intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Paradise_12 Paradise_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

149
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng và toàn diện của các quốc gia. Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, trong vòng hơn 10 năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Lớp : A1 K37A Khoá 37 Hà Nội Giáo viên hướng dẫn: Th.S Bùi Thị Lý, Khoa KTNT Hà Nội – 2002
  2. LỜI NÓI ĐẦU Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng và toàn diện của các quốc gia. Thực hiện đường lối đổi mới, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, trong vòng hơn 10 năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Không chỉ đơn thuần thực hiện mở cửa thị trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách kinh tế mà nổi bật nhất là bổ sung, hoàn thiện hơn nữa chính sách thương mại nhằm phù hợp với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia và thực hiện một cách đầy đủ các cam kết hội nhập. Đặc biệt trong chính sách thương mại của Việt Nam thì lĩnh vực thương mại hàng hoá được đề cập nhiều nhất, chiếm vị trí quan trọng và luôn được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi bổ sung, điều chỉnh. Nhận thức rõ được vấn đề trên, người viết chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp : "Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế". Đề tài nghiên cứu này được xây dựng nhằm mang bổ sung một cái nhìn chi tiết về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, những sự điều chỉnh trong chính sách thương mại trong hội nhập, làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách hơn nữa, góp phần đưa Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào kinh tế khu vực và thế giới. Để thực hiện đề tài nghiên cứu, người viết chủ yếu dựa vào phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp bổ trợ như phân tích, thống kê... kết hợp các công cụ hỗ trợ như hệ thống bảng biểu... nhằm minh hoạ rõ nét các vấn đề nghiên cứu.
  3. Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu Tham khảo, khoá luận có kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Thực trạng những cải cách trong chính sách thương mại Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế. Trong chương này người viết đề cập đến những cải cách trong các chính sách thuế, phi thuế và một số lĩnh vực khác đồng thời điểm lại tiến trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế của Việt Nam. Chương II: Những điều chưa phù hợp trong chính sách thương mại hàng hoá của Việt Nam so với các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế. Trong chương này người viết lần lượt trình bày các quy định về thương mại của các tổ chức kinh tế quốc tế, lộ trình hội nhập của Việt Nam cũng như những tồn tại trong chính sách thương mại của Việt Nam Chương III: Phương hướng điều chỉnh chính sách thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong chương này người viết nêu lên những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi phải điều chỉnh chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, trình bày những thành tựu của Việt Nam sau 15 năm mở cửa và hội nhập đồng thời cũng điểm lại kinh nghiệm trong chính sách thương mại của một số nước; cuối cùng là một số đề xuất chủ quan về những vấn đề cần xử lý trong chính sách để hội nhập kinh tế quốc tế đạt được như mục tiêu đề ra. Với kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, khoá luận tốt nghiệp này không thể không tránh khỏi những sơ sót nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo và bạn bè cùng trường. Cuối cùng, em xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương đã nhiệt tình dạy dỗ và cung cấp cho em những kiến thức cần thiết và bổ ích trong quá trình em học tập tại trường. Đặc biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, Th.S Bùi Thị Lý - người đã
  4. tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp của mình. CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG NHỮNG CẢI CÁCH TRONG CHÍNH SÁCH THƯƠNG M ẠI VIỆT NAM KỂ TỪ KHI THỰC HIỆN ĐỔI MỚI KINH TẾ Chính sách thương mại là một hệ thống các quan điểm, giải pháp liên quan đến thuế quan, bảo hộ, các quy chế thương mại, thông qua đó Chính phủ có thể thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo những định hướng nhất định. Chính sách thương mại liên quan chặt chẽ đến chính sách công nghiệp, chính sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ, và nói chung được quy định bởi đường lối phát triển mỗi quốc gia. Kinh nghiệm của các nền kinh tế năng động đã chỉ ra rằng, ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, chính sách thương mại đã được sử dụng như một công cụ nhằm phân bổ tối ưu các nguồn lực giữa các quốc gia cũng như trong mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, sự tiến triển của chính sách ngoại thương gắn liền với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và tìm kiếm con đường công nghiệp hóa đất nước. Do vậy tính chất không nhất quán và đôi khi mâu thuẫn trong chính sách và giữa chính sách với sự áp dụng nó trong thực tế là điều dễ hiểu. Tuy nhiên những tiến triển trong chính sách cũng cho thấy một xu hướng cơ bản là Việt Nam đang vững bước trên con đường chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trên cơ sở nắm bắt được xu thế vận động của thế giới, nắm vững quy luật kinh tế và vận dụng có sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước ta,
  5. Nhà nước đã tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế, trong đó những đổi mới, điều chỉnh và cải cách trong chính sách thương mại là bộ phận quan trọng
  6. I/ Những cải cách trong chính sách thuế 1. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công cụ quan trọng trong chính sách thương mại của nhà nước nhằm điều tiết lượng hàng hoá được xuất khẩu, nhập khẩu, nó có tác động làm tăng giá đối với hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu. Nó còn tác động lên tổng cung, tổng cầu của nhiều hàng hoá khác. Vì vậy, chúng ta có thể nói chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một bộ phận quan trọng nhất trong toàn bộ chính sách ngoại thương của nhà nước ta trong thời kỳ hiện nay. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu được ban hành vào tháng 12 năm 1991, có bổ sung sửa đổi vào năm 1993 và năm 1999. Luật thuế xuất nhập khẩu ra đời giúp các doanh nghiệp chủ động trong khâu tính toán, lựa chọn mặt hàng, bạn hàng phù hợp sao cho đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Đối với nhà nước, thuế xuất nhập khẩu là công cụ quản lý hữu hiệu, hơn thế nữa, đây là nguồn thu lớn của ngân sách nhà nước, qua bảng số liệu dưới đây cho thấy, mức động viên bình quân của thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước khoảng 18%.
  7. Bảng tóm tắt tình hình thu thuế nhập khẩu từ năm 1996 đến năm 2000 Đơn vị tính: Tỷ VND Tổng thu ngân Tổng thu thuế Tỷ lệ % tổng thu thuế nhập Năm sách nhà nước nhập khẩu khẩu so với tổng thu ngân sách từ thuế nhà nước 1996 60925 11991 19,68 1997 63303 10980 17,34 1998 68250 11191 16,39 1999 77741 12584 16,19 2000 90540 10580 11,69 Nguồn : - Tổng cục Hải quan - Bộ Tài chính Ngoài ra thuế nhập khẩu còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng ngoại nhằm làm giảm sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Thông qua thuế, nhà nước tiến hành hướng dẫn tiêu dùng, mở rộng kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách thị trường và bạn hàng, thực hiện những cam kết của chính phủ ta với chính phủ nước ngoài. Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách thuế quan của chúng ta đã có nhiều thay đổi, đã đáp ứng phần nào yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác của Đảng và Nhà nước. Không chỉ có vậy, thuế xuất khẩu nhập khẩu đã đáp ứng được yêu cầu tăng cường kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu được điều chỉnh thể hiện sự quan tâm và chú ý của Đảng và nhà nước. Cụ thể như: lập lại danh mục hàng hoá theo cách phân chia của thị trường thế giới
  8. quy định rõ những mặt hàng cấm xuất khẩu, nhập khẩu , những mặt hàng phải quản lý bằng hạn ngạch quy định các biện pháp hành chính khác . Thuế suất được xây dựng tuỳ thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu, vào sự chênh lệch giá cả trong nước và quốc tế. Chúng ta đã có những cố gắng trong việc đưa ra chính sách thuế phù hợp để bảo hộ sản xuất trong nước. Ngoài ra quy chế thuế suất được thay đổi để có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến đổi của thị trường. Về thuế xuất khẩu, nhà nước ta quy định mức thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá với một số mặt hàng khác. Về thuế nhập khẩu, nhà nước ban hành chính sách thuế theo hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng thiết bị, hạn chế việc nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Lĩnh vực hoạt động buôn bán với các nước có chung biên giới cũng được quy định cụ thể. Quyết định số 78/TTg ngày 28-2-1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định chấn chỉnh việc quản lý tình hình buôn bán giữa Việt Nam với các nước có chung biên giới thực hiện đúng theo Hiệp định thương mại đã ký với các nước và tập quán thương mại quốc tế. Đặc biệt trong tình hình kinh tế mới, để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu ngày 8-8- 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/1998/QĐ-TTg sửa đổi chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch. Quyết định naỳ bãi bỏ chế độ thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiểu ngạch quy định tại Quyết định số 115/HĐBT ngày 8-2-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), áp dụng chế độ thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chính ngạch đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu tiểu ngạch để thống nhất chế độ thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý tốt hơn nữa hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu .
  9. Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng được lập lại cụ thể hơn, hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình kinh tế mới, đáp ứng tiến trình hội nhập kinh tế. Năm 1992 theo Quyết định số 172/TCTK-QQD ngày 1-11-1992 Tổng cục Thống kê đã ban hành danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam trên cơ sở hệ thống điều hoà (HS) của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới (Custom Co-operation Council - CCO). Trong bảng danh mục này, hàng hoá được phân theo phần, chương, nhóm, phân nhóm và mặt hàng đến cấp mã 6 chữ số. Kể từ khi ban hành bảng danh mục đã góp phần phục vụ có kết quả cho nhiều mục đích trong đó có công tác xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động thương mại quốc tế nước ta trong quá trình đổi mới và việc gia nhập các tổ chức thương mại đa phương, danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của nước ta đã được hoàn thiện thêm và phân loại chi tiết hơn. Theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại Văn bản số 5469/KHTH ngày 29-9-1995), Tổng cục Thống kê cùng với Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thuế đã hoàn thiện bảng danh mục ở cấp mã 8 chữ số. Ngày 26-12-1995, Tổng cục Thống kê đã ban hành “ Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam “ phân loại chi tiết đến cấp mã 8 chữ số theo Quyết định 324/TCTK-QĐ và được áp dụng kể từ 1-1-1996. Bảng danh mục này được thay thế cho danh mục ban hành năm 1992 và được áp dụng thống nhất cho tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế quốc dân có liên quan đến việc phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quản lý hoạt động ngoại thương, xây dựng biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là một bước tiến lớn trong chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển thương mại quốc tế và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Biểu thuế bước đầu đã được điều chỉnh với 97 chương, bao gồm 5938 dòng hàng (thời điểm 1/1/1999). Tuy nhiên biểu thuế của chúng ta được đánh giá là phức tạp và thường xuyên thay đổi. Số mức thuế suất giảm từ 36 ở thời điểm 1995, xuống còn 31 vào năm 1996, sau đó lại tăng lên 35 vào 1997, rơi xuống còn 26 mức thuế suất vào thời điểm 1998 (từ 0% đến 60%), và cuối
  10. cùng chỉ còn 18 mức thuế tính cho đến 1999. Số dòng hàng cho đến nay đã được bổ sung lên đến khoảng 6400 dòng hàng. (Dự án UNDP VIE 95/015 “Xúc tiến hội nhập của Việt Nam với ASEAN: Hội nhập của Việt Nam với ASEAN: khảo sát các biện pháp tác động tới thương mại”) Đặc biệt từ cuối năm 1997 đến nay để hạn chế và quản lý tốt hơn tình hình nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng, Nhà nước đã chủ trương dán tem một số mặt hàng. Chủ trương dán tem hàng nhập khẩu cho phép quản lý tốt hơn hoạt độnh nhập khẩu, hạn chế trốn lậu thuế, góp phần phát huy tác dụng điều hành xuất khẩu, nhập khẩu của chính sách thuế của Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. 2. Thuế tiêu thụ đặc biệt Luật thuế tiêu thụ đặc biệt có hiệu lực vào 1/1/1999. Luật thuế này ra đời thay thế thuế thương mại đặc biệt năm 1990. Luật thuế mới ra đời phân biệt một cách rõ ràng : ”thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu thô nhập ngoại”. Những loại thuốc lá này phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là 65% trong đó thuốc lá điếu xì gà được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu thô trong nước phải chịu mức thuế tiêu thụ đặc biệt là 45%. Thuế tiêu thụ đặc biệt mới ra đời xoá bỏ những quy định của thuế cũ đánh vào ô tô nhập khẩu. Những quy định đó tồn tại từ tháng 10/1995, trong đó mức thuế bảo hộ áp dụng là 200% nếu tiến hành lắp ráp nội địa (CIE 1998a, trang 40). Tuy nhiên phạm vi miễn thuế trong luật mới hầu như không thay đổi. Theo luật, việc miễn thuế sẽ được quy định ở các cấp độ khác nhau phụ thuộc vào tình trạng của doanh nghiệp: doanh nghiệp gặp khó khăn do : “thảm họa, thiên tai” ; doanh nghiệp sản xuất bia quy mô nhỏ chịu thua lỗ, thiệt hại; doanh nghiệp lắp ráp ô tô nội địa (từ 60-100% cho đến 10 năm); hoạt động kinh doanh sân golf (30% trong 5 năm ).
  11. Bộ Thương Mại sau đó đã mở rộng phạm vi miễn thuế (31/7/1998, theo TT 109/1998/TT-BTC). Theo sửa đổi này thì “ Nhà sản xuất quy mô nhỏ, nếu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, trong trường hợp gặp phải thua lỗ, thiệt hại, mất mát thì sẽ được cân nhắc để giảm thuế (giảm khoảng 50%)”. Với thực tế như trên, mặc dù Nhà nước có nhiều biện pháp, sửa đổi nhằm tạo điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như điều chỉnh chính sách để tạo thuận lợi khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống kế toán và kiểm toán của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Một trong những điểm cần được cân nhắc, xem xét nhất là việc loại bỏ dần dần phạm vi áp dụng thuế thông qua các trường hợp miễn thuế. 3. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực 1/1/1999. Theo biểu thuế thì có mức thuế hiện hành: 0% : hàng hóa xuất khẩu 5% : sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, giáo dục và y tế 20% : một số dịch vụ 10% : các hàng hoá và dịch vụ còn lại Thuế giá trị gia tăng được đánh trên nguyên tắc cơ bản : hàng nhập khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng hàng xuất khẩu sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng bằng %. Một khía cạnh khác của thuế giá trị gia tăng là thuế này được thu ngay tại cảng sau khi hàng hóa đã được thông quan. Quy định này không giống như quy định trước đây là cho phép nộp thuế nhập khẩu chậm từ 30 đến 270 ngày. Trong biểu thuế giá trị gia tăng, có 26 mức miễn thuế quy định, một vài trong số đó có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại (TT 89/1998/TT-BTC)
  12. hàng hoá và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì không chịu thuế giá trị gia tăng trong quá trình sản xuất hoặc nhập khẩu. tài sản cố định nhập khẩu (ví dụ như máy móc và thiết bị vận tải ) trong nước không sản xuất được. hàng viện trợ quốc tế nhập khẩu. chuyển giao công nghệ. chất khoáng chưa qua chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, việc thiếu các định nghĩa chính xác, (ví dụ như tài sản cố định trong nước không sản xuất được) sẽ dẫn đến tình trạng là có rất nhiều sự nhận định, đánh giá khác nhau từ các cấp có thẩm quyền. Hơn thế nữa xảy ra nhiều trường hợp trốn tránh nộp thuế cho nhà nước, đưa ra số thu thuế thấp hơn so với số lượng thực tế nhập khẩu. Giải pháp thích đáng cho vấn đề này là cần phải tăng cường hệ thống kế toán và kiểm toán, hệ thống thu thuế hiện hành. Những nỗi lo ngại về việc ngày càng mở rộng phạm vi xét miễn xoá nợ thuế giá trị gia tăng đã được trấn an. Tuy nhiên đã có trường hợp xoá nợ thuế cho “các doanh nghiệp đang gặp rắc rối” và trong đó có áp dụng với cả thuế giá trị gia tăng. II/ Những cải cách trong lĩnh vực phi thuế quan Để điều tiết hoạt động thương mại, ngoài chính sách thuế quan như trình bày ở trên, Nhà nước còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác. Những biện pháp này bao gồm hạn ngạch, giấy phép, quản lý tỷ giá hối đoái. 1. Hạn ngạch Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu là quy định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó được phép xuất khẩu, nhập khẩu trong một
  13. thời gian nhất định (thường là một năm). Cũng có khi hạn ngạch quy định cả thị trường thì có nghĩa là doanh nghiệp được cấp hạn ngạch chỉ được phép xuât khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó từ thị trường quy định với một số lượng nhất định. Hạn ngạch là một trong những công cụ phi thuế được sử dụng nhằm mục đích ngăn chặn hàng nhập khẩu vào, bảo vệ thị trường trong nước, cải thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh toán, làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng buôn bán. Việc quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm mục đích: - Bảo vệ quyền lợi quốc gia - Bảo vệ nguồn lợi tài nguyên, động vật, cây trồng - Bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ - Thực hiện sự cam kết của chính phủ ta và chính phủ nước ngoài. Việc quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm mục đích: - Bảo vệ nền sản xuất trong nước - Tiết kiệm ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán - Hướng dẫn tiêu dùng trong nhân dân Việc sử dụng hạn ngạch trong công tác quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu giúp cho nhà nước nắm được số lượng hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu nhưng gây ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh. Doanh nghiệp nào được cấp hạn ngạch thì được phép xuất khẩu, nhập khẩu và thu được lợi nhuận lớn, còn doanh nghiệp nào không được cấp thì không được phép xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng đó, từ đó dễ gây tình trạng độc quyền kinh doanh, độc quyền về giá cả, đồng thời nhà nước thất thu một khoản thuế do hạn chế nhập khẩu.
  14. Ở Việt nam, từ những năm trước đây, để bảo vệ nền kinh tế còn lạc hậu, kém phát triển, hàng năm nhà nước đưa ra danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch, nhưng danh mục hàng hoá quản lý ngày càng giảm dần. Tinh thần chung của các thông tư là giảm tối thiểu các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch. Trong quá trình đổi mới chính sách thương mại, đặc biệt là quá trình giám sát việc thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp, Bộ Thương Mại đã tiến hành điều chỉnh số lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu từ doanh nghiệp không có khả năng thực hiện sang/cho doanh nghiệp có nhu cầu và có điều kiện. Việc đổi mới trên đã góp phần xoá bỏ đáng kể sự cứng nhắc trước đây trong công tác điều hành, quản lý, hoạt động thương mại. Các sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu hiện nay được điều chỉnh bằng hạn ngạch bao gồm: Sản phẩm mà hạn ngạch được cấp bởi các tổ chức kinh tế quốc tế và các quốc gia khác (hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU, Canada và Nauy) Hàng hoá “dùng cho việc làm cân bằng nền kinh tế” sẽ được quy định cụ thể trong Quyết định hàng năm của Thủ tướng chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu gạo được điều chỉnh linh hoạt hàng năm dựa trên sản lượng thu hoạch từng vụ mùa. Theo Quyết định số 141/TTg của Thủ tướng chính phủ về vấn đề quản lý xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón ngày 8 tháng 3 năm 1997, hạn ngạch xuất khẩu gạo được phân bổ cho từng hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố, dựa trên sản lượng thương mại đầu ra ở mỗi tỉnh, thành phố. Các tỉnh này lại lần lượt phân bổ hạn ngạch cho các doanh nghiệp dựa trên năng lực sản xuất thực tế. Hạn ngạch chủ yếu phân bố về các tổng công ty lương thực miền trung. Hơn thế nữa, để có được hạn ngạch, các doanh nghiệp phải là thành viên của Hiệp hội lương thực Việt Nam.
  15. Số lượng các kênh xuất khẩu gạo được hạn chế đến mức độ cần thiết để ngăn chặn tình trạng độc quyền, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và uy tín của đất nước trên thị trường quốc tế. Cũng theo như Quyết định này, bất cứ doanh nghiệp nào không thể hoàn thành hạn ngạch thì phải báo cáo ngay lên Bộ Thương Mại và Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Hai bộ này sẽ trình lên Thủ tướng chính phủ người sẽ ra quyết định điều chỉnh hạn ngạch và chuyển giao hạn ngạch đó cho các doanh nghiệp khác có khả năng hoàn thành. Việc buôn bán hoặc tự ý chuyển giao hạn ngạch bị nghiêm cấm. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ lớn trong nông nghiệp. Sản lượng và năng suất đều tăng. Lượng gạo xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng được mở rộng qua từng năm phù hợp với an ninh lương thực đất nước. Hạn ngạch xuất khẩu gạo đã tăng từ 2 triệu tấn năm 1996 lên 4 triệu tấn năm 1998 (Theo “Chính sách thương mại của Việt Nam và các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới” - Báo cáo nghiên cứu số 12, Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ Thương Mại). Do đó, có thể chính sách hạn chế xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ không gây ra bàn cãi nhiều trong các cuộc đàm phán. Tuy nhiên việc xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất trong năm nên hạn ngạch đặt ra đầu năm hoàn toàn mang tính định hướng. Tuỳ theo diễn biến của sản xuất lúa theo các vụ mà Chính phủ có các quy định cụ thể về lượng gạo xuất khẩu. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất khẩu gạo vẫn không được phép thực hiện hợp đồng nhằm ổn định dự trữ lương thực giá gạo trong nước. Tuy nhiên, theo như Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 04/04/2001 về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005, Điều 6 Chương II thì Chính phủ bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuât, nhập khẩu hai mặt hàng này. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được
  16. xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản. Ngoài ra để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo khi thị trường trong, ngoài nước có biến động, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo. Đối với xuất khẩu hàng dệt may vào những thị trường theo hạn ngạch phải thoả thuận với nước ngoài thì căn cứ yêu cầu sản xuất trong nước, căn cứ các thoả thuận đa phương và song phương của Chính phủ về hàng dệt may hàng năm, Bộ Thương mại chủ trì cùng các Bộ, ngành hữu quan và các nhà sản xuất lớn của Việt Nam tiến hành đàm phán với các Tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngạch đối với loại hàng hoá này. Sau đó thì Bộ Thương mại cùng các ngành hữu quan sẽ xây dựng và ban hành các quy định chung thực hiện hạn ngạch hàng dệt may; công bố tỷ lệ hạn ngạch dệt may.... Đối với danh mục do Thủ tướng quy định (Quyết định số 11/1998/QD- Ttg ngày 23/1/1998) với những mặt hàng góp phần làm cân bằng nền kinh tế, hiện nay gồm 10 mặt hàng là: sản phẩm dầu, phân bón, xe máy và các thiết bị lắp ráp toàn bộ, xe ô tô từ 12 chỗ ngồi trở xuống, thép và sắt, xi-măng, đường thô và tinh luyện, giấy in và giấy viết, nước có cồn, kính xây dựng. 2. Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ phi quan thuế và hiện nay vẫn còn được nhiều nước đang phát triển áp dụng. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy tác dụng của công cụ bảo hộ này rất thấp và đồng thời lại tạo sự khó khăn đáng kể cho các đơn vị thực sự cần nhập nhập khẩu nhanh và đúng giá để phục vụ sản xuất hàng hoá ở trong nước. Một tác động tiêu cực nữa là nó kích
  17. thích buôn lậu qua biên giới. Bởi vậy, xu hướng chung trên thế giới là tiến tới xoá bỏ hoặc giảm tối thiểu việc cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Để tiến tới chương trình “Thuận lợi hoá thương mại” thúc đẩy hoạt động thương mại, từ 1/7/1994, chính phủ đã cho phép xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu chuyến đối với một số mặt hàng và đến ngày 1/2/1996 thì xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu cho từng chuyến hàng. Như vậy, việc xoá bỏ chế độ cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu theo từng chuyến hàng và đặc biệt là đơn giản hoá thủ tục hải quan cho các đơn vị, tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu Việt nam đã góp phần không nhỏ trong việc nâng đỡ sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu. Đôi nét về Nghị định 57 Vào 31/7/1998, chính phủ nước Việt Nam ban hành Nghị định số 57/1998/ND-CP quy định chi tiết về việc thực hiện Luật thương mại có hiệulực từ 1/9/1998. Trước khi Nghị định 57 ra đời, chỉ có những doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp mới có quyền xuất nhập khẩu. Đó có được giấy phép này, các doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn về năng lực hoạt động và khả năng tài chính. Hơn nữa doanh nghiệp phải đăng ký ngành hàng xuất nhập khẩu trong giấy đăng ký kinh doanh. Nghị định 57 quy định rằng “thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo luật này có thể xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm được quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.(Thông tư 18/1998/TT-BTM ngày 28 tháng 8 năm 1998. Tuy nhiên việc giới hạn thương nhân ở đây là các doanh nghiệp được thành lập theo luật, do đó sẽ không bao gồm các tổ chức hợp tác và các cá nhân trong hoạt động thương mại trực tiếp nước ngoài.
  18. Việc duy nhất các doanh nghiệp phải làm trước khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là đăng ký tại cơ quan hải quan. Việc đăng ký chỉ bao gồm việc doanh nghiệp đăng ký mã số và sản phẩm quy định trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Và sau đó doanh nghiệp sẽ được nhận giấy chứng nhận đăng ký mã số. Nghị định 57 ra đời đồng nghĩa với việc mọi doanh nghiệp đều có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Vào thời điểm 30/11/1997, chỉ có 1630 doanh nghiệp trong số 32000 doanh nghiệp nội địa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp, và phần lớn đều là các doanh nghiệp nhà nước. Nghị định 57 vì vậy đã thúc đẩy sự cạnh tranh không ngừng trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên hiện nay hoạt động uỷ thác đã giảm đi nhiều còn khoảng 1% hoặc ít hơn, so với 5% đến 7% vào đầu những năm 1990. Ảnh hưởng của Nghị định 57 lên hoạt động này dù không nhiều như dự đoán nhưng cũng phần nào xoá bỏ bớt một rào cản quan liêu không cần thiết đối với các doanh nghiệp có tham gia vào hoạt động thương mại. Đến ngày 04/04/2001 một văn bản pháp luật mới được ban hành quy định một cách chi tiết và cụ thể về quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thời kỳ 2001-2005, đó là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 46/QĐ-TTg, kèm theo Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu thời kỳ 2001- 2005, Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001-2005, Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành. Danh mục hàng hoá xuất khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001-2005: Hàng dệt may theo hạn ngạch mà Việt Nam thoả thuận với nước ngoài, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ.
  19. Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ. D anh mụ c hàng hoá nhậ p khẩ u theo giấy phép của Bộ Thương mạ i thời kỳ 2001-2005: Hàng cần kiểm soát theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố từng thời kỳ. Xi măng đen trắng. Một số loại kính Một số loại thép Một số loại dầu thực vật Đường tinh chế và đường thô Phương tiện moto 2 hay 3 bánh 100% mới và các linh kiện lắp ráp dưới mọi hình thức SKD hay CKD, động cơ, khung xe 2 hay 3 bánh (trừ đối với xe được đăng ký hàm lượng nội địa) Các phương tiện dưới 9 chỗ, loại mới Ngoài ra, Quyết định này quy định riêng cụ thể đối với một số hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, bãi bỏ việc phê duyệt và phân bổ hạn mức gỗ rừng tự nhiên để sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu. Mọi dạng sản phẩm gỗ đều được phép xuất khẩu, trừ gỗ tròn, gỗ xẻ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước. Gỗ tròn, gỗ xe nhập khẩu và sản phẩm làm từ gỗ nhập khẩu khi xuất khẩu không phải chịu thuế xuất khẩu. Trên cơ sở chỉ tiêu khai thác gỗ rừng tự nhiên từng khu vực đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (có chỉ tiêu khai thác) chỉ đạo ngành kiểm lâm kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc khai thác gỗ ngay tại địa phương.
  20. Đối với nhập khẩu xăng dầu, nhiên liệu thì Bộ trưởng Bộ Thương mại sẽ quyết định cụ thể việc phân giao và điều hành hạn mức xăng dầu nhập khẩu. Hạn mức xăng dầu nhập khẩu được giao cho các doanh nghiệp chuyên doanh thực hiện. Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các Bộ, ngành liên quan theo dõi sát tình hình cung cầu và giá cả xăng dầu ở thị trường trong, ngoài nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét việc điều chỉnh các chính sách liên quan trong trường hợp cần thiết, để ổn định giá cả xăng dầu trong nước, bảo đảm nhu cầu sử dụng xăng dầu của các ngành sản xuất chủ yếu và hoạt động kinh doanh xăng dầu được ổn định. 3. Quản lý tỷ giá hối đ oái Tỷ giá hối đoái là một công cụ quản lý có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại. Việc lên giá hay mất giá đồng tiền trong nước so với ngoại tệ sẽ tác động tức thời đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Thông thường một tỷ giá khuyến khích xuất khẩu lại gây ra hạn chế nhập khẩu và ngược lại. Tỷ giá hối đoái trước đây trong một thời gian dài được ấn định cố định, chủ yếu là thực hiện trên cơ sở các hiệp định thương mại. Tuy nhiên khi nền kinh tế Việt Nam thực hiện theo cơ chế thị trường thì phải coi tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, cho nên giá cả của nó lên, xuống phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về ngoại tệ. Không giống như hạn ngạch và thuế quan là công cụ chính phủ có thể điều hành trực tiếp và tương đối dễ dàng, tỷ giá hối đoái lại chủ yếu hình thành từ thị trường, nên nhà nước chỉ có thể tác động có tính chất điều chỉnh. Những cải cách trong chính sách thương mại của Việt nam trong những năm qua vẫn có thể được nhìn nhận là theo khuynh hướng bảo hộ, cho dù ở một vài khía cạnh, một số chính sách đang tồn tại đã được hệ thống hoá. Đặc điểm nổi bật này lại trái ngược với khuynh hướng tự do hoá thương mại. Hàng năm vẫn song song đưa ra các biện pháp tự do hoá và các biện pháp bảo hộ, ví
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2