có cân nhắc Chiến Chiến lược kỹ lược dự được thực định hiện 6
  7. Nguồn: H. Mintzberg and A. Water. “of Strategies. Delibery and Emergent” Strategic Management Journal, 6, 1985. Chiến lược dự định: Với những mục đích và mục tiêu đã xác định, các nhà kinh doanh phải phát triển các kế hoạch hành động của tổ chức, qua đó đạt tới các mục tiêu và mục đích đã đề ra.Các chiến lược dự định là bộ tài liệu chứa đựng những thông tin mà tổ chức muốn thực hiện để đạt tới mục tiêu đã đề ra. Những thông tin này cũng như các chỉ dẫn cho những phương tiện và công cụ mà tổ chức sẽ sử dụng. Thông thường các chiến lược dự định bao gồm các kế hoạch và các chính sách. Các kế hoach liên quan tới những hành động sẽ được thực hiện như tốc độ tăng trưởng, mở rộng thị phần, gia tăng cạnh tranh hoặc phát triển công nghệ và nguồn lực… Như vậy, chiến lược dự định của một tổ chức bao gồm những hoạt động mà tổ chức dự định theo đuổi, thực hiện và những chính sách thể hiện những quy định, những chỉ dẫn cho việc thực hiện những công việc do kế hoạch đặt ra. Chiến lược thực hiện: Trên thực tế, rất nhiều các chiến lược được ra nhưng không thực hiện. Điều này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân. Trước hết, các chiến lược dù có tính toán và cân nhắc kỹ thì nó vẫn là sản phẩm của con người, một khi không tính toán hết các nhân tố ảnh hưởng thì chiến lược dự định sẽ không thể tồn tại được dưới thử thách khắc nghiệt của mội trường cạnh tranh khốc liệt. Thứ hai, thực tiễn quản trị chỉ ra rất nhiều các tổ chức quan tâm tới hoạch định chiến lược, họ đề ra các chiến lược rất hay, tốn rất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc song lại không quan tâm tới tổ chức thực hiện nó. Thứ ba, do không có kế hoạch thực hiện một cách có hiệu quả nên có nhiều chiến lược dự định rất tốt đẹp cũng sẽ không được triển khai trong thực tiễn, hoặc thất bại trong quá trình thực hiện – biến những ý định những ý tưởng thành hiện thực quả là một việc làm khó khăn. 7
  8. Từ những chiến lược được thực hiện ta thấy việc giám sát môi trường và phản ứng nhanh chóng, có hiệu quả với sự thay đổi của môi trường, việc phát triển tổ chức, phát triển người lao động và chức năng thực sự của người làm chủ, thực sự làm việc hết lòng và làm việc có hiệu quả cho sự phát triển của tổ chức có một ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện của một môi trường biến động và thay đổi rất nhanh như hiện nay. 2. QUÁ TRÌNH QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU: Trước đây, quyết định chiến lược được thực hiện một lần cho một khoảng thời gian dài, và nó là công việc của quản trị cấp cao. Hiện nay, quá trình quản trị chiến lược là một quá trình thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự tham gia của tất cả các thành viên trong tổ chức. Nói chung, quá trình quản trị chiến lược được thể hiện thông qua biểu hình sau: Xác định tầm nhìn và sứ mạng của tổ chức Phân tích môi trường Phân tích môi trường bên ngoài bên trong Xác định các mục tiêu chiến lược Hình thành chiến lược  Cấp công ty  Cấp kinh doanh  Cấp chức năng  Kinh doanh quốc tế Hoạch định và Đưa chiến lược Cấu trúc tổ chức 8 phân bổ vào hành động và và kiểm soát. các nguồn lực đạt tới sự hội nhập
  9. a. Phân tích môi trường Môi trường của một tổ chức được phân định thành môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Phân tích môi trường hay còn gọi là phân tích SWOT là nhằm tìm ra những cơ hội, đe dọa, điểm mạnh và điểm yếu của tổ chức. Quản trị chiến lược là việc tận dụng và phát huy các điểm mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu trong việc khai thác các cơ hội và né tránh các đe doạ của môi trường. Vì vậy, gắn việc phân tích môi trường nội bộ với môi trường bên ngoài sẽ tạo ra những gợi ý chiến lược cho sự phát triển của công ty. Phân tích môi trường bên ngoài Nghiên cứu môi trường bên ngoài là một quá trình phải tiến hành thường xuyên, liên tục không bao giờ dừng lại, vì nó chính là điều kiện đảm bảo sự thành công của chiến lược. Mục đích của nghiên cứu môi trường bên ngoài là nhằm nhận dạng những mối đe dọa cũng như những cơ hội có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Phân tích môi trường bên trong Thực chất của quản trị chiến lược là việc tìm ra và phát triển các lợi thế cạnh tranh, do đó việc hiểu biết môi trường nội bộ có một ý nghĩa to lớn. Phân tích môi trường nộibộ là nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của công ty, qua đó xác định các năng lực phân biệt và những lợi thế cạnh tranh của công ty. Bối cảnh để hiểu rõ các điểm mạnh và điểm yếu của công ty là dây chuyền giá trị của công ty, tình hình tài chính, văn hoá, tổ chức và lãnh đạo của công ty. Bàn về năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh hay những điểm mạnh và những điểm yếu của công ty tức là nói đến sự so sánh các mặt, các hoạt động của công ty so với các nhà cạnh tranh. Sẽ là vô nghĩa khi các phân tích nội bộ không gắn với việc so sánh một cách có ý nghĩa. b. Xác định sứ mạng và mục tiêu 9
  10. Xác định sứ mạng và mục tiêu là một trong những nội dung đầu tiên hết sức quan trọng trong quản trị chiến lược, nó tạo cơ sở khoa học cho quá trình phân tích và lựa chọn chiến lược công ty. Việc xác định bản tuyên bố về sứ mạng cho công ty được đặt ra không chỉ đối với các công ty mới khởi đầu thành lập mà còn đặt ra đối với các công ty đã có quá trình phát triển lâu dài trong ngành kinh doanh. Khi tổ chức mới hình thành thì nó phải có tầm nhìn và sứ mạng, song sứ mạng có thể phải thay đổi khi môi trường thay đổi. Vì vậy, việc xác định sứ mạng và mục tiêu được sẽ được trình bày sau khi phân tích môi trường. c. Hình thành chiến lược Chiến lược cấp công ty Tiến trình tăng trưởng và phát triển đặt công ty đứng trước sự chọn lựa về lĩnh vực kinh doanh và thị trường. Quá trình tăng trưởng của công ty có thể bắt đầu từ tập trung vào một lĩnh vực kinh doanh nào đó sau đó, thực hiện việc phát triển thị trường và tiến hành đa dạng hóa. Một quyết định quan trọng khi công ty lớn lên là có đa dạng hoá hay không? Khi công ty chỉ kinh doanh một loại sản phẩm mà không tiến hành đa dạng hóa thì chiến lược cấp công ty chính là chiến lược cạnh tranh (cấp kinh doanh). Việc tiến hành đa dạng hóa các hoạt động của công ty có thể diễn ra là hội nhập dọc (về phía trước và về phía sau) hoặc hội nhập ngang (đa dạng hóa đồng tâm và đa dạng hóa tổ hợp). Khi công ty tiến hành đa dạng hóa thì việc sử dụng các phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh sẽ đưa ra những gơị ý tốt cho định hướng hoạt động của các đơn vị kinh doanh chiến lược. Có thể sử dụng ba phương pháp phân tích cấu trúc kinh doanh đó là phương pháp BCG, phương pháp Mc. Kinsey và phương pháp d ựa trên sự phát triển của ngành. Chiến lược cấp kinh doanh và chức năng Để cạnh tranh một cách hiệu quả, công ty cần nhận dạng những cơ hội và đe dọa trong môi trường kinh doanh ngành cũng như xây dựng và phát triển những năng lực phân biệt nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh. Để chọn các chiến lược cạnh tranh trên cơ sở các năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh, các nhà quản trị cần hiểu nền tảng của chiến lược cạnh tranh, nguồn của lợi thế cạnh tranh, từ đó gắn nó với các chiến lược đầu tư trong bối cảnh phát triển của ngành. Năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh chỉ có thể được phát huy và phát triển khi các chức năng tạo ra sự cộng hưởng và mỗi chức năng là một nhân tố quan trọng để tạo ra giá trị cho khách hàng. Chiến lược cạnh tranh được hỗ trợ và bảo đảm bởi các chiến lược cấp chức năng. Việc hình thành và phát triển các chiến lược chức năng phải tạo ra sự cộng hưởng các chức năng nhằm phát huy và phát triển các lợi thế cạnh tranh của công ty. Các chiến lược về Marketing, tài chính, vận hành, nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực phải 10
  11. được thiết kế phù hợp với chiến lược cạnh tranh đã chọn, nhằm đạt tới các mục tiêu của chiến lược cạnh tranh và công ty. Chiến lược kinh doanh quốc tế Đối với các công ty, trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới hiện nay, việc thực hiện quốc tế hóa không còn là một lựa chọn nữa mà là tất yếu. Thực hiện chiến lược quốc tế hóa chính là nhằm để khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của công ty. Việc tiến hành quốc tế hóa mang lại nhiều lợi ích to lớn cho công ty, song nó cũng có rất nhiều điểm phức tạp do quy mô, địa lý và những khác biệt về văn hóa, xã hội và chính trị. Việc tiến hành quốc tế hóa các hoạt động đòi hỏi công ty phải xử lý các vấn đề về chọn quốc gia và chọn chiến lược cạnh tranh trên cơ sở tính toán và cân nhắc để hoàn thiện dây chuyền giá trị và phát triển lợi thế cạnh tranh. Các nguồn của lợi thế cạnh tranh phải được xem xét cân nhắc trong một bối cảnh toàn cầu rộng lớn và đặc biệt phải quan tâm tới yếu tố chính quyền và văn hóa. d. Thực hiện chiến lược Biến chiến lược thành hành động và đạt tới sự hội nhập Một chiến lược được vạch ra tốn kém rất nhiều thời gian và tiền của song nếu nó không được thực hiện tốt thì cũng trở thành vô nghĩa. Có được một chiến lược tốt đã là rất khó, biến nó thành hiện thực còn khó hơn rất nhiều. Một chiến lược thành công luôn là một quá trình trong đó các kế hoạch thực hiện chiến lược phải được chú trọng ngay trong quá trình hình thành c hiến lược. Sứ mạng được tuyên bố phải biến thành những hành động cụ thể. Các nhà quản trị phải bảo đảm rằng những hoạt động khác nhau trong tổ chức phải được hội nhập để đạt tới những lợi thế cạnh tranh. Kế hoạch thực hiện muốn có hiệu quả phải đảm bảo sự nhất quán của các mục tiêu và hoạt động. Vì thế quá trình hoạch định thường đi từ bao quát, tổng thể tới cụ thể, bắt đầu từ tầm nhìn chung rộng lớn tới ngân sách cụ thể hàng năm. Sự nhất quán logic cần được đảm bảo không chỉ giữa các mục tiêu ngắn và dài hạn mà còn là giữa các đơn vị và cá nhân với nhau và với toàn bộ tổ chức. Muốn bảo đảm sự thống nhất giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, giữa các bộ phận và cá nhân và hơn nữa, thông qua đó để đạt tới các mục tiêu dài hạn cần không ngoan sử dụng các chính sách và thủ tục. Khi tổ chức lớn lên, sẽ hình thành nhiều đơn vị và bộ phận với các mức độ độc lập khác nhau. Việc thực hiện chiến lược thành công hay không phụ thuộc vào việc có tạo ra được sự cộng hưởng giữa các đơn vị này hay không. Muốn vậy phải bảo đảm sự hội nhập giữa các chức năng và giữa các đơn vị kinh doanh chiến lược. Phân bổ các nguồn lực cho thực hiện chiến lược 11
  12. Việc thực hiện thành công các chiến lược luôn luôn đòi hỏi những thay đổi trong việc sử dụng các nguồn lực trong tổ chức. Do đó, việc hoạch định kỹ lưỡng sự thay đổi trong việc sử dụng các nguồn lực đóng vai trò quan trọng. Việc hoạch định sử dụng các nguồn lực sẽ được quan tâm với những cấp độ khác nhau ở các cấp chiến lược khác nhau. Nói chung, việc hoạch định nguồn lực luôn được quan tâm ở hai cấp độ. Trước hết, ở cấp độ rộng lớn, những nguồn lực nên được phân bổ thế nào giữa các chức năng, bộ phận, đơn vị khác nhau trong tổ chức. Thứ hai, những vấn đề chi tiết hơn, là các nguồn lực nên được bố trí thế nào trong mỗi các chức năng, bộ phận và đơn vị khác nhau trong tổ chức để bảo đảm chiến lược được chọn lựa được thực hiện tốt nhất và đảm bảo tạo ra và duy trì, phát triển lợi thế cạnh tranh. Một điều cần suy nghĩ là khi suy nghĩ về cách thức thực hiện chiến lược một cách có hiệu quả thì tính khả thi luôn là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng. Vì vậy, hoạch định việc phân bổ các nguồn lực cũng là một bộ phận của lượng giá chiến lược. Sẽ là vô nghĩa khi thấy một chiến lược là phi thực tế và không có khả năng thực hiện. Vì thế, khi hoạch định chiến lược các nhà quản trị cần thấy rằng: không chỉ hoạch định những gì cần thực hiện mà còn phải xem xét nó có khả năng thực hiện hay không. e. Cấu trúc tổ chức và kiểm soát chiến lược Một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển tổ chức là con người, vì thế cách thức trong đó nguồn lực này được tổ chức là rất quan trọng đối với việc thực hiện thành công các chiến lược đã định. Quan điểm truyền thống cho rằng chiến lược là một quá trình trên xuống, vì thế việc thiết kế hệ thống tổ chức là một phương tiện để thực hiện và kiểm soát. III. QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING XUẤT KHẨU Hoạch định hay lập kế hoạch là một hoạt động thiết yếu để đảm bảo xây dựng và thực thi được các chính sách và chiến lược Marketing thích hợp. Trong quá trình hoạch định chiến lược này tất cả các yếu tố quan trọng của quản trị như : tài chính, nhân sự, thông tin… đều được xem xét trong mối quan hệ tương tác qua lại tại mọi cấp độ quản trị của công ty, nhằm giúp công ty nói chung và chức năng quản trị nói riêng đạt được các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu bao gồm các hoạt động có tính hệ thống nhằm giúp công ty nhìn thấy những chương trình và hành động cụ thể để thực thi các chiến lược Marketing xuất khẩu của nó. Hoạch định chiến lược có thể mang tính ngắn hạn hay dài hạn. Thông thường một công ty kinh doanh quốc tế thường lập kế hoạch cho 3 năm hay 5 năm tới và kế 12
  13. hoạch này sẽ được xem xét lại hàng năm. Sau đó, từ các kế hoạch dài hạn, tuỳ từng mục tiêu và tình hình cụ thể mà công ty xây dựng các kế hoạch ngắn hạn. Trên thực tế, việc hoạch định chiến lược Marketing thường được thực hiện dựa trên kinh nhiệm của hoạt động hoạch định trên thị trường nội địa, kết hợp với kinh nghiệm mà công ty đã đúc kết trong quá trình hoạt động kinh doanh quốc tế của mình. Nói cách khác, nội dung các bước của quá trình hoạch định chiến lược Marketing xuất khẩu cũng tương tự như trong Marketing nội địa, bao gồm các bước sau: 1. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CHIẾN LƯỢC Các công ty kinh doanh quốc tế hoạt động trong một môi trường phức tạp có thể được phân thành ba bộ phận cơ bản: môi trường trong nước, môi trường quốc tế, môi trường nước chủ nhà, là loại môi trường giới hạn trong nội bộ quốc gia. Trong khi đó, môi trường Marketing quốc tế chính là loại môi trường biểu hiện mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. a. Môi trường quốc gia: Môi trường quốc gia là nơi mà các công ty kinh doanh quốc tế dựa vào để tạo ra bàn đạp cho các hoạt động nước ngoài của mình. Vì vậy những tình huống trong nước cũng sẽ ảnh hưởng đến bản chất và vị trí của các chiến lược xuất khẩu của công ty. Trong khi môi trường trong nước giới hạn trong một quốc gia, môi trường nước chủ nhà dường như bao gồm các thị trường quốc gia phức tạp mang tính đồng nhất hay không đồng nhất. Ngoài tính đa dạng của nó các thị trường nước chủ nhà sẽ ít quen thuộc và khó nhận thức hơn môi trường trong nước ít nhất là vào giai đoạn đầu của xâm nhập thị trường. Môi trường kinh tế:  Các nguyên tắc kinh tế cơ bản Những ẩn chứa bên trong thị trường kinh tế chi tiết có thể nhận thức rõ nhất trong hoàn cảnh hệ thống kinh tế riêng biệt trong một thị trường được quan tâm. Các thông tin có liên quan đến bản chất của hệ thống kinh tế, cấu trúc kinh tế và mức độ phát triển kinh tế trong một thị trường nhất định cần được xem xét. - Hệ thống kinh tế Có hai hệ thống kinh tế cơ bản là nền kinh tế thị trường và tập trung. Thực tế đã chứng minh tất cả các nền kinh tế có một số đặc điểm của cả hai hệ thống, và không có ví dụ hoàn hảo nào của hai hệ thống tồn tại. Tất cả các nền kinh tế quốc gia là nền kinh tế hỗn hợp, và ở đâu đó giữa dải biến thiên có một cực là nền kinh tế thị trường lý tưởng và nền kinh tế tập trung lý tưởng. Điểm ở dải biến thiên này xác định vị trí của nền kinh tế là rất quan trọng vì nó đưa ra các thông tin cần thiết về động lực cơ bản của nền kinh tế. 13
  14. Trong nền kinh tế thị trường, cơ chế thúc đẩy hoạt động là sự tương tác giữa các lực lượng thị trường, qua hệ thống giá, điều khiển sử dụng nguồn lực vào sản xuất và phân phối hàng hoá, dịch vụ. Cung cấp nhiên liệu cho hệ thống này là các ý tưởng như cạnh tranh hoàn hảo, quyền tự do của doanh nghiệp và chủ quyền của người tiêu dùng. Các Chính phủ có vai trò không quan trọng trong một nền kinh tế như vậy. Trong nền kinh tế tập trung, tác động của các lực lượng thị trường bị giới hạn. Các nguồn lực được sử dụng như thế nào và các sản phẩm được phân phối như thế nào được Chính phủ chỉ định. Để hệ thống này có thể hoạt động các phương pháp kế hoạch hoá phức tạp và quyền sở hữu công cộng là cần thiết. Các kế hoạch được chi tiết hoá cao, chúng chỉ rõ các mức của sản xuất , giá và mô hình phân phối. - Cấu trúc kinh tế Có hai cách phân loại các khu vực kinh tế. Cách thứ nhất, một giản đồ phân loại thông thường phân định giữa ba khu vực trong một nền kinh tế. Ba khu vực này là: 1- Khu vực nông nghiệp gồm: nông, lâm nghiệp, săn bắn và thuỷ sản; 2-Khu vực công nghiệp gồm: khai mỏ, sản xuất, xây dựng, điện lực, thuỷ lợi và khí đốt; 3-Khu vực dịch vụ gồm tất cả các hình thái khác của hoạt động kinh tế. Cách thứ hai, theo cách này thì cấu trúc của một nền kinh tế được phân định ra làm bốn khu vực kinh tế : 1- Khu vực cơ bản: gồm các hoạt động dựa trên nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; 2- Khu vực sản xuất; 3- Khu vực tiêu dùng gồm: năng lượng và nước; 4- Khu vực dịch vụ. Thông thường ở các nước kém phát triển phụ thuộc vào nông nghiệp nhiều hơn so với các nước giàu có các hoạt động sản xuất và dịch vụ có tỷ lệ tương đối lớn hơn rất nhiều.Thậm chí trong một khu vực công nghiệp nhất định, bản chất hoạt động kinh tế trong một quốc gia khác biệt rất lớn với các quốc gia khác. - Mức độ phát triển kinh tế Mức độ phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới trải dài từ tỷ lệ rất thấp đến rât cao. Phát triển kinh tế được đo lường bằng toàn bộ GDP và thu nhập theo đầu người là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế và những kết quả thay đổi cấu trúc thường được gọi là phát triển kinh tế. Chuẩn mực thông thường nhất để đo lường phát triển kinh tế và phân loại các quốc gia thành những nhóm khác nhau là tổng sản phẩm quốc gia ( GNP ) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người.  Các biến kinh tế then chốt Tiềm năng kinh tế của một quốc gia được đo lường thông qua 5 biến số kinh tế then chốt sau: - Tài nguyên thiên nhiên 14
  15. Tài nguyên thiên nhiên là những hình thái tiềm tàng của cải mà thiên nhiên ưu đãi. Chúng bao gồm các khoáng sản, nước, đất đai, địa lý và khí hậu, các nguồn năng lượng. Tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia là một lý do quan trọng để giải thích mô hình các hoạt động kinh tế của quốc gia đó. Do nguồn tại nguyên ở các quốc gia là không giống nhau nên mỗi một quốc gia có những hoạt động kinh tế nổi bật dựa trên tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của họ. Tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác. - Địa lý và khí hậu Địa lý và khí hậu có tác động đến hoạt động Marketing quốc tế theo những cách thức căn bản và lâu dài. Đó là, các nhân tố địa lý dẫn đến sự sẵn có hay khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhân tố địa lý cũng tác động đến quyết định của nhà quản trị Marketing, chúng có thể là nguồn lực, là sự kiềm chế, có ảnh hưởng đến sự sống còn của thị trường . Khí hậu là một khía cạnh của địa lý có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển và hoạt động kinh tế của một quốc gia. Tầm quan trọng của khí hậu như là nguồn lực được minh hoạ bởi khả năng của các nước nhiệt đới có thể sản xuất ra một số loại hoa quả nhiệt đới để xuất khẩu sang các nước mà không thể trồng chúng. Cuối cùng, địa lý và khí hậu có tác động quan trọng đối với sự tồn tại của thị trường qua việc có nhiều hay khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đồng thời xác định nền kinh tế sẽ phát triển đến đâu. Bên cạnh đó, các đặc điểm địa lý còn tác động đến chi phí và mức dễ dàng của phân phối hàng hoá. - Thông tin nhân khẩu học Các thông tin nhân khẩu học có tầm quan trọng đặc biệt vì nó giúp chúng ta đánh giá được mức độ và mô hình nhu cầu ở một thị trường nhất định và bản chất của lực lượng lao động ở địa phương. Trước hết, quy mô của thị trường tiềm năng là một yếu tố sống còn của thị trường. Tuy nhiên nếu chỉ đề cập đến quy mô mà không đề cập đến sức mua thì sẽ trở nên vô nghĩa. Đôi khi tăng trưởng dân số nhanh hơn là tăng trưởng kinh tế, điều này đáng lo ngại ở các nước phát triển Châu Phi. Tỷ lệ phát triển dân số và quy mô của dân số sẽ ảnh hưởng khả năng tiến triển về kinh tế của xã hội và đặt nền móng cho tương lai. Nó đồng thời cũng ảnh hưởng đến sự phân bổ của thu nhập hiện tại cũng như tương lai. Độ tuổi cấu thành của dân số cũng là mối quan tâm của các nhà quản trị Marketing. Những gia tăng và suy giảm dân số của một nhóm tuổi nhất định cũng liên quan chặt chẽ đến nhu cầu của những hàng hoá và dịch vụ nhất định. - Kết quả kinh tế 15
  16. Dữ liệu tổng thu nhập quốc dân và tổng thu nhập quốc gia trên đầu người là những chỉ tiêu kết quả kinh tế đã được đề cập tới. Đặc biệt tỷ lệ tăng trưởng có tác động rất lớn đến mức sống tương đối giữa các quốc gia. Ngoài ra, các chỉ tiêu sau đây cũng được sử dụng để đánh giá kết quả kinh tế:  Các số liệu quá khứ và hiện tại về số liệu thất nghiệp và năng suất lao động.  Lạm phát.  Cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ.  Đầu tư và tiết kiệm.  Nguồn cung ứng tiền tệ và tỷ lệ lãi suất.  Chỉ số hàng tiêu dùng và thương mại ngoài nước.  Tỷ giá hối đoái của tiền địa phương và thuế. - Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là mạng lưới các phương tiện và dịch vụ cần thiết cho việc hoạt động hoá một nền kinh tế. Mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng của một quốc gia ảnh hưởng đến mức độ sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên của nó. Cơ sở hạ tầng đồng thời quyết định các nhà quản trị Marketing có thể tiếp cận được với các thị trường sống động hay không. Một thị trường mục tiêu rộng lớn có sức mua cao có rất ít giá trị nếu hàng hoá và dịch vụ không bán được cho người tiêu dùng do hệ thống giao tiếp không tốt hoặc đ ường xá tồi tệ. Các linh vực có tầm quan trọng đặc biệt và ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh tế trong và ngoài nước của các quốc gia là nguồn năng lượng, các phương tiện vận tải, giao tiếp, các dịch vụ thương mại và tài chính. Đặc biệt chất lượng là sự sẵn có của các dịch vụ hỗ trợ như Marketing, phân phối, ngân hàng là những nhân tố quan trọng giữa các thị trường. - Chính sách kinh tế Chính sách của chính phủ được phản ánh trong các tuyên bố và luật pháp chính thức của nó điều chỉnh xã hội và phân bổ nguồn lực. Các chính sách kinh tế của nước nhà có ảnh hưởn rất to lớn đến kết quả thực hiện các hoạt động kinh tế. Đặc biệt các chính sách về tài chính và tiền tệ và các chính sách kinh tế khác có tác động trực tiếp đến kết quả hiện kinh tế hiện tại cũng như tương lai. Các biện pháp kích thích ( mức thuế, trợ cấp) cũng như kiểm soát ( giá, nhập khẩu, luật lệ chi trả và chuyển tiền cho quyền tác giả ) của chính phủ nhất là khi chúng tác động vào các công ty ngoại quốc, cần phải được các nhà quản trị thường xuyên xem xét. Và khi kinh doanh ở các thị trường khác nhau các nhà quản trị cũng phải xem xét hiệu quả của công tác quản lý và dự phòng của chính phủ về các sản phẩm và dịch vụ quan trọng( đặc biệt là các dịch vụ có liên quan đến cơ sở hạ tầng). Môi trường thương mại 16
  17. Thông thường, tất cả các chính phủ trên thế giới cố gắng điều hoà các dòng vận động thương mại quốc tế nhằm đảm bảo một số loại hàng xuất khẩu không đến sai địa chỉ, và các nghành hàng trong nước không bị phá huỷ bởi các hàng nhập khẩu. Để làm được điều này các chính phủ thường sử dụng các hàng rào thương mại. Có ba hình thức hàng rào thương mại chính: thuế quan, hạn ngạch và các hàng rào phi thuế.  Thuế quan: Thuế quan là các mức thuế mà được đặt ra đối với các hàng xuất hoặc nhập khẩu. Có một số loại thuế quan như sau: Thứ nhất, các thuế quan theo giá hàng được thu như một tỷ lệ phần trăm nhất định của trị giá hàng hoá sẽ bị đánh thuế. Thứ hai, thuế theo số lượng là mức độ cố định được thu dựa trên mỗi đơn vị địa lý được nhập hay xuất khẩu. Thứ ba, thuế phức hợp kết hợp hai loại thuế quan theo giá hàng và theo số lượng thông qua thiết lập một đơn vị thuế cố định và thêm một lượng biến đổi vào các tỷ lệ cơ sở này có liên quan đến trị giá hàng hoá. Thuế không những là nguồn thu mà quan trọng hơn nó còn là biện pháp bảo hộ đối với hàng hoá nhập khẩu. Thuế quan đồng thời tác động trực tiếp( làm gia tăng ) đối với giá cả hàng hoá.  Hạn ngạch: Khác với thuế không giới hạn danh mục hàng hoá kinh doanh, hạn ngạch hạn chế trực tiếp khối lượng vật lý hoặc ( ít thông thường hơn ) giá trị của hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Hạn ngạch thường được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước đối với cạnh tranh quốc tế, nhưng nó không tạo ra lợi nhuận cho chính phủ đặt ra hạn ngạch đó.  Hàng rào phi thuế: Các hàng rào phi thuế quan ( NTB )gồm tất cả các biện pháp hạn chế mậu dịch nhân tạo khác. Các hình thức quan trọng nhất của NTB là:  Trợ giúp các nhà sản xuất trong nước.  Các hạn chế xuất khẩu tự nguyện.  Các luật lệ và thủ tục điều tra chống phá giá có thành kiến.  Việc mua sắm của Chính phủ ưu đãi các nhà sản xuất địa phương.  Kiểm soát ngoại hối.  Các quy tắc và kiểm soát tiêu chuẩn sản phẩm được thiết lập nhằm hạn chế nhập khẩu.  Các yêu cầu hải quan và văn bản hạn chế thương mại.  Kiểm soát xuất khẩu được thiết lập để can thiệp các dòng vận động thương mại vì các lý do chính trị hoặc chiến lược. Các hàng rào phi thuế có lợi thế là ít rõ rệt hơn các hàng rào khác, và tầm quan trọng của nó ngày càng tăng trong khi có sự suy giảm của những hạn chế thương mại 17
  18. thuế quan và hạn ngạch. Đây là một vấn đề quan trọng do nó làm suy giảm tác động và hiệu quả các biện pháp. Môi trường chính trị Ngoài những lĩnh vực nhất định có sự tham gia của Chính phủ, thì môi trường chính trị ở hầu hết các quốc gia cũng thường tạo ra sự hỗ trợ chung cho các nỗ lực Marketing của các công ty của họ. Trên thực tế, các mối quan hệ qua lại được phát triển giữa các nhóm có lợi ít khác nhau trong một quốc gia thường tạo nên các quá trình và sự kiện chính trị. Trong môi trường chính trị này, hầu hết các đất nước, Chính phủ quốc gia đong vai trò quan trọng do có khả năng lập pháp, đánh thuế và tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị. Nhưng môi trường chính trị ở quốc gia bị ảnh hưởng lớn bởi nhiều biến bản chất hình thành nên khunh cảnh của tất cả các hoạt động chính trị. Ý thức hệ, giai cấp, các hệ thống kinh tế đang thịnh hành và chủ nghĩa dân tộc là một số biến trong những biến then chốt trên, chúng đồng thời là mối quan tâm đặc biệt của các công ty kinh doanh quốc tế. Các hoạt động kinh doanh có thể bị Chính phủ can thiệp hoặc bị ảnh hưởng bởi các sự kiện và đặc điểm của môi trường. Điều quan trọng nhất là phải phân biệt giữa các sự kiện chính trị và tác động của chúng đến công ty. Những tác động của sự kiện chính trị đến một công ty phụ thuộc vào hai yếu tố: các điều kiện môi trường và các nhân tố đặc trưng của công ty và ngành hàng mà nó kinh doanh. Bên cạnh đó, rủi ro chính trị không phải là giống như sự ổn định về chính trị. Rủi ro chính trị là xác xuất thay đổi của kết quả thực hiện của tập đoàn tạo ra do các sự kiện chính trị. Khi tiến hành nghiên cứu môi trường chính trị các công ty kinh doanh quốc tế cần phải quan tâm đến các khía cạnh sau:  Môi trường ý thức hệ và các quá trình chính trị.  Chủ nghĩa quốc gia.  Sự can thiệp của Chính phủ .  Sự ổn định về chính trị. Thông qua công tác nghiên cứu các khía cạnh của môi trường chính trị là cơ sở để các công ty KDQT tiến hành hoạt động đo lường và phản ứng với các rủi ro chính trị. Thực tế luôn tồn tại rủi ro chính trị ở các quốc gia nhưng mức độ của chúng là không giống nhau. Nhìn chung rủi ro chính trị sẽ thấp nhất ở các quốc gia có một lịch sử phát triển ổn định và nhất quán. Khi tiến hành đánh giá hiệ`u quả rủi ro chính trị của một công ty KDQT ở cả trong và ngoài nước cần đánh giá theo hai bước riêng biệt: 18
  19. Bước 1: bao gồm dự báo mội trường chính trị trong quốc gia đang quan tâm ở mức vĩ mô - tổng quát. Bước 2: đây là bước quan trọng hơn và khó khăn hơn, là việc tiến hành phân tích ở mức vi mô về các vận dụng rủi ro chính trị của dự báo chung được đánh giá cho một công ty KDQT riêng biệt. Công việc này đòi hỏi phải quan tâm đến các đặc điểm, hành động và lịch sử riêng có của công ty trong một thị trường nhất định. Việc phân tích phải tập trung vào nhận biết các cơ hội cũng như các nguy cơ có thể xảy ra. Công tác đo lường rủi ro chính trị được tiến hành theo hai khía cạnh khác nhau là rủi ro vi mô và rủi ro vĩ mô. Đối với mỗi loại rủi ro các công ty cần phải có những phương pháp đo lường thích hợp từ đó thu được kết quả chính xác và có các biện pháp khắc phục đúng đắn. Môi trường luật pháp Một công ty KDQT hoạt động đồng thời phải đối mặt với một môi trường luật pháp. Môi trường luật pháp tác động đến hoạt động của công ty kinh doanh quốc tế bao gồm ba khía cạnh khác biệt: 1-luật pháp nước nhà; 2-các luật pháp ở thị trường nước ngoài; 3-luật pháp quốc tế. Cũng như môi trường chính trị, môi trường luật pháp đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động Marketing quốc tế . Thậm chí với những kế hoạch kinh doanh tốt nhất có thể bị huỷ hoại do những ảnh hưởng bất ngờ của chính trị và luật pháp, và nếu nhà kinh doanh thất bại trong hoạt động dự báo các nhân tố này có thể không thực hiện được một dự án kinh doanh. Các nhà kinh doanh phải tính đến môi trường luật pháp nước nhà cũng như nước chủ nhà.  Môi trường luật pháp nước nhà: Không có một nhà kinh doanh nào bỏ qua các chính sách và quy định của quốc gia mà từ đó họ tiến hành các giao dịch Marketing quốc tế của mình. Cho dù công ty KDQT đặt trụ sở của mình ở đâu, nhưng nó sẽ phải chịu tác động của chính phủ và hệ thống luật pháp nước nhà. Trên tực tế đã có rất nhiều các bộ luật và các quy định của quốc gia được đưa ra không phải nhằm điều chỉnh riêng hoạt động Marketing quốc tế nhưng nó lại có ảnh hưởng đến cơ hội nước ngoài của công ty. Tuy nhiên, lại có một số các công cụ pháp luật được định hướng rõ ràng với các hoạt động Marketing quốc tế. Một số đưa ra nhằm hỗ trợ nỗ lực quốc tế của các công ty, nếu không thực hiện có thể làm nguy hại đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Hơn nữa, rất nhiều quốc gia có hệ thống kiểm soát xuất khẩu đ ược thiết kế nhằm ngăn cản, làm chậm trễ hoặc loại trừ các đối thủ có thể có được hàng hoá có tầm quan trọng chiến lược . 19
  20. Ngoài ra, các quốc gia nước nhà có thể thi hành các bộ luật và quy định đặc biệt nhằm đảm bảo rằng các hành vi kinh doanh quốc tế của các công ty của nước nhà được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp, đạo đức và đạo lý thích hợp.  Môi trường luật pháp nước chủ nhà: Các công ty kinh doanh quốc tế cần phải hiểu biết và tuân thủ với các luật lệ có liên quan ở các thị trường nước ngoài. Đặc biệt, đối với các công ty có hoạt động nước ngoài rộng khắp trên thị trường thế giới có một loạt cơ sở luật pháp khác nhau cần phải được xem xét. Tính đa dạng trong các hệ thống luật pháp quốc gia và các luật lệ liên quan là rất cao và gây ra rất nhiều khó khăn cho các công ty kinh doanh quốc tế . Trước hết, điều cơ bản là phải nhận thức rõ bản chất cốt lõi của hệ thống luật pháp trong các thị trường mà họ quan tâm.Sự phân định quan trọng là giữa hệ thống bộ luật và luật chung. Mặc dù cần phải chú ý phân định giữa hai hệ thông luật này nhưng cần đặc biệt chú ý là những nét tương đồng bề ngoài trong hệ thống luật pháp có thể che dấu những khác biệt quan trọng. Do vậy các chi tiết cụ thể của luật pháp nước chủ nhà là mối quan tâm hàng đầu của ban quản trị. Cụ thể là các công ty thường quan tâm đến lĩnh vực sau của hệ thống luật pháp. Thứ nhất, luật lệ có tác động đến phương thức xâm nhập thị trường được chú ý đến- nhập khẩu, bản quyền, đầu tư nước ngoài trực tiếp, và liên doanh –là quan trọng nhất.Trong một số quốc gia, có vô số các luật lệ có hiệu lực mà công ty nước ngoài phải tính đến. Ngoài ra, nhưng sự khác biệt trong hoàn cảnh luật pháp quốc gia, các nhu cầu và những ưu thế khác.Đôi khi chúng là kết quả của một chiến lược khác có ý thức. Các khung luật pháp không quen thuộc và những đặc điểm khác thường có liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm sẽ gia tăng tính không ổn định và nâng cao chi phí xâm nhập thị trường. Cuối cùng, điều quan trọng là việc diễn giải môi trường luật pháp của nước chủ nhà không được giao cho những người không chuyên. Ý kiến và lời khuyên của các chuyên gia là cần thiết; nhưng nguồn phân tích quan trọng và tốt nhất là các luật sư quen thuộc với sự vận hành của hệ thống luật pháp địa phương và việc vận dụng các luật lệ có liên quan. b. Môi trường kinh tế quốc tế Các công ty hoạt động trên thị trường quốc tế không những chịu những tác động của các xu thế phát triển trọng thương mại quốc tế mà còn bị ảnh hưởng bởi xu thế hội nhập kinh tế vùng và thế giới. Đặc điểm hội nhập kinh tế vùng có ảnh hưởng quan trọng đối với các công ty đang hoạt động trong các thị trường . Hội nhập kinh tế diễn ra trong nhiều hình thức khác nhau, nhưng đặc biệt bao hàm hợp tác kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa các quốc gia. Các kế hoạch thông thường nhất được đưa ra để giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành viên tham gia. Các hình 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0