intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

250
lượt xem
74
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với nền...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương

  1. LUẬN VĂN: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bình Dương
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội như: các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam, hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống cho người lao động,... Tuy nhiên trong thời gian gần đây, báo chí và một số phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta đã nêu nhiều mặt trái của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số ý kiến cho rằng: nguồn vốn FDI trong những năm qua đã tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng, khách sạn, du lịch và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chưa có tỷ lệ thích đáng cho các ngành công nghệ cao và nông nghiệp. FDI đưa vào Việt Nam nhiều máy móc, thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xảy ra một số tranh chấp lao động mà biểu hiện là tình trạng ngược đãi công nhân, vi phạm nhân phẩm người lao động, cường độ làm việc quá căng thẳng... đã dẫn đến các cuộc đình công, bãi công. Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn ở vị trí thứ yếu. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng... Không thể phủ nhận thành tựu đã đạt của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua, song nó đã tạo ra một số vấn đề không lành mạnh và cần khắc phục. Nhận thức đúng mức về những vấn đề nảy sinh để có phương hướng chỉ đạo tiếp là cực kỳ quan trọng nếu chúng ta muốn Việt Nam trở thành nơi thu hút ngày càng nhiều hơn vốn FDI. Trong tình hình đó, Bình Dương là một trong số tỉnh thành thu hút vốn đầu tư FDI nhiều nhất cả nước cũng không tránh khỏi những tác động tích cực và hạn chế của
  3. FDI đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để có căn cứ xây dựng và điều chỉnh chính sách thì việc nghiên cứu, đánh giá được những tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong giai đoạn vừa qua là một việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, vấn đề: " Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phỏt triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bỡnh Dương " được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng quê hương Bình Dương trong thế kỷ 21. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề FDI, trên từng khía cạnh khác nhau đã có nhiều tác giả và các công trình nghiên cứu. ở Việt Nam, đã có: Luận án tiến sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam" của Mai Văn Lộc (1994). Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế ở Đồng Nai - phương hướng và giải pháp" của Đỗ Thị Ngân Giang (2000). Luận văn thạc sĩ: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp", của Nguyễn Thanh Tịnh (2003). Luận văn cử nhân chính trị: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp" của Trương Đăng Hùng (2004). Đề tài cấp bộ, cấp cơ sở: "Những giải pháp kinh tế chính trị nhằm thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam", Chủ nhiệm đề tài PTS. Nguyễn Khắc Thân, cơ quan chủ trì: Khoa Kinh tế chính trị (5/1994 - 5/1995). Báo cáo nghiên cứu của Dự án: "Nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2010" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) với tiêu đề: "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam". Các công trình khoa học nghiên cứu về FDI ở trên đã nghiên cứu các vấn đề: thu hút và sử dụng hiệu quả FDI ở Việt Nam và các địa phương, nhưng chưa có luận văn, luận án thạc sĩ nào nghiên cứu đến tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trên góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn * Mục tiêu luận văn:
  4. Nghiên cứu tác động FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương và trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương trong quá trình hội nhập kinh tế. * Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Bình Dương nói riêng. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương chỉ ra những tác động tích cực cần phát huy và tác động không lành mạnh của FDI cần khắc phục và nên tránh. Nguyên nhân của những tác động đó. - Trình bày các phương hướng và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế những ảnh hưởng không lành mạnh của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm nhiều phương diện, luận văn này không nghiên cứu FDI nói chung với tất cả các mặt của nó mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương vì đó là yếu tố quyết định đến việc xây dựng, điều chỉnh chính sách thu hút FDI và tối đa hoá lợi ích mà FDI mang lại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài. - Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng tác động của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương, từ đó làm nổi rõ sự cần thiết phải phát triển mạnh mẽ những tác động tích cực đến phát triển kinh tế -
  5. xã hội và phòng tránh những tác động tiêu cực. Sao cho nền kinh tế của Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung tăng trưởng nhanh và bền vững. Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những phương hướng, giải pháp cơ bản phát triển những tác động tích cực của FDI đến phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bình Dương. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bình Dương và các cơ quan hữu trách, dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường học, cơ sở đào tạo có liên quan đến FDI trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  6. Chương 1 cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội 1.1. FDI với phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1. Khái niệm FDI và phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) FDI (Foreign Direct Invertment) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp là: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tuỳ thuộc theo quy định chung của Luật đầu tư từng nước. Ví dụ, Luật đầu tư của Việt Nam quy định "số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án", hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định "phần của bên đối tác nước ngoài không dưới 5% tổng số vốn đầu tư" [51, tr.32-33]. Trong khi đó ở Hàn Quốc luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định. Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện dưới hình thức: đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động, mua cổ phần để thôn tính hoặc sáp nhập. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có quy mô to lớn hơn. Trong thế kỷ 19, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lênin,
  7. trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" thì việc xuất khẩu tư bản đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế trong thời kỳ "đế quốc chủ nghĩa". Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là: tư bản thừa xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở trong nước không như trước nữa. Để tăng cường lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện xuất khẩu tư bản. Vì ở đó các chủ đầu tư nước ngoài khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: tài nguyên, lao động, thị trường... để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp thực hiện bành trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí lợi nhuận... thông qua hoạt động "chuyển giá". Giảm chi phí kinh doanh khi đặt trụ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ. Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ sở kinh doanh nằm "trong lòng" các nước thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư tham dự trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư. Thông qua hoạt động trực tiếp đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi chính sách mở cửa kinh tế theo cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của các chủ nhà. Theo Lênin, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin đưa ra chính sách "kinh tế mới" đã nói rằng: Những người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản thông qua hình thức "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này nhiều nước đã "chấp nhận" phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế như: khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng
  8. góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. FDI giúp tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ đó FDI cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước... Sự cạnh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đâu là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm và nâng cao mức sống của người lao động. Với những ưu điểm trên FDI giúp cho các nước tiếp nhận phát triển kinh tế nhanh hơn tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ "bóc lột" của các nước tư bản còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ, thì ngày nay các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của Chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế, nếu các Chính phủ của nước chủ nhà không phạm phải những sai lầm của quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được những thiệt hại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảng 1.1: Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp nước tiếp nhận đầu tư [58, tr.36] Lợi thế Mô tả Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp Vốn trong nước Trình độ Có trình độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự báo quản lý và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào Công nghệ sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng trong sản xuất Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối sản Marketting
  9. phẩm Mua nguyên Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất Thoả thuận Có khả năng đàm phán thoả thuận để được hưởng những ưu đãi với Chính phủ từ phía Chính phủ của nước tiếp nhận đầu tư 1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới chỗ thoả mãn được các nhu cầu mà xã hội ấy coi là cơ bản và hiện đại. Theo nghĩa rộng, "xã hội" bao gồm cả các khía cạnh như "chính trị" và "phát triển con người". Nếu như trước đây nói đến thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, người ta chỉ tập trung vào tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà bỏ qua những yếu tố khác, thì ngày nay quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội được đề cập ở trên đã có những thay đổi căn bản. Bên cạnh yếu tố phát triển kinh tế nhanh và chất lượng, thì các vấn đề khác như phát triển xã hội và bảo vệ môi trường đã trở thành những thành phần cơ bản của quá trình phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh bền vững và chất lượng cao đang dần trở thành một vấn đề có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược đối với tất cả các quốc gia. Công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ khi Đại hội VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước đến nay đã trải qua gần 20 năm. Một trong những nội dung đổi mới then chốt là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Kể từ sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, đồng thời quan niệm về con đường phát triển của nước ta cũng từng bước được định hình ngày càng rõ nét. Đại hội VII của Đảng (6/1991) lần đầu tiên đã đưa ra công thức: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" [14]. Công thức này về sau được Đại hội VIII của Đảng (6/1996) điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" [17]. Tiến lên một bước,
  10. Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã điều chỉnh thành: "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" và xem đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong mô hình này, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường với tư cách là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng động hoá và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Đồng thời, chúng ta đề cao vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [18]. Mô hình kinh tế tổng quát được xác định tạo cơ sở rất quan trọng cho sự hình thành những quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu liên hệ với ba trụ cột của phát triển bền vững là "tăng trưởng kinh tế nhanh", "xã hội ổn định, tiến bộ" và "môi trường trong sạch" thì có thể nhận thấy rằng những chủ trương được vạch ra trong các nghị quyết quan trọng của Đảng đều hướng tới phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội VI của Đảng khẳng định phải gắn kết chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem "trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế... Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và các sự nghiệp phúc lợi khác" [13, tr.86]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, chỉ rõ: "Phương hướng lớn nhất của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng bình đẳng về quyền lợi, về nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [14, tr.13]. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000 được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường" [15, tr.9]. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (1/1994) nhấn mạnh thêm: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển" [16, tr.47]. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định những nội dung cốt lõi có
  11. liên quan đến phát triển bền vững. Đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, được thông qua tại Đại hội IX, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên giữ gìn đa dạng sinh học" [18, tr.162]. Theo những chủ trương nêu trên, các cơ quan chức năng và các chủ thể có liên quan đã hoạch định và thực thi các thể chế, chính sách nhằm từng bước thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở để các Bộ, các địa phương, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện. Cho đến nay, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào đời sống và dần dần trở thành xu thế phát triển tất yếu của đất nước. Điều này phần nào cho thấy quan niệm về phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và chất lượng cao ở nước ta từng bước trở nên sáng rõ hơn. Công cuộc tổng kết thực tiễn của nước ta, phân tích kinh nghiệm trên thế giới và nghiên cứu lý luận bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luận điểm và đường lối phát triển đất nước vừa có ý nghĩa cơ bản vừa có tính thời sự cấp bách. Cùng với những cố gắng của Hội đồng lý luận Trung ương, gần đây một số nhà nghiên cứu đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Bảng 1.2: Một số tiêu chí chủ yếu đánh giá tốc độ, tính chất bền vững và chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội [1, tr.76-77] Tiêu chí ý nghĩa * Phát triển - Tốc độ tăng GDP (hay GNP)  Mức độ tăng về quy mô của nền kinh tế. - Cơ cấu ngành  Trình độ phát triển - GDP bình quân đầu người  Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và phát triển.
  12. - Năng suất lao động (GDP/LĐ)  Phản ánh chất lượng của tăng trưởng và phát triển. - Xuất, nhập khẩu/ GDP Độ mở cửa nền kinh tế - Tỷ trọng GDP ngành phi nông Đánh giá mức độ công nghiệp hoá. nghiệp trong nền kinh tế - Tỷ lệ ngành dịch vụ/ sản xuất Đánh giá độ hài hoà của sự phát triển. - Tỷ lệ GDP ngành dịch vụ/ dân số Mức độ hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ của dân cư. - Hệ số GINI Đo mức độ chênh lệch giữa các nhóm dân cư theo thu nhập - Tỷ lệ đầu tư cho chi phí sản xuất Đánh giá mức độ đầu tư cho công nghiệp trong tổng đầu tư. hoá. * An sinh xã hội - HDI Chỉ số phát triển con người liên quan đến ba mặt: thu nhập, kiến thức và tuổi thọ. - HPI Chỉ số đánh giá mức độ nghèo đói * Báo đảm môi trường - Chất lượng môi trường: Tình hình ô nhiễm không khí, nước, đất, - Tỷ lệ CO2, CO, SO2, chì trong không rừng và đa dạng sinh học. khí. - Hệ số mất đất, độ che phủ rừng. - Đầu tư cho BVMT/ tổng đầu tư. Mức độ tái tạo, bảo vệ môi trường. Những trình bày trên đây đã phần nào thể hiện sự tiến triển về quan niệm phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam trong thời kỳ 20 năm đổi mới vừa qua. 1.1.2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước về FDI trong phát triển kinh tế - xã hội Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi này xuất phát
  13. từ thực tiễn của nền kinh tế và do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu vực và thế giới. Nếu như trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một trong các thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), tuy không tách riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một "thành phần kinh tế" trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu tư nước ngoài: "có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý..." [17]. Với quan điểm như vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng. Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công nhận là một thành phần kinh tế với vai trò "hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm..." [18]. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (khoá IX), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ "phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài" [19]. Theo đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian tới sẽ tập trung vào nâng cao chất lượng FDI vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Thay đổi trong nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là cơ sở quan trọng để Chính phủ sửa đổi và hoàn thiện các văn bản pháp luật về cơ chế chính sách thu hút vốn FDI đối với hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong những năm gần đây. Đảng và Nhà nước có những quan điểm về nâng cao hiệu quả và tăng thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới: Một là, phải biến những yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Khi nói về việc tranh thủ sự viện trợ quốc tế, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Ta phải khéo dùng cái
  14. vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta, nhân dân và cán bộ ta chớ nên ỷ lại, mà phải tự lực tự cường" [43, tr.289]. Muốn vậy phải có các chủ trương chính sách sao cho việc thu hút vốn nước ngoài góp phần hình thành một nền kinh tế phát triển có hiệu quả. Việc nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và vốn đầu tư nước ngoài phải góp phần khơi dậy và phát huy nội lực. Trên cơ sở phát huy nội lực mà thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Hai là, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các đối tác nước ngoài và trong nước. Các nhà đầu tư đưa vốn vào nước ta tất nhiên phải thu nhiều lợi nhuận hoặc tìm nguyên liệu quý hiếm. Để khuyến khích họ yên tâm và h ăng hái kinh doanh không những cần phải đảm bảo quyền lợi sở hữu hợp pháp của họ mà còn phải có những ưu đãi để họ thu được lợi nhuận thoả đáng thậm chí lợi nhuận cao, nhưng phải là lợi nhuận từ phát triển kinh doanh, nâng cao n ăng suất lao động và cạnh tranh lành mạnh chứ không phải từ việc lợi dụng thế yếu của các đối tác trong nước và kể cả sở hữu của luật pháp. Về phía chúng ta, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng phải đưa lại hiệu quả, thể hiện ở chỗ: - Góp phần khai thác các nguồn lực trong nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tăng thu ngân sách nhà nước. - Tăng việc làm, tăng trình độ lành nghề và tăng thu nhập của công nhân. - Tiếp thu được những bí quyết về công nghệ, về kinh doanh, kinh nghiệm quản lý để trong tương lai cán bộ và công nhân ta có thể tự vận hành những doanh nghiệp mới. - Tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm, tăng thu nhập của công nhân, tăng thu ngân sách... Chưa hẳn đã có tiến bộ và công bằng xã hội. Cần nhận thức rằng sự ra đời của các khu công nghiệp gắn với quá trình hình thành các đô thị, các thị trấn. Việc quản lý đô thị khác với quản lý nông thôn, đòi hỏi cao hơn về kết cấu hạ tầng, về bảo vệ môi trường, an ninh, về các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ công cộng...
  15. Không chỉ là tổ chức và quản lý những khu dân cư mới mà quan trọng hơn phải có chương trình xây dựng một đội ngũ công nhân mới mà đa số vừa xuất thân từ nông dân, từ học sinh hay những người lao động tự do, làm cho họ không chỉ nâng cao về tay nghề mà cả về ý thức chính trị, lập trường giai cấp công nhân, về lối sống nhân văn, hiện đại; phòng ngừa và ngăn chặn các tệ nạn xã hội; xây dựng quan hệ chủ thợ lành mạnh, đảm bảo lợi ích chính đáng của cả hai bên. 1.2. Mối quan hệ giữa FDI với phát triển kinh tế - xã hội 1.2.1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Đầu tư quốc tế được thực hiện ở Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế chủ yếu thực hiện qua thu hút vốn ODA. 18 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời ở Việt Nam (12/1987 - 12/2005) hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện qua các mặt: Thứ nhất, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế: Vốn FDI có bước chuyển tích cực, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD. Vượt trên 39% so với kế hoạch; tổng vốn thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Năm 2005, các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP, chiếm 31,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 50% nếu tính cả dầu khí), đóng góp gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước (tính cả dầu khí thì trên 36%), tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp [20, tr.152-153]. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 15,5% trong tổng đầu tư toàn xã hội (xem sơ đồ 1.1).
  16. Tính đến ngày 20 tháng 3 năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.400 dự án đầu tư nước ngoài. Trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị giải thể trước thời hạn, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 41 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này, tạo ra lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các dự án đầu tư nước ngoài hiện chiếm 35% giá trị sản l ượng công nghiệp của Việt Nam, cụ thể: khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô tô; sản xuất máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ; thiết bị văn phòng máy tính. Các dự án đầu tư nước ngoài chiếm 60% sản lượng thép cán; 55% sản xuất sợi các loại phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 49% sản lượng sản xuất da và giày dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35% sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% tổng sản lượng xi măng; 29% về thực phẩm và đồ uống... Sơ đồ 1.1: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP (giá hiện hành) [55] 35 31 3 0 .4 30 28 26 26 25 23 2 0 .8 20 18 1 7 .6 1 7 .5 1 6 .3 1 5 .2 17 1 3 .3 15 1 7 .3 1 5 .5 1 4 .5 9 .1 1 3 .8 7 .4 10 1 2 .2 6 .1 6 .4 6 .3 10 5 2 .6 2 0 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 % s o v í i t æn g ®Ç u t­ x · h é i % ®ã n g g ã p tr o n g G D P Đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế: Thời kỳ 1991 - 1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu t ư xã hội; thời kỳ 1996 - 2000 số vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó, chiếm 24% tổng vốn đầu tư xã hội. Riêng trong hai năm 2001, 2002 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư xây dựng. Thứ hai, các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia: Với hàng ngàn dự án đang
  17. hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của Việt Nam. Năm 1993 chiếm 3,3%; năm 1995 chiếm 6,3%; năm 1998 chiếm 10,1%. Từ năm 2000 đến năm 2004 mỗi năm đều chiếm trên 13% của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì giai đoạn 1996 - 2000 thu từ khu vực đầu t ư nước ngoài chiếm 6-7% nguồn thu ngân sách quốc (nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm gần 20% thu ngân sách). Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam [51, tr.27] 89- 200 200 200 200 200 FDI 91 92 93 94 95 96 97 98 99 90 0 1 2 3 4 Tỷ trọng 14, 14, 10, 11, 12, 13, 13, trong GDP 1,0 1,5 2,0 3,6 6,1 6,3 7,4 9,1 3 5 0 8 7 1 9 (%) Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại của Việt Nam: không kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kỳ 1991 - 1995 đạt trên 1,12 tỷ USD; thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD; năm 2001 đạt 3,67 tỷ USD; năm 2002: 4,5 tỷ USD (xem bảng 1.4). Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI thực hiện: xuất khẩu dầu thô 10%; giày dép 42%; hàng dệt may 25%; 84% hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện. Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ 1991 - 1995 lên 48% thời kỳ 196-2000 và đạt 50% vào năm 2002; trên 50% năm 2003 [51, tr.27]. Bảng 1.4: Tình hình xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) [51, tr.28] Đơn vị tính: triệu USD FDI 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 Xuất 52 112 260 352 336 788 1.790 1.982 2.547 3.300 3.670 4.500 5.900 8.600 khẩu
  18. XK so với doanh 34,4 49,1 533 34,3 16,3 28,7 46,9 50,7 55,4 53,5 48,1 50 79 132 thu (%) Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH. ở những năm 1988-1995 đầu tư nước ngoài chủ yếu thực hiện trong các ngành bất động sản: Xây dựng khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê... thì thời kỳ 1996-2003 đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện, các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật tăng 1,4 lần ở thời kỳ này [24]. Hiện đầu tư nước ngoài chiếm gần 38% sản lượng công nghiệp của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%. Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và khu công nghiệp ở Việt Nam. Thứ tư, các dự án đầu tư nước ngoài đóng góp quan trọng trong nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. Thông qua các dự án đầu tư FDI nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong các ngành tìm kiếm, th ăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế phần mềm... Những dự án này đóng góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế (xem bảng 1.5). Bảng 1.5: Mức độ hiện đại của máy móc thiết bị sử dụng trong các khu vực kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh so với tiêu chuẩn quốc tế (năm 1999) [51, tr.29] Mức độ hiện Khoảng cách Tỷ lệ những đại trung bình trung bình (so Khu vực thiết bị hiện (so với thiết bị với những thiết đại (modern) hiện đại nhất) bị hiện đại
  19. (Moderate) nhất) (obsolete) Công cộng 11,4 53,1 35,5 Các công ty Trung ương 10,6 60,6 28,8 Các công ty địa phương 11,9 48,6 39,5 Không phải công cộng 6,7 27 66 Công ty tư nhân 20 30 50 Kinh tế gia đình 3,6 22,8 73,6 Công ty đầu tư nước ngoài 44,4 55,6 0,0 N goài ra, s ự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI, cũng tạo ra s ự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu t ư đ ổi mới công nghệ để tạo được những sản phẩm có khả n ăng c ạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu t ư nước ngoài trên thị tr ường nội địa và xuất khẩu. Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh. Thứ năm, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Cho đến hết năm 2003 đã có 74 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có trên 80 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính những dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế chúng tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Ngoài ra trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài được xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
  20. Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. Số lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng (xem bảng 1.6). Một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2003: lương bình quân của công nhân trong các dự án đầu tư nước ngoài là 76-80 USD/tháng; của kỹ sư: 220-250 USD/tháng, của cán bộ quản lý khoảng 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây là nhân tố góp phần tăng sức mua cho thị trường xã hội. Bảng 1.6: Số lượng việc làm cho khu vực FDI tạo ra [51, tr.30] ĐVT: 1000 người FDI 2003 2004 91- 96 97 98 99 2000 2001 2002 95 665 739 Giải quyết việc 200 220 250 279 296 349 450 590 làm Tóm lại, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cho nên Chính phủ cần quan tâm đến hoàn thiện môi trường đầu tư để tăng tính hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư FDI. Đạt được những kết quả tích cực trong thu hút và sử dụng vốn FDI. Xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau: Nước ta duy trì ổn định chính trị, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, chủ động hội nhập, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Ngoài ra, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dung lượng thị trường trong nước lớn (khoảng 80 triệu dân) cũng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế. Môi trường đầu tư từng bước được cải thiện. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài dần được hoàn thiện đã tạo khuôn khổ pháp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2