intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện pháp luật về luật sư - từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Chia sẻ: Vica999 Vica999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

27
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các hình thức thực hiện pháp luật về luật sư, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ chỉ ra những yếu kém, bất cập đồng thời đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện pháp luật về luật sư - từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGÔ BÁ DIỆU LINH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGÔ BÁ DIỆU LINH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thừa thiên Huế, ngày tháng năm 2018 Học viên Ngô Bá Diệu Linh
  4. LỜI CẢM ƠN Việc viết nên Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, với sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cô Học viện Hành chính quốc gia, kết hợp với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác và sự cố gắng nỗ lực của bản thân. Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình chỉ dạy cho tôi về kiến thức cũng như phương pháp nghiên cứu trong thời gian thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo Học viện Hành chính quốc gia Hà Nội và phân viện Miền Trung; cô giáo chủ nhiệm lớp LH3 - T2, bạn bè đồng môn và anh chị em cơ quan đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô, đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn ! Học viên Ngô Bá Diệu Linh
  5. MỤC LỤC TRANG BÌA LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ ............................................................................................................... 7 1.1. Luật sư và khái niệm về luật sư......................................................................... 7 1.2. Thực hiện pháp luật về luật sư ........................................................................ 28 Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................. 41 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ......................................................................... 42 2.1. Một số nét về đặc điểm, tình hình tỉnh Quảng Bình tác động đến thực hiện pháp luật về luật sư ........................................................................................................ 42 2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .. 45 Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................. 67 Chương 3. GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................ 68 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật về luật sư và pháp luật chuyên ngành khác có liên quan .................................................... 68 3.2. Phát triển tăng cường đội ngũ luật sư về số lượng và chất lượng ..................... 77 3.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư .......................................................................................................................... 82 Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 89 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 92
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GDP Tổng sản phẩm nội địa UBND Ủy ban nhân dân WHO Tổ chức thương mại Quốc tế XHCH Xã hội chủ nghĩa nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Thực hiện pháp luật là một hoạt động xã hội mang tính pháp lý quan trọng, của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã quy định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Thực hiện pháp luật là một phạm trù pháp lý với nội hàm đầy đủ gồm: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Thực hiện pháp luật về luật sư là hoạt động thực hiện các quy phạm pháp luật đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành trên lĩnh vực tổ chức và hoạt động luật sư. Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước từ tháng 9 năm 1945 đến nay Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực luật sư như: sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945; sắc lệnh số 64/SL ngày 18/6/1949; sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949; pháp lệnh luật sư năm 1987, pháp lệnh luật sư năm 2001; Luật luật sư năm 2006 và luật sửa đổi bổ sung Luật luật sư năm 2012. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 cũng quy định : “Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo, tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý ” (điều 133 Hiến pháp năm 1980). Các đạo luật khác như bộ luật HS, bộ luật TTHS, bộ luật TTDS, luật TTHC cũng quy định sự tham gia của luật sư, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư trong các giai đoạn tiến hành tố tụng giải quyết các loại vụ án. Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều nghị định, thông tư để hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về 1
  8. luật sư. Đặc biệt nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “ về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” ; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “ về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ” đã đề ra các chủ trương, định hướng quan trọng đối với sự phát triển luật sư và hoạt động luật sư, xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ trong hoạt động hành nghề, phát huy tốt vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Ngày 30/3/2009 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 33- CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Đây là chỉ thị đầu tiên của Đảng về tổ chức và hoạt động luật sư, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với sự phát triển của tổ chức, hoạt động luật sư và là định hướng cho hoạt động thực hiện pháp luật về luật sư trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Có thể nói chưa bao giờ ở nước ta có hẳn một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực luật sư và hoạt động luật sư như hiện nay. Thể chế về luật sư và hoạt động luật sư đã được hoàn thiện một bước, quá trình thực hiện pháp luật về luật sư thời gian qua nhất là từ khi Luật luật sư được ban hành (cuối năm 2006) trở lại đây đã đạt được nhiều kết quả tiến bộ. Đội ngũ luật sư đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng được nâng cao. Tổ chức hành nghề luật sư đã được thành lập nhiều, quản trị điều hành bước đầu có tiến bộ. Hoạt động luật sư đã thực sự khởi sắc, số lượng vụ việc và chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư khi tham gia vụ việc ngày càng tăng nhanh đóng góp tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần vào việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thực thi pháp quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức nói chung và hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động tố tụng nói riêng. Vị thế của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong sự nghiệp bảo vệ công lý được nâng cao. 2
  9. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về luật sư vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém. Số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp, chất lượng tham gia tố tụng của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, số lượng luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực, đầu tư, kinh doanh, thương mại còn rất ít, hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư chưa mang tính chuyên nghiệp. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về luật sư còn bị coi nhẹ, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hoạt động luật sư với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn hạn chế do chưa phân định rõ và hợp lý giữa hoạt động quản lý nhà nước với trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Pháp luật về tổ chức hoạt động luật sư mặc dù đã từng bước hoàn thiện song vẫn còn tồn tại, bất cập; pháp luật về tố tụng đã mở rộng đáng kể quyền của luật sư khi tham gia tố tụng nhưng chưa có sự đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật luật sư dẫn đến nhiều vướng mắc, cản trở hoạt động luật sư và hoạt động của các tổ chức cá nhân có liên quan... Từ thực tiễn trên, để việc thực hiện pháp luật về luật sư có hiệu quả vấn đề cấp thiết là cần nghiên cứu, đề ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém và bất cập của pháp luật, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho luật sư và hoạt động luật sư phát triển. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Thực hiện pháp luật về luật sư - từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình ” (mã số 60 38 01 02 chuyên ngành luật Hiến pháp và luật hành chính) làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp một phần nhỏ vào sự phát triển luật sư và hoạt động luật sư trong sự nghiệp xây dựng đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn: Do vai trò quan trọng của luật sư và hoạt động luật sư đối với sự phát triển của xã hội, xu thế phát triển nhanh của nghề luật sư trong những năm gần đây nên đã có nhiều tổ chức, cá nhân nghiên cứu về vấn đề này với nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau. Có thể dẫn ra một số đề tài đã được nghiên cứu như : - Đê tài “ Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư ” do luật sư Phan Trung 3
  10. Hoài ĐLS TP. Hồ Chí Minh Thực Hiện (2008). - Đê tài “ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam ” do Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp thực hiện (2005). - Đê tài “ Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay ” chủ nhiệm đè tài Thạc sĩ Nguyễn Sỹ Giao, Viện khoa học thanh tra (2011). - Chuyên đề “ Pháp luật về luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, thực trạng và kiến nghị ” do Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện (2014). - Đê tài “ Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế ” do học viện tư pháp thực hiện (2011). Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các báo và tạp chí như: - Bài viết: “ Vai trò của luật sư trong tố tụng hành chính ” của luật sư nguyễn Thành Vĩnh, thongtinphapluatdansu.edu.vn (2009) - Bài viết: “ Chiến lược phát triển nghề luật sư còn thiếu sót ” của luật sư Ngô Ngọc Trai, moj.gov.vn (2011) - Bài viết: “ Xóa bỏ rào cản với nghề luật sư ” của Vạn Bảo, plo.vn (2012) Mặc dù các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ đề cập đến khía cạnh về hành nghề luật sư ở Việt Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu đề cập đến vấn đề “ Thực hiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam ”, tuy vậy đây là những tài liệu nghiên cứu cần thiết được tôi lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Để trả lời câu hỏi: Việc thực hiện công trình nghiên cứu để làm cái gì ?; tôi xác định mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các hình thức thực hiện pháp luật về luật sư, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ chỉ ra những yếu kém, bất cập đồng thời đề xuất 4
  11. một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Nhiệm vụ: Để thực đạt được mục đích luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể sau: - Khái quát một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về luật sư, hoạt động luật sư và thực hiện pháp luật về luật sư. - Đánh giá thực trạng hoạt động luật sư và thực hiện pháp luật về luật sư từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, chỉ ra những tồn tại, yếu kém và những bất cập thiếu thống nhất của hệ thống pháp luật về luật sư . - Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về luật sư. - Đề xuất, kiến nghị khắc phục tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện pháp luật về luật sư và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về luật sư. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu khoa học của Luận văn là tình hình thực hiện pháp luật về luật sư trong giải quyết các hoạt động tố tụng theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian : Trong phạm vi thực tiễn của tỉnh Quảng Bình. - Về thời gian : Chủ yếu từ sau khi Luật luật sư được ban hành (năm 2006) cho đến nay ( năm 2017) Về số liệu khảo sát việc thực hiện pháp luật về lu ật sư, luận văn phân tích các số liệu giai đoạn từ năm 2013 - 2017 tại Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Để giải quyết các yêu cầu đề tài đặt ra trong qua trình nghiên cứu tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp luận: - Phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin. 5
  12. Phương pháp nghiên cứu: - So sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp và dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển luật sư và hoạt động luật sư trong quá trình cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế làm cơ sở lý luận, để nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư tại tỉnh Quảng Bình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện pháp luật về luật sư, hoàn thiện thể chế về luật sư ở nước ta, nâng cao vị thế của luật sư và hoạt động luật sư trong sự nghiệp bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. - Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo và những người làm thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về luật sư Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về luật sư từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ 1.1. Luật sư và pháp luật về luật sư 1.1.1. Khái niệm luật sư Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá nhân luật sư. Phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là nhân tố quyết định trong hoạt động hành nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải được công nhận là luật sư, đó là quy định chung mà pháp luật về luật sư của các nước trên thế giới đều quy định. Tuy vậy qua nghiên cứu pháp luật về luật sư của nhiều nước trên thế giới như: Hoa Kỳ, Nhật bản, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc.....không thấy đưa ra khái niệm luật sư mà chỉ quy định tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tiêu chuẩn phổ biến để trở thành luật sư là: công dân ở nước sở tại, có bằng cử nhân luật, có phẩm chất đạo đức tốt. Ngoài các tiêu chuẩn trên người muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề, tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ cần thi đỗ kỳ thi quốc gia để được công nhận luật sư (tùy vào quy định pháp luật của từng nước) thẩm quyền công nhận luật sư có thể do Tòa án tối cao hay Bộ Tư pháp hoặc chỉ cần đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư, xin dẫn ra quy định tại một số nước như: Ở Hoa Kỳ muốn trở thành luật sư chỉ cần qua một kỳ thi Quốc gia mà không phải qua đào tạo nghề và tập sự hành nghề luật sư. Tòa án Bang là cơ quan có thẩm quyền công nhận luật sư và cho phép hành nghề luật sư. [58] Ở Nhật bản người muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề (không phải qua tập sự hành nghề) và phải đăng ký vào danh sách luật sư của Liên Đoàn luật sư Nhật Bản tại một Đoàn luật sư địa phương. [58] Ở Anh người muốn công nhận luật sư phải qua hai giai đoạn đào tạo nghề (đào tạo hành nghề và đào tạo kỹ năng hành nghề) Hiệp hội luật sư cấp giấy công nhận luật sư. [58] 7
  14. Ở Pháp người muốn hành nghề luật sư phải qua một khóa đào tạo nghề và phải tập sự hành nghề luật sư sau đó đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư là trở thành luật sư. Trước khi trở thành luật sư phải tuyên thệ trước một Tòa án. [58] Ở Trung Quốc người muốn được công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư phải thi đỗ kỳ thi Quốc gia, Bộ Tư pháp là cơ quan nhà nước thực hiện công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư cho người thi đỗ. Chứng chỉ hành nghề luật sư được cấp cho người đã được công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư; đã qua tập sự hành nghề một năm, có phẩm chất đạo đức tốt, chứng chỉ hành nghề luật sư do Sở Tư pháp cấp tỉnh trực thuộc trung ương cấp. [58] Từ các quy định pháp luật về luật sư của một số nước trên thế giới khái niệm luật sư được hiểu là người có đủ tiêu chuẩn luật sư và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận là luật sư. Ở Việt Nam chế định luật sư và hành nghề luật sư đã hình thành từ thời Pháp thuộc. Tư sau năm 1945 chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành một số văn bản pháp luật về luật sư, tạo hành lang pháp lý cho các luật sư hoạt động hành nghề. Tuy nhiên không có văn bản pháp luật nào quy định làm rõ khái niệm luật sư và hành nghề luật sư. Năm 1987 (18/12/1987) nhà nước ta ban hành pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên, đưa chế định luật sư ở nước ta đến gần với thông lệ quốc tế, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của đội ngũ luật sư chuyên nghiệp trong nước. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 không đưa ra định nghĩa, khái niệm về luật sư mà chỉ quy định muốn làm luật sư thì phải đủ điều kiện và gia nhập Đoàn luật sư. Việc gia nhập Đoàn luật sư phải được hội nghị toàn thể Đoàn luật sư thông qua theo đề nghị của ban chủ nhiệm. Người mới gia nhập Đoàn luật sư phải qua thời gian tập sự sáu tháng đến hai năm và một kỳ kiểm tra do Đoàn luật sư tổ chức mới được công nhận là luật sư (điều 12 pháp lệnh luật sư năm 1987). Người được công nhận luật sư được cấp thẻ luật sư, thẻ luật sư do ban chủ nhiệm cấp cho các luật sư (điểm 4 mục II thông tư 313- TT/LS ngày 15 tháng 4 năm 1989 của Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi hành quy chế đoàn luật sư). 8
  15. Như vậy theo quy định của pháp lệnh tổ chức luật sư thì một người muốn được công nhận là luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư. Thẩm quyền công nhận luật sư hay chấp nhận gia nhập Đoàn luật sư thuộc hội nghị toàn thể đoàn luật sư, thẻ luật sư là giấy tờ chứng minh một người là luật sư, được sử dụng khi hành nghề và sinh hoạt của Đoàn luật sư. Năm 2001 nhà nước ban hành pháp lệnh luật sư thay thế pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, lần đầu tiên khái niệm luật sư được đặt ra. Điều 1 pháp lệnh luật sư năm 2001 quy định: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề luật sư”. Điều 7 Pháp lệnh Luật sư quy định: “Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư” mà không quy định về tiêu chuẩn luật sư thủ tục và thẩm quyền công nhận luật sư. Người được gia nhập Đoàn luật sư để trở thành luật sư phải qua tập sự và kỳ kiểm tra hết tập sự và nếu đạt yêu cầu thì được Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư (điều 13 pháp lệnh luật sư). Khoản 4 điều 13 pháp lệnh luật sư năm 2001 quy định: “Người được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư được hành nghề với đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của luật sư” trong đó có quyền hành nghề luật sư. Theo quy định tại điều 29 Nghị định 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư thì thành viên của các Đoàn luật sư là các luật sư và được Ban chủ nhiệm cấp thẻ. Thẻ luật sư là giấy chứng nhận tư cách thành viên Đoàn luật sư của người được cấp thẻ. Như vậy chứng chỉ hành nghề luật sư do Bộ tư pháp cấp là giấy tờ xác nhận tư cách luật sư, là giấy chứng nhận của Nhà nước về quyền hành nghề luật sư của người được cấp chứng chỉ. Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì luật sư là người có đủ tiêu chuẩn luật sư và được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành ngề luật sư. Chứng chỉ hành nghề luật sư là giấy tờ chứng minh một người là luật sư và luật sư sử dụng khi hành nghề; Thành viên Đoàn luật sư là các luật sư được Ban chủ nhiệm cấp thẻ luật sư, thẻ luật sư được sứ dụng trong sinh hoạt ĐLS. 9
  16. Năm 2006 Luật luật sư được Nhà nước ban hành (thay thế các pháp lệnh và sắc lệnh về luật sư đã ban hành trước đây) khái niệm luật sư được quy định tại điều 2 như sau: “luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ Pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để làm rõ tiêu chuẩn quy định tại điều 2, điều 10 Luật luật sư quy định tiêu chuẩn luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và Pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”. Về khái niệm luật sư quy định tại Luật luật sư năm 2006 hiện tại đang có nhiều cách hiểu khác nhau, tập trung vào 3 nhóm quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng theo quy định tại điều 2 Luật luật sư thì có thể hiểu luật sư là người có chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư nhưng phải thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng; lý giải của quan điểm này thì một người cho dù đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư thì vẫn không được gọi là luật sư, chỉ được gọi luật sư khi một người có chứng chỉ hành nghề luật sư, thẻ luật sư và cung cấp dịch vụ Pháp lý cho khách hàng. Thực tế hiện nay có nhiều người có chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư nhưng họ không hành nghề trong văn phòng luật sư hay công ty luật, hoặc không hành nghề với tư cách cá nhân thì không thể nói rằng họ không phải là luật sư; với nội dung quy định tại điều 2 Luật luật sư thì đây là quy định “ hành nghề luật sư ” hay “ hoạt động luật sư ” chứ chưa hoàn toàn quy định về luật sư. Quan điểm thứ 2 cho rằng khái niệm luật sư và điều kiện hành nghề luật sư có nội dung trùng nhau và đề nghị quy định khái niệm luật sư theo hướng luật sư là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp luật và được cơ quan Nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề; khi luật sư đủ tiêu chuẩn theo luật quy định, được cơ quan Nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thì có quyền hành nghề và đăng ký hoạt động mà không nhất thiết phải gia nhập một Đoàn luật sư. Theo quan điểm này thì 10
  17. luật sư là người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại điều 10 Luật luật sư và được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Quan điểm thứ 3 cho rằng luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư, có nghĩa là được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư thì mới được gọi là luật sư và như vậy giấy tờ xác nhận một người là luật sư là thẻ luật sư. Bởi vì phải có chứng chỉ hành nghề luật sư thì mới được gia nhập Đoàn luật sư và mới được cấp thẻ luật sư. Hiện nay ở nước ta có tình trạng số người được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nhiều hơn số người được cấp thẻ luật sư bởi vì đã có nhiều người đã được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nhưng không gia nhập Đoàn luật sư vì nhiều lý do khác nhau. Những người này tuy có đủ tiêu chuẩn luật sư, đủ khả năng hành nghề luật sư nhưng lại chưa được mang danh luật sư và chưa được công nhận là luật sư vì chưa gia nhập Đoàn luật sư. Theo tôi người được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư đương nhiên họ được phép hành nghề luật sư. Tuy nhiên theo nhiều quy định của Luật luật sư thì chứng chỉ hành nghề luật sư mới chỉ là một trong số những điều kiện để được phép hành nghề luật sư. Khi đã có chứng chỉ hành nghề luật sư còn phải gia nhập Đoàn luật sư và được Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp thẻ luật sư thì mới được phép hành nghề luật sư. Tham khảo pháp luật về luật sư của nhiều nước trên thế giới, hầu như không có nước nào quy định muốn hành nghề luật sư phải qua hai giai đoạn là được công nhận là luật sư và được cấp phép hành nghề luật sư. Qua phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: Luật sư là công dân Việt Nam trung thành với Tổ Quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã qua đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề, được cơ quan nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, phải gia nhập Đoàn luật sư, được Liên đoàn luật sư cấp thẻ luật sư và thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng theo quy định của pháp luật. 11
  18. 1.1.2. Địa vị pháp lý của luật sư Điều 3 Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định chức năng xã hội của luật sư như sau: “ Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ”. Điều này chứng tỏ luật sư có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Để thực hiện tốt vai trò của mình đòi hỏi luật sư phải thực hiện có hiệu quả các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định. 1.1.2.1. Quyền của luật sư Theo khoản 1 điều 21 Luật luật sư thì luật sư có các quyền sau đây: - Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề luật sư, theo quy định của Luật luật sư và quy định của pháp luật có liên quan. Theo điểm a khoản 1 điều 21 và khoản 2 điều 9 Luật luật sư thì luật sư được nhà nước bảo đảm quyền hành nghề trong phạm vi: Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc liên quan đến pháp luật, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Luật luật sư, pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính có quy định bảo đảm quyền hành nghề của luật sư, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động của luật sư. - Quyền đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật 12
  19. Đại diện theo ủy quyền là một chế định của pháp luật dân sự. Theo đó, đại diện là một người nhân danh và vì lợi ích của người khác, xác lập, thực hiện một giao dịch, làm thay một công việc trong phạm vi đại diện. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đều có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc làm việc khác thay cho mình. Quyền đại diện cho khách hàng của luật sư rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính. Quyền này chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật như: người vợ, người chồng trong vụ án yêu cầu ly hôn phải trực tiếp đến Tòa án để giải quyết không được ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện, luật sư nhận ủy quyền cho người vợ hoặc người chồng trong trường hợp này là không đúng pháp luật. - Quyền hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định tại điều 2, điều 10 và điều 11 của Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm 2012 thì luật sư có quyền hành nghề luật sư sau khi được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề, gia nhập đoàn luật sư và được Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp thẻ luật sư. Tuy vậy, để được hành nghề, luật sư phải làm thủ tục đăng ký hoạt động, quyết định hình thức hành nghề và hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo quy định tại điều 35 và điều 50 Luật luật sư. Về hình thức hành nghề luật sư theo quy định tại điều 23 Luật luật sư thì luật sư có quyền lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây: Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (điều 32) hoặc hành nghề với tư cách cá nhân (điều 49). Về hình thức tổ chức hành nghề luật sư, theo quy định tại mục 2 chương III Luật luật sư thì luật sư có quyền lựa chọn thành lập văn phòng luật sư hoặc công ty luật, làm tổ chức hành nghề của mình. Văn phòng luật sư được tổ chức hoạt động theo hình thức doanh nghiệp tư nhân (điều 33); Công ty luật được tổ chức hoạt động theo hình thức công ty hợp doanh hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (điều 34). Trong quá trình hoạt động luật sư có quyền thay đổi hình thức hành nghề và hình 13
  20. thức tổ chức hành nghề bằng thủ tục đăng ký lại tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. - Quyền được hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam và hành nghề luật sư ở nước ngoài Với tư cách pháp nhân là “ Doanh nghiệp ” “ công ty ” các văn phòng luật sư, công ty luật có thể hoạt động ở bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của luật doanh nghiệp. Mặt khác, theo quy định tại điều 41 Luật luật sư thì ngoài trụ sở chính, văn phòng luật sư, công ty luật được quyền mở chi nhánh ở bất kỳ địa phương nào trên lãnh thổ Việt nam. Điều này thể hiện địa bàn hoạt động hành nghề luật sư không bị hạn chế, tùy theo khả năng, điều kiện của văn phòng luật sư, công ty luật. Theo quy định tại điều 43, 44 Luật luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ở trong nước có quyền đặt cơ sở hành nghề luật sư ở nước ngoài, được cử luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên khi luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật luật sư và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính còn quy định luật sư khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các vụ án hành chính có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung, xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa, khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng ....(điều 58 bộ luật tố tụng hình sự). Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; thu thập, cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án, sao chụp tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Tham gia hòa giải, phiên tòa, yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng trong các vụ, việc dân sự và các vụ án hành chính; giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2