Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị - Từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
lượt xem 6
download
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính ở đô thị, trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành chính ở đô thị từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, đề xuất giải pháp tăng cƣờng bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính ở đó hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị - Từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HOÀNG VĂN NGỌ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN CÔNG AN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HOÀNG VĂN NGỌ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN CÔNG AN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN QUỐC SỬU HÀ NỘI - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Đề tài “Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị - Từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của tác giả tại trƣờng Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả cam đoan đây là công trình của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong các công trình nghiên cứu khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả Hoàng Văn Ngọ
- LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trƣờng. Tác giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu đã quan tâm, giúp đỡ tận tình, hƣớng dẫn và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi tới Ban Lãnh đạo, các đơn vị thuộc Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm 2018 Tác giả Hoàng Văn Ngọ
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ............................................................................................................. 7 1.1. Những vấn đề cơ bản về xử lý vi phạm hành chính ở đô thị ............... 7 1.1.1. Vi phạm hành chính ....................................................................... 7 1.1.2. Xử lý vi phạm hành chính ............................................................ 11 1.1.3. Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị ................................................ 14 1.1.4. Đặc điểm xử lý vi phạm hành chính ở đô thị ................................ 15 1.2. Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở đô thị ......... 17 1.2.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính ....................................... 17 1.2.2. Hành vi vi phạm bị xử phạt ở đô thị ............................................. 18 1.2.3. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính ở đô thị ............................ 19 1.2.4. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính ở đô thị ......................... 24 1.3. Các yếu tố tác động đến xử lý vi phạm hành chính ở đô thị ............. 28 1.3.1. Chất lƣợng của pháp luật .............................................................. 28 1.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật ......................................................... 29 1.3.3. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật .................................................. 29 1.3.4. Ý thức pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân .................... 30 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 31 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ CỦA CÔNG AN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ........................................................................................ 32
- 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng có ảnh hƣởng tới vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính ........ 32 2.1.1. Tình hình kinh tế .......................................................................... 32 2.1.2. Tình hình xã hội ........................................................................... 33 2.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính ở đô thị của Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ............................................................... 36 2.2.1.Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ .................................................................................................................... 37 2.2.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội ........................................................................................ 45 2.2.3. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội .............................................................................................. 55 2.3. Đánh giá hoạt động xử lý vi phạm hành chính ở đô thị của Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng thời gian qua ............................. 56 2.3.1. Những thành tựu, kết quả và nguyên nhân .................................... 56 2.3.2. Những hạn chế, vƣớng mắc và nguyên nhân ................................. 58 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 63 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN CÔNG AN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG.......................... 64 3.1. Quan điểm tăng cƣờng bảo đảm xử lý vi phạm hành chính ở đô thị .. 64 3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm xử lý vi phạm hành chính ở đô thị từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ...................... 67 3.2.1. Nhóm giải pháp chung .................................................................. 67 3.2.2. Nhóm giải pháp riêng ................................................................... 70 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3.................................................................................. 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT AN, TT : An ninh, trật tự ATXH : An toàn xã hội GTĐB : Giao thông đƣờng bộ GTVT : Giao thông vân tải KTXH : Kinh tế - Xã hội QLNN : Quản lý nhà nƣớc TTCC : Trật tự công cộng XLVPHC : Xử lý vi phạm hành chính XPVPHC : Xử phạt vi phạm hành chính
- DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Tổng hợp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đƣờng bộ của Công an quận Hồng Bàng từ năm 2013 - 2017........................ 38 Bảng 2.2: Tổng hợp hành vi vi phạm quy tắc giao thông đƣờng bộ .............. 39 Bảng 2.3: Tổng hợp số vụ vi phạm quy định vận tải đƣờng bộ...................... 44 Biểu đồ 2.1: Tình hình xử lý vi phạm hành chính của Công an quận ............ 36 Biểu đồ 2.2: Tổng số vụ xe máy ..................................................................... 40 Biểu đồ 2.3: Tổng số vụ ô tô ........................................................................... 40 Biểu đồ 2.4: Số vụ ngƣời điều khiển ô tô và mô tô không giấy phép khi tham gia giao thông bị xử phạt trên địa bàn quận Hồng Bàng ................................ 43 Biểu đồ 2.5: Tổng hợp tình hình xử phạt vi phạm hành chính của Công an quận Hồng Bàng trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn xã hội ................. 54
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nƣớc (QLNN) nhằm duy trì trật tự, kỷ cƣơng trong đời sống kinh tế - xã hội (KTXH). Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đƣợc Đảng, nhà nƣớc và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Với mục tiêu hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực XLVPHC, qua đó tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả thực thi pháp luật, đồng thời thể chế hóa chủ trƣơng của Đảng về bảo đảm quyền con ngƣời, quyền tự do, dân chủ của công dân, ngày 20/6/2012 tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật XLVPHC, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Luật XLVPHC đƣợc ban hành, đánh dấu bƣớc phát triển mới trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật XLVPHC nói riêng ở Việt Nam, đồng thời khẳng định một bƣớc phát triển mới về bảo đảm nguyên tắc pháp chế và trật tự, kỉ cƣơng trong QLNN. Theo thống kê từ năm 2012 đến tháng 6/2017, trên địa bàn cả nƣớc có 520.617 vụ việc vi phạm pháp luật, trong đó các vụ việc vi phạm pháp luật liên quan tới hình sự, kinh tế, ma tuý chiếm 35,7%; trật tự công cộng là 91.055 vụ, chiếm 17,5%; vi phạm hành chính là 180.184 vụ, chiếm 34,6%. Trong tổng số 184.841 vụ việc vi phạm hành chính về trật tự an toàn xã hội thì số vụ việc liên quan đến vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng chiếm số lƣợng lớn nhất là 97.780 vụ, chiếm 52,9%; tệ nạn xã hội là 34.935 vụ, chiếm 19% và trong các lĩnh vực khác là 52.126 vụ, chiếm 28,3% [8]. Và tại đô thị, XLVPHC sẽ có những đặc điểm riêng liên quan đến đời sống đô thị. Đô thị là điểm tập trung dân cƣ với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay 1
- trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển KTXH của cả nƣớc, của cả một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong huyện. Trong đô thị luôn tồn tại các nhu cầu ăn, ở, đi lại, làm việc, học tập, chữa bệnh, vui chơi giải trí… Các nhu cầu đó ngày càng đòi hỏi cao hơn và các nhu cầu mới thƣờng xuyên phát sinh. Để đáp ứng các nhu cầu đó việc tổ chức xã hội đô thị một cách khoa học, QLNN là yêu cầu khách quan nhằm xác lập trật tự đô thị. Thực tiễn cho thấy, hoạt động XLVPHC ở đô thị của lực lƣợng Công an nhân dân bên cạnh việc thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo đúng quy trình, thẩm quyền, đối tƣợng, thời hiệu và thủ tục theo quy định; vẫn còn tồn tại một số khó khăn vƣớng mắc, cụ thể nhƣ: việc xây dựng, ho trật tự an toàn giao thông Và tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, lực lƣợng Công an nhân dân cũng gặp phải những khó khăn, vƣớng mắc trên khi tiến hành XLVPHC trên địa bàn. Tình hình các đối tƣợng vi phạm pháp luật, chống ngƣời thi hành công vụ diễn biến phức tạp, trong khi công cụ hỗ trợ, phƣơng tiện phục vụ công tác của các lực lƣợng tham gia còn thiếu và chƣa đáp ứng yêu cầu. Việc rà soát đối tƣợng để áp dụng biện pháp XLVPHC giáo dục tại các phƣờng trên địa bàn quận Hồng Bàng còn gặp nhiều khó khăn do thời gian quy định là 6 tháng quá ngắn. Hay nhƣ công tác XLVPHC của lực lƣợng Công an quận Hồng Bàng có phạm vi rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực trong khi đó cơ chế 2
- phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan chƣa đƣợc xây dựng nên rất khó khăn trong việc đánh giá, tổng hợp đầy đủ công tác XLVPHC. Vì vậy, để góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, có những giải pháp nhằm tăng cƣờng bảo đảm XLVPHC ở đô thị nói chung và quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị - Từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” làm nội dung nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Hiện nay, các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận văn mà tác giả nghiên cứu gồm: Cuốn sách: “Bình luận Luật xử lý vi phạm hành chính và trình tự, thủ tục, xem xét quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính”, do tác giả Nguyễn Ngọc Duy biên soạn, Nxb Hồng Đức, 2014. Với phƣơng pháp bình luận mới, tác giả đã phân tích khá chi tiết và dễ hiểu đối với từng điều luật, xác định những nội dung cơ bản của Luật XLVPHC. Ngoài ra, cuốn sách còn khẳng định việc ban hành Luật XLVPHC lần này nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cƣờng pháp chế và nâng cao hiệu lực QLNN trong tình hình hiện nay, đồng thời thay thế những quy định không phù hợp của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và bổ sung những quy định mới bảo đảm cho việc phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với mọi hành vi vi phạm hành chính [16]. Đặng Thanh Sơn (2010), Cơ chế bảo đảm thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội. Đề tài đã đề cập một cách toàn diện về hệ thống cơ chế bảo đảm cho việc thi hành Luật XLVPHC. Từ đó, đề tài làm nền tảng, xác định các yếu tố đảm bảo cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có ở đô thị [10]. Nguyễn Thanh Hải (2014), Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự đô thị từ thực tiễn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ 3
- Luật Hành Chính, Học viện Khoa học xã hội. Đề tài đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp lý về XLVPHC nói chung và XPVPHC trong lĩnh vực trật tự đô thị nói riêng từ thực tiễn quận Hà Đông; có những đánh giá về kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ hạn chế của hoạt động này; từ đó đƣa ra phƣơng hƣớng và các giải pháp trong thời gian tới [18]. Bùi Thị Kim Cúc (2010), Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền của lực lƣợng Cảnh sát biển trong XLVPHC trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền xử lý của lực lƣợng Cảnh sát biển Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng về pháp luật, về XLVPHC của lực lƣợng Cảnh sát biển trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả XLVPHC của lực lƣợng Cảnh sát biển Việt Nam [2]. Bùi Thị Đào (2014), Luật xử lý vi phạm hành chính - bước tiến mới của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và một số vấn đề cần trao đổi, Tạp chí Luật học số 6/2014, tr11. Bài viết đã tập trung phân tích một số điểm mới trong luật XLVPHC: nguyên tắc XPVPHC, thời hiệu XPVPHC, hình thức xử phạt, thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng bên cạnh những thay đổi thể hiện sự tiến bộ của pháp luật về XPVPHC nói trên thì luật XLVPHC cũng còn một số quy định cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu, khẳng định cơ sở lí luận và phải đƣợc kiểm nghiệm giá trị trên thực tế [3]. Nguyễn Hoàng Việt (2015), Điều kiện bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 4/2015, tr27. Bài viết tập trung phân tích tình hình bảo đảm các điều kiện cho việc thi hành pháp luật về XLVPHC kể từ thời điểm luật XLVPHC có hiệu lực thi hành cho đến nay, đánh giá những mặt đạt đƣợc, những mặt còn tồn tại, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và trên cơ sở đó đƣa ra một số kiến nghị, đề xuất cụ thể [19]. 4
- Trên đây là một số công trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính và các vấn đề liên quan. Các công trình có giá trị khoa học cao, là nguồn tài liệu tham khảo hữu hiệu cho đề tài luận văn. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu về XPVPHC ở đô thị không có nhiều và đặc biệt từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng thì chƣa có đề tài nào. Do vậy, luận văn “Xử lý vi phạm hành chính ở đô thị - Từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” sẽ kế thừa một phần cơ sở lý luận của các nghiên cứu trên, đồng thời sẽ phản ánh thực trạng vi phạm hành chính trên địa bàn quận Hồng Bàng, thuộc thẩm quyền xử lý của Công an quận là căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật XLVPHC, tăng cƣờng bảo đảm XLVPHC ở đô thị. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về XLVPHC ở đô thị, trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động XLVPHC ở đô thị từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, đề xuất giải pháp tăng cƣờng bảo đảm XLVPHC ở đó hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về XLVPHC ở đô thị; - Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động XLVPHC của Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; - Đề xuất, luận giải một số giải pháp nhằm tăng cƣờng bảo đảm XLVPHC ở đô thị từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động XLVPHC ở đô thị. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 5
- - Phạm vi về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động XLVPHC ở đô thị thuộc thẩm quyền của Công an quận Hồng Bàng trong một số lĩnh vực cụ thể nhƣ an ninh trật tự, vi phạm giao thông. - Phạm vi về thời gian: từ năm 2013 đến 2017. - Phạm vi về không gian: trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: luận văn sử dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng. - Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu truyền thống trong nghiên cứu khoa học xã hội là: phƣơng pháp phân tích hệ thống; phƣơng pháp tổng hợp so sánh; phƣơng pháp thống kê, kết hợp quan sát thực tiễn (qua quá trình công tác) với khái quát hóa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về XLVPHC ở đô thị. - Về mặt thực tiễn: luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu của cán bộ giảng viên, sinh viên trong trƣờng đại học chuyên ngành luật, hành chính hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ngƣời quan tâm, nghiên cứu về XLVPHC ở đô thị. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở pháp lý về xử lý vi phạm hành chính ở đô thị. Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động xử lý vi phạm hành chính ở đô thị của Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp tăng cƣờng bảo đảm xử lý vi phạm hành chính ở đô thị từ thực tiễn Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. 6
- Chƣơng 1 CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở ĐÔ THỊ 1.1. Những vấn đề cơ bản về xử lý vi phạm hành chính ở đô thị 1.1.1. Vi phạm hành chính Để xã hội có thể ổn định và phát triển đƣợc theo đúng định hƣớng đã định, Nhà nƣớc luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ thống các quy tắc QLNN đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trên thực tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi phạm các quy tắc QLNN. Các vi phạm đó diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội, từ những hành vi vi phạm nhỏ nhặt nhƣ hút thuốc nơi công cộng đến những hành vi vi phạm có tính chất, mức độ lớn hơn nhƣ điều khiển phƣơng tiện giao thông cơ giới đƣờng bộ đi vào đƣờng ngƣợc chiều, vƣợt đèn đỏ hay thậm chí lạng lách đánh võng, gây tai nạn rồi bỏ chạy... hoặc trốn thuế. Những hành vi vi phạm các quy tắc QLNN, vi phạm pháp luật đƣợc nêu trên đây thể hiện rất đa dạng, phong phú và xảy ra trong hầu hết các lĩnh vực QLNN. Trong khoa học pháp lý, pháp luật là những quy tắc hành vi, quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nƣớc ban hành, thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, đƣợc chia thành các ngành luật, mỗi ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực pháp luật, có đối tƣợng điều chỉnh và phƣơng pháp điều chỉnh riêng. Mỗi ngành luật đƣợc chia thành các chế định, mỗi chế định pháp luật là một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội gần gũi nhau, cùng tính chất. Chế định pháp luật về XLVPHC là một chế định pháp luật thuộc ngành luật hành chính, là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về hành vi vi phạm hành chính, các biện pháp 7
- XLVPHC, thẩm quyền của các cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong XLVPHC, trình tự thủ tục áp dụng các biện pháp XLVPHC. Do tính đặc thù của quản lý hành chính nhà nƣớc, sự đa dạng, phức tạp của vi phạm hành chính, nên trong mọi lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nƣớc đều có những hành vi vi phạm quy tắc quản lý hành chính nhà nƣớc. Vì vậy, chế định XLVPHC là một chế định rất lớn, bao gồm nhiều những “chế định” nhỏ, hay “tiểu chế định”, trong đó có “chế định” XLVPHC [17]. Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên đƣợc nêu ra trong Pháp lệnh XPVPHC ngày 30/11/1989. Điều 1 Pháp lệnh này quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải b ịxử phạt hành chính”. Định nghĩa trên cho chúng ta thấy đƣợc các dấu hiệu pháp lý cơ bản của VPHC là: chủ thể, hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi và bị xử phạt hành chính [14]. Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 không trực tiếp đƣa ra định nghĩa về vi phạm hành chính nhƣng Khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này đã định nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính” [24]. Tại Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (đƣợc sửa đổi, bổsung năm 2007 và năm 2008), vi phạm hành chính cũng đƣợc quy định một cách gián tiếp: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính” [25]. Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản 8
- chất của loại vi phạm pháp luật này. Khái quát những dấu hiệu bản chất đó, Khoản 1 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 đã trực tiếp đƣa ra định nghĩa về vi phạm hành chính, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” [22]. Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa dạng, phong phú, ở hầu hết các lĩnh vực của QLNN, song đều có chung một số đặc điểm sau: Một là, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chƣa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi đó đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật về XPVPHC. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm. Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thƣờng, những yếu tố này có thể là thời gian, địa điểm, công cụ phƣơng tiện, hậu quả và mối quan hệ nhân quả. Hai là, vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dƣới hình thức cố ý hoặc vô ý. Nói cách khác, ngƣời thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhƣng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức đƣợc hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức đƣợc điều đó nhƣng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ để cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chúng ta có thể kết luận rằng đã không có vi phạm hành chính xảy ra. Ngoài dấu hiệu lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một số trƣờng hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính. Luật XLVPHC hiện hành quy định tổ chức bị XPVPHC về mọi vi phạm hành 9
- chính do mình gây ra. Đồng thời, nó phải có trách nhiệm xác định lỗi của ngƣời thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ đƣợc giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và để bồi thƣờng thiệt hại theo quy định của pháp luật. Ba là, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. Đối với tổ chức, thì hành vi này đƣợc thực hiện bởi cá nhân nhƣng dƣới danh nghĩa tổ chức (do tổ chức giao, phân công hoặc thực hiện hành vi nhân danh tổ chức đó). Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính. Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi bị XPVPHC về vi phạm hành chính do cố ý. Nhƣ vậy, khi xác định ngƣời ở độ tuổi này có vi phạm hành chính hay không cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ. Luật XLVPHC hiện hành không định nghĩa thế nào là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, nhƣ đã phân tích ở trên, thông thƣờng ngƣời thực hiện hành vi với lỗi cố ý là ngƣời nhận thức đƣợc hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán nhƣng vẫn cố tình thực hiện. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên bị XPVPHC về mọi vi phạm hành chính (vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý). Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính, là cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và tổ chức khác đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập có quy định khác. Bốn là, vi phạm hành chính cũng nhƣ mọi hành vi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Nói cách 10
- khác, khách thể của quan hệ hành chính là quan hệ xã hội về QLNN trong các lĩnh vực bị hành vi vi phạm xâm hại. 1.1.2. Xử lý vi phạm hành chính Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính. * Xử phạt vi phạm hành chính Xử phạt vi hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý hành chính Nhà nƣớc. Đó là loại hoạt động đặc biệt và rất phức tạp bao gồm một loạt các hành vi cụ thể liên quan mật thiết với nhau nhƣ phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của vi phạm hành chính, xác định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với quy định của pháp luật, áp dụng hình thức và mức phạt và ra quyết định xử phạt hành chính. XPVPHC là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính. Quyết định xử phạt hành chính khi đƣợc ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý đặc biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là buộc họ phải chịu hậu quả bất lợi trƣớc Nhà nƣớc về tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về tài sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật, phƣơng tiện,…). XPVPHC có những đặc điểm cơ bản sau: - XPVPHC là một loại hoạt động cƣỡng chế Nhà nƣớc, mang tính quyền lực Nhà nƣớc. Tính cƣỡng chế và tính quyền lực Nhà nƣớc thể hiện ở chỗ hoạt động xử phạt hành chính luôn luôn đƣợc các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền thực hiện. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ Nhà nƣớc nào đƣợc Nhà nƣớc trao thẩm quyền xử phạt hành chính và đƣợc ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt hành chính mới có quyền quyết định xử 11
- phạt. Xử phạt hành chính là phản ứng của Nhà nƣớc trƣớc các hành vi xâm hại quy tắc QLNN. Biểu hiện của phản ứng đó chính là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính. Việc áp dụng các biện pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi xử sự của chủ thể vi phạm, tức là buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi trƣớc Nhà nƣớc và tác dụng đình chỉ VPHC qua đó mà bảo vệ và duy trì trật tự QLNN. - Cơ sở để xử phạt hành chính là VPHC. Chỉ có hành vi nào xâm phạm quy tắc QLNN mà chƣa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý mới bị XPVPHC. Đặc điểm có tính nguyên tắc trên đây đã đƣợc khẳng định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC: “Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định” [19]. - Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ quan hoặc cán bộ Nhà nƣớc có thẩm quyền phải xác định rõ có vi phạm hành chính xảy ra hay không, tính chất và mức độ của vi phạm nhƣ thế nào, hành vi vi phạm đó có quy định trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính hay chƣa. - Hoạt động xử phạt hành chính đƣợc tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn nhƣng kết quả của hoạt động này phải đƣợc thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính. Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử phạt luôn đƣợc thực hiện hai loại hành vi: (1) Hành vi ban hành quyết định xử phạt hành chính. Quyết định xử phạt hành chính phải đƣợc thể hiện bằng văn bản hay bằng một hình thức khác do pháp luật quy định; (2) Hành vi hành chính khác, nhƣ nhằm đình chỉ hành vi vi phạm, lập biên bản vi phạm, giải thích hành vi vi phạm và thông báo điều khoản văn bản pháp luật đƣợc áp dụng cho cá nhân hoặc tổ chức vi phạm. Hai loại hành vi trên luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hành vi ban hành quyết định xử phạt là cơ bản và chủ yếu nhất. Các hành vi hành 12
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 282 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 110 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 70 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 76 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 81 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 86 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 108 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 73 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 59 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 65 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 72 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 43 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 51 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 58 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 46 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 83 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn