intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

40
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Khái quát chung về chế độ hưu trí và quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc về chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay; Thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; Định hướng, giải pháp hoàn thiện chế độ hưu trí bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện từ kinh nghiệm của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- ĐOÀN TRỌNG ĐÀN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- ĐOÀN TRỌNG ĐÀN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THỊ THÚY NGA Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống an sinh xã hội (Sau đây được viết tắt là ASXH) là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp cộng đồng để chống lại những khó khăn trong cuộc sống như tai nạn nghề nghiệp, ốm đau bệnh tật, thu nhập bị giảm sút,… qua đó góp phần bảo đảm an toàn, ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Trong hệ thống này, Bảo hiểm xã hội luôn giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất, tạo tiền đề để thực hiện tốt các chính sách an sinh, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với người lao động và Nhà nước. Đối với những người vượt quá độ tuổi lao động hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động, áp lực về tài chính luôn là một trong các mối quan tâm hàng đầu trong cuộc sống khi mà thu nhập của họ đã bị suy giảm. Đây luôn là các đối tượng yếu thế được pháp luật quan tâm bảo vệ một cách đặc biệt. Chế độ hưu trí ra đời nhằm bảo đảm ổn định đời sống cho người tham gia Bảo hiểm xã hội (Sau đây được viết tắt là BHXH) khi hết độ tuổi lao động để họ không phải phụ thuộc vào gia đình, người thân, xã hội nếu như không có một nguồn thu nhập nào khác và phải đi làm ở cái tuổi đáng lẽ phải được nghỉ ngơi. Nhận thức được vấn đề này, ngay những năm đầu thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng công tác xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh các vấn đề về BHXH, trong đó một nhóm đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc sẽ được hưởng chế độ hưu trí, sự phát triển của pháp luật BHXH luôn hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo đảm phát huy tối đa quyền con người trong xã hội. Ngày nay, với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, chính sách ASXH ngày càng được coi trọng, đây được xem là một trong những nhân tố hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều 34 và Điều 59 Hiến pháp năm 2013 của nước đã ghi nhận công dân có quyền được bảo đảm ASXH, được Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH. Do đó, sự ra đời của chế độ hưu trí theo 1
  4. pháp luật BHXH bắt buộc ở Việt Nam là một tất yếu, đáp ứng nguyện vọng của Người lao động (sau đây viết tắt là NLĐ) trong xã hội, thông qua đó quyền lợi của NLĐ vẫn được bảo vệ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động với cộng đồng bằng việc thực hiện những chính sách ưu đãi, trợ giúp NLĐ khi về hưu có cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngày càng được chú trọng hoàn thiện, hướng tới mục tiêu bảo đảm tốt nhất về quyền con người, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, tăng năng suất lao động để tạo ra nhiều của cải vật chất, đóng góp to lớn vào quá trình vận động và phát triển kinh tế thị trường, phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu, qua đó thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái của cộng đồng nước ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tuổi thọ trung bình của người dân ở nước ngày một tăng cao, tỷ lệ sinh ngày càng giảm dẫn đến tình trạng già hóa dân số gây ra các tác động không nhỏ đến ngân sách của nhà nước, kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Việc xây dựng, sủa đổi và thực thi chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc trên địa bàn cả nước nói chung cũng như tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Nhiều quy định được ban hành nhưng chưa được hướng dẫn cụ thể, không có sự đồng nhất giữa văn bản luật và thực tiễn thực hiện, một số quy định không phát huy tác dụng trong thực tế v.v.. Bên cạnh đó, độ tuổi hưởng chế độ hưu trí giữa các ngành nghề, mỗi giới tính còn chưa đồng nhất dẫn đến có sự chênh lệch nhất định về mức hưởng, tuổi hưởng chế độ hưu trí trong khi mức đóng là gần như nhau. Trên cơ đó, việc hoàn thiện và thực hiện các quy định về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc là một vấn đề cấp thiết, phù hợp với nguyện vọng của nhiều đối tượng trong xã hội, là vấn đề cần được Nhà nước và xã hội quan tâm, có như vậy hệ thống ASXH mới được phát triển một cách bền vững. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình” để làm Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ hưu trí, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, góp phần duy trì và thực hiện tốt chính sách ASXH của quốc gia. 2
  5. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua nghiên cứu về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc được cụ thể hóa ở các luật chuyên ngành như Luật Bảo hiểm xã hội, Bộ luật Lao động, Luật Công an nhân dân, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức Quốc phòng,… có thể thấy đây không phải là một đề tài mới nhưng nó đang trở thành mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học nhằm đóng góp ý kiến xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hệ thống BHXH nói chung cũng như về chế độ hưu trí nói riêng, trong đó, tác giả được biết đến một số đề án, đề tài như: Thứ nhất, về các công trình nghiên cứu chung các chế độ trong lĩnh vực BHXH bắt buộc: - Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp phòng chống lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội” do Thạc sỹ Điều Bá Được, Trưởng ban thực hiện chính sách BHXH, BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2012); - Đảng Bộ cơ quan BHXH Việt Nam (2018) “Giải pháp và nâng cao chất lượng công tác, kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, do Nguyễn Thị Nga, Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm; - Đề án cải cách chính sách BHXH do Chính phủ giao Bộ LĐTBXH chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và các chuyên gia xây dựng chương trình Hội nghị Trung ương 7, khóa XII tháng 05/2018. Thông qua hội nghị này, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW với nhiều nội dung mang tính đột phá, trong đó có việc cải cách chính sách tiền lương, BHXH để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; - Nguyễn Quang Trường (2016)“Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương; - Bùi Thị Thanh Hương (2017) “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; 3
  6. - Nguyễn Thị Hương (2018) “Pháp luật xây dựng Bảo hiểm xã hội bắt buộc qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật – Đại học huế; - Nguyễn Thùy Dung (2019) “Vi phạm pháp luật về Bảo hiểm xã hội và thực tiễn giải quyết tại thành phố Thanh Hóa”, Luận văn Thạc sĩ Luật Học, Đại học Luật Hà Nội; Thứ hai, các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc có thể kể đến đó là: - Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Chế độ hưu trí, tử tuất theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội – Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện” do Hoàng Kim Dung, Phó trưởng ban thực hiện chính sách BHXH, BHXH Việt Nam làm chủ nhiệm (năm 2014); - Hà Thị Hiền (2018) “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội 2014 ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội; - Nguyễn Thị Thu Thủy (2019) “Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội; - Nguyễn Thị Phương Thảo (2019) “Pháp luật về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Luật Hà Nội; - Đào Tiểu Ngọc (2020) “Bảo hiểm hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Học viện Khoa học xã hội. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề sau: Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về BHXH và các chế độ của BHXH như: khái niệm, đặc trưng, lịch sử hình thành, phát triển của BHXH và những vấn đề lý luận cơ bản khác. Hai là, nghiên cứu những quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về BHXH, trong đó có chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH. Ba là, đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BHXH. 4
  7. Tuy nhiên, trong hệ thống quy định hiện hành điều chỉnh quan hệ hưu trí bắt buộc, Bộ luật Lao động năm 2019 được ban hành với hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2021 đã có thay đổi một số nội dung liên quan đến chế độ hưu trí, đặc biệt lộ trình điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu và các điều khoản sửa đổi Luật BHXH năm 2014, đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu pháp luật về chế độ hưu trí bắt buộc ở Việt Nam hiện nay, góp phần làm rõ các quy định đã ban hành, thực tiễn thực hiện và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, các công trình được đề cập ở trên chưa từng nghiên cứu đến thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chính vì vậy, Luận văn kế thừa các nội dung nghiên cứu trên, đồng thời làm rõ các vấn đề còn bỏ ngỏ về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định này từ thực tiễn tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chế độ hưu trí theo chính sách BHXH bắt buộc trên cơ sở phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đảm bảo mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Kế thừa, tiếp nối các lý thuyết về BHXH bắt buộc, chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc để làm rõ khái niệm pháp luật BHHT bắt buộc, nguyên tắc của chế độ hưu trí bắt buộc, nội dung cơ bản của chế độ hưu trí bắt buộc. - Phân tích các quy định hiện hành điều chỉnh chế độ hưu trí theo BHXH bắt buộc ở Việt Nam để xác định được các đối tượng tham gia, chế độ hưởng, thủ tục hưởng chế độ hưu trí bắt buộc và quỹ bảo hiểm hưu trí. 5
  8. - Nghiên cứu pháp luật về BHXH của một số nước như Đức, Nhật Bản và Trung Quốc từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Thông qua phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh để khảo sát thực tiễn và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ hưu trí ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình để làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế còn tồn đọng. - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí bắt buộc từ kinh nghiệm của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc. Luận văn đánh giá thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật Việt Nam về chế độ hưu tí theo pháp luật BHXH bắt buộc. Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, Luận văn không nghiên cứu về các nội dung sau: lịch sử hình thành và quá trình phát triển của pháp luật về BHHT bắt buộc ở nước ta, vai trò chế độ hưu trí bắt buộc, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về BHHT, cũng như giải quyết chế độ hưu trí cho NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu đề tài một cách hiệu quả, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Tác giả đã sử dụng đồng bộ một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích các quy phạm của luật thực định có liên quan đến tên đề tài của Luận văn. 6
  9. - Phương pháp tổng hợp các quan điểm khác nhau về nhận thức khoa học xung quanh các khái niệm, quy phạm pháp luật liên quan đến pháp luật về BHXH bắt buộc. - Phương pháp lịch sử khảo cứu các nguồn tư liệu, đặc biệt là các tư liệu về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc; các báo cáo tổng kết của cơ quan BHXH huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, Ủy ban nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình… - Dùng những lập luận, cơ sở pháp lý, số liệu cụ thể để chứng minh thực trạng quy định pháp luật về chế độ hưu trí bắt buộc ở nước ta và thực trạng áp dụng ở địa bàn huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình nói riêng. - Phương pháp so sánh luật học nhằm đối chiếu các quy định pháp luật về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc qua các giai đoạn thay đổi và phát triển kinh tế - xã hội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thứ nhất, Luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHXH nói chung cũng như về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc nói riêng. Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng pháp luật về pháp luật BHXH bắt buộc; chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc và thực tiễn thực hiện tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Thứ ba, chỉ ra được những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của từng hạn chế trong thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Thứ tư, đề ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ hưu trí bắt buộc, đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Thứ năm, đề tài có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, học tập của các sinh viên chuyên ngành luật và các chuyên ngành khác có liên quan. Đề tài cũng có thể dùng tham khảo trong quá trình xây dựng chính sách về chế độ hưu trí và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí trên địa bàn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 7. Kết cấu của Luận văn 7
  10. Luận văn được thiết kế gồm 3 phần lớn: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: Danh mục từ viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu,… Trong đó, phần nội dung được thiết kế thành 03 chương, cụ thể: Chương 1: Khái quát chung về chế độ hưu trí và quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc về chế độ hưu trí ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện chế độ hưu trí bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện từ kinh nghiệm của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 8
  11. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái quát chung về pháp luật bảo hiểm hưu trí bắt buộc và chế độ hưu trí bắt buộc 1.1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm hưu trí bắt buộc, chế độ hưu trí bắt buộc BHXH là biện pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro, biến cố làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. BHXH được lập ra là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần cho NLĐ. BHXH thực chất có thể hiểu chính là quá trình tổ chức sử dụng quỹ tiền tệ tập trung được tích dồn do sự đóng góp của NLĐ và người sử dụng lao động dưới sự quản lý điều tiết của Nhà nước. NLĐ được bảo hiểm với những mất mát do rủi ro gây ra sau khi nhận được một khoản phí bảo hiểm, các sự kiện được xác định thuộc phạm vi rủi ro đều xảy ra một cách bất ngờ và bất lợi, tác động trực tiếp đến lợi ích của người tham gia. NLĐ là một nhân tố quan trọng trong lực lượng sản xuất để cấu thành phương thức sản xuất, do đó khi thu nhập của NLĐ bị mất hoặc giảm sút bởi các rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết sẽ được bảo đảm thay thế hay bù đắp một phần trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH. Ở nước ta, do ảnh hưởng của chế độ phong kiến kéo dài và những cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đã làm chậm sự ra đời của chế độ hưu trí bắt buộc, tuy nhiên Đảng và Nhà nước luôn dành cho các đối tượng vượt quá độ tuổi lao động sự quan tâm và bảo vệ một cách sâu sắc mặc dù hoàn cảnh đấu tranh gian khổ dẫn đến điều kiện thực hiện pháp luật BHXH bắt buộc còn rất hạn chế. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, những chính sách về ASXH bắt đầu từng bước được định hình, củng cố và phát triển. Đối với chế độ hưu trí, Sắc lệnh số 54 năm 1945 là chính sách đầu tiên về việc ấn định những điều kiện cho công chức về hưu, bên 9
  12. cạnh đó, Điều 14 Hiến pháp năm 1946 của nước ta đã ghi nhận: “Những người công dân già cả hoặc tàn tật không được làm việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng.” Đây là tiền đề cho sự ra đời của pháp luật về BHHT của những năm sau này. Trên cơ sở kế thừa và phát huy dựa trên nền tảng có sẵn, các Sắc lệnh số 76 và số 77 năm 1950 quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ công nhân viên chức và Nghị định số 218 – CP ban hành ngày 27/12/1961 về Bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước đã bước đầu đánh dấu sự ra đời của chế độ hưu trí ở Việt Nam, trong đó những đối tượng đầu tiên được pháp luật quy định bắt buộc phải tham gia là cán bộ, công nhân viên chức, bởi lẽ đây là những ưu ái dành cho các lao động tuyến đầu cống hiến sức mình trong quá trình vận hành, xây dựng đất nước, có nguồn thu nhập ổn định và do Nhà nước trực tiếp quản lý, tạo điều kiện thuận lợi mang lại hiệu quả cao trong công tác triển khai các hoạt động BHXH, là tiền đề thu hút được sự quan tâm của nhiều đối tượng khác trong xã hội. Trong nhiều thập kỷ liền kề, các sắc lệnh, văn bản pháp luật điều chỉnh các chế độ trong hệ thống an sinh liên tiếp được ban hành, những quy định về Bảo hiểm hưu trí (sau đây viết tắt là BHHT) bắt buộc cũng dần được hình thành và củng cố hoàn thiện nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người dân khi không còn tham gia vào quan hệ lao động. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 ra đời đánh dấu sự phát triển của khung pháp lý điều chỉnh quan hệ BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ ASXH và quá trình chuyển đổi của nền kinh tế cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Ngày 20/11/2014, trên cơ sở sửa đổi, bổ sung những quy định cũ nhằm đáp ứng những biến chuyển trong cơ cấu kinh tế - xã hội, phù hợp với sự chuyển dịch của tháp dân số, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã từng bước hoàn thiện các bất cập và ngày càng bảo vệ tối ưu quyền lợi của NLĐ trong mọi thành phần kinh tế khi họ đối diện trước các khó khăn của tuổi già. Hiện nay, với tư cách là một loại hình BHXH, mang những đặc trưng chung về vai trò tài chính và an sinh, BHHT là cách thức NLĐ sẽ tự trả lương cho chính mình khi hết độ tuổi lao động bằng những tích lũy, đóng góp theo quy định pháp 10
  13. luật vào quỹ BHXH ngay từ khi tham gia quan hệ lao động, được nhà nước hỗ trợ tùy theo đối tượng tham gia và cơ sở đóng phí mà thực hiện một trong hai hình thức: BHHT bắt buộc và BHHT tự nguyện. Như vậy, có thể định nghĩa: BHHT bắt buộc là một loại hình BHXH do Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc giảm sút của NLĐ do hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động trên cơ sở NLĐ và NSDLĐ đóng góp hàng tháng vào quỹ BHXH. Từ đó, pháp luật về BHHT bắt buộc được xác định: là tổng thể các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động phát sinh trong quan hệ BHHT bắt buộc như đối tượng tham gia, mức đóng góp, thời gian đóng góp, cơ sở đóng góp,… mang tính chất bắt buộc, nhằm mục đích chia sẻ, bảo vệ những lao động yếu thế trong cộng. Để thực hiện hiệu quả các chính sách BHHT bắt buộc, những quy định về chế độ hưu trí dần được củng cố, hình thành và phát triển. Nói một cách khác, chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc là một phương thức triển khai BHHT bắt buộc, do đó quy định pháp luật về chế độ hưu bắt buộc là một phần quy định thuộc BHHT bắt buộc, nhằm khắc phục khó khăn cho NLĐ khi bị giảm sút thu nhập khi hết tuổi lao động, củng cố, hoàn thiện pháp luật, phù hợp với nền kinh tế thị trường, góp phần đưa chính sách BHXH phát huy đúng vai trò trụ cột trong hệ thống ASXH. Bàn về chế độ hưu trí, theo Tổ chức Lao động Quốc tế thì chế độ hưu trí còn được gọi là bảo hiểm tuổi già, là một trong các nhánh quan trọng của an toàn xã hội, do đó hầu hết các quốc gia trên thế giới trong các hoạt động xây dựng phát triển kinh tế xã hội và quy định chính sách BHXH bắt buộc đều phải có chế độ hưu trí, ở Việt Nam chế độ hưu trí cũng được chú trọng củng cố và hoàn thiện với các chế định của pháp luật. Hưu trí là cách gọi chung cho những người đã về hưu, họ thường là người già và có thâm niên công tác trong một số lĩnh vực nhất định. Trên những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ hưu trí bắt buộc: là những ưu đãi xã hội dành cho NLĐ có đủ các điều kiện về thời gian đóng BHXH bắt buộc và tuổi đời được nghỉ việc hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động được ghi nhận bởi hệ thống các quy định pháp luật, yêu cầu các đối tượng tham gia phải tuân thủ chấp hành. Suy rộng ra, pháp luật về chế độ hưu trí theo BHXH bắt buộc được định nghĩa: là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan 11
  14. hệ phát sinh giữa các chủ thể phải tham gia quan hệ chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật, quy định cụ thể về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, mức trợ cấp lương hưu và các thủ tục cần triển khai liên quan đến việc thực hiện chế độ hưu trí khi NLĐ hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động. 1.1.2. Nguyên tắc của chế độ hưu trí bắt buộc Với tư cách là một chế độ trong chính sách BHXH, nên quá trình triển khai BHHT phải đáp ứng các nguyên tắc chung của BHXH, đó là: Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của NLĐ; Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH; NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH; Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định; Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí bắt buộc hướng đến bảo vệ người tham gia BHXH bắt buộc đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động, đây là những đối tượng có nét riêng biệt trong lĩnh vực BHXH, vì vậy chế độ này còn được thực hiện dựa trên một số nguyên tắc đặc thù sau: Thứ nhất, chế độ hưu trí bắt buộc được xây dựng trên cơ sở cân bằng xã hội, cơ cấu nhân lực và đảm bảo mức sống của NLĐ. Theo Thông cáo báo chí kết quả nghiên cứu chuyên sâu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục thống kê thì dự báo giai đoạn từ năm 2026-2039, tỷ trọng dân số từ 65 tuổi sẽ đạt mức 10% vào năm 2026 và vào năm 2039 sẽ vượt mức 15% tổng dân số, năm 2026 dự đoán nước ta sẽ bước vào thời kỳ dân số già, thời kỳ cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam sẽ chính thức chấm dứt vào năm 2039. Qua đó, sự thay đổi về cơ cấu dân số đã phản ánh thực trạng của hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay và diễn biến phức tạp có thể đối mặt trong các thập niên sắp tới, đây không chỉ là những thách thức cho những nhà lãnh đạo, người làm luật mà còn khó 12
  15. khăn cho cả cộng đồng nếu không có một biện pháp hữu hiệu kịp thời ngăn chặn và giải quyết các hệ quả trong tương lai. Chế độ hưu trí trong chính sách BHXH bắt buộc được thực hiện trên cơ sở dùng phần đóng góp ở thời điểm hiện tại chi trả cho người được hưởng lợi ích. Bởi vậy, theo tốc độ già hóa dân số đang diễn ra, tỷ lệ người già vượt quá độ tuổi lao động ngày càng tăng lên trong khi tỷ lệ sinh giảm. Tuổi thọ ngày càng tăng, đồng nghĩa với việc số người được hưởng càng nhiều và gia tăng các khoản chi cho chế độ hưu trí, chăm sóc ý tế,… nhưng ngược lại số đối tượng đóng góp trong tương lai có nguy cơ sụt giảm, gây mất cân bằng giữa các lực lượng xã hội. Vậy nên, thực hiện chế độ hưu trí ngoài việc triển khai kịp thời và đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho NLĐ khi về hưu còn phải thực hiện quy tắc cân bằng và ổn định xã hội, đảm bảo các chế độ phù hợp với tuổi thọ của dân số và mức sống của NLĐ, góp phần cân đối tỷ lệ người đóng và người hưởng, tạo ra sự tăng trưởng bền vững của quỹ hưu trí. Thứ hai, có điều chỉnh tuổi nghỉ hưu trong một số ngành, nghề nhất định. Với sự đa dạng ngành, nghề của nền kinh tế, không phải tất cả NLĐ đều tiến hành làm việc trong một môi trường nghề giống nhau. Những công việc nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, lĩnh vực an ninh quốc phòng đòi hỏi NLĐ phải kiên trì đối mặt với nhiều vất vả, công sức bỏ ra nhiều hơn so với các lao động trong điều kiện làm việc bình thường. Việc giảm tuổi nghỉ hưu mà không giảm trừ mức hưởng nhằm bù đắp lại những thiệt thòi, khó khăn họ đã đối mặt và vượt qua để thực hiện tốt công việc đảm nhận, khuyến khích, thu hút nhiều NLĐ tích cực tham gia vào các ngành nghề, lĩnh vực này, tạo ra sự công bằng về giá trị sức lao động và thời gian làm việc của tất cả NLĐ, cân đối phân bổ lao động ở các vùng, các ngành nghề kinh tế với nhau. Thứ ba, thực hiện điều chỉnh hợp lý giữa lao động nam và lao động nữ. Trong cuộc sống hiện đại, sự bình đẳng giữa nam, nữ trước pháp luật được ghi nhận và luôn thực thi trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, ở phương diện khác, ngoài tư cách là NLĐ, phụ nữ còn phải thực hiện tốt vai trò một người mẹ, một người vợ, một người con với nhiệm vụ chăm lo cho gia đình mà không có thời gian để bản thân nghỉ ngơi. Dưới góc độ sinh học, tốc độ lão hóa của phụ nữ diễn ra 13
  16. nhanh hơn nam giới đã dẫn đến sự khác biệt to lớn về thể lực, sức khỏe và tâm lý. Nên để đảm bảo tính nhân văn, công bằng của pháp luật, không thể xác định và áp dụng chung một độ tuổi nghỉ hưu cho cùng lao động giữa nam và nữ. Bên cạnh đó, NLĐ khi làm việc phải đáp ứng sức khỏe tốt để mang lại hiệu quả cao trong công việc, hoàn thành các nhiệm vụ được giao, tạo ra các giá trị nhất định về mặt vật chất lẫn tinh thần. Nên pháp luật đã có sự ưu tiên cho lao động nữ trong chính sách BHXH bắt buộc, không chỉ được hưởng chế độ thai sản, các căn cứ để xác định áp dụng BHHT về độ tuổi được nghỉ hưu và thời gian tham gia đóng BHXH của nữ giới đều được điều chỉnh và có sự khác biệt đối với nam giới. Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, trong điều kiện làm việc bình thường, từ năm 2021 trở đi độ tuổi nghỉ hưu đã được điều chỉnh là 60 tuổi đủ 03 tháng đối với lao động nam và 55 tuổi đủ 04 tháng đối với lao động nữ sau đó tuổi nghỉ hưu này được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ. Khoảng cách này đã được thu hẹp so với quy định cũ trong BLLĐ năm 2012 và Luật BHXH năm 2014, cụ thể theo các văn bản này với điều kiện làm việc như trên thì độ tuổi nghỉ hưu là 60 tuổi đối với lao động nam và 55 tuổi đối với lao động nữ. Có thể thấy sự thu hẹp khoảng cách về độ tuổi nghỉ hưu theo giới tính cần được thực hiện qua một lộ trình nhiều năm, tuy nhiên việc rút ngắn khác biệt là 3 năm đã phần nào giúp xã hội đối diện với tình trạng già hóa bằng việc tận dụng các nguồn lực có sẵn, có bề dày kinh nghiệm và tay nghề làm việc cao, tạo ra nhiều của cải, vật chất có giá trị đóng góp cao hơn, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các tổ chức kinh tế, đảm bảo cho sự phát phát triển bền vững của thị trường theo từng thời kỳ. 1.1.3. Nội dung của chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc Các chính sách về BHHT bắt buộc được triển khai với sự phối hợp của nhiều chủ thể tham gia, thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật BHXH bắt buộc nói chung và BHHT bắt buộc nói riêng với một số nội dung cơ bản như sau: Thứ nhất, đối tượng tham gia BHHT bắt buộc. Thông qua quá trình làm việc, đóng góp sức lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, chính sách BHXH bắt buộc được pháp luật áp dụng nhằm đảm bảo thu 14
  17. nhập của NLĐ khi họ rơi vào các khó khăn của cuộc sống, trong đó, chế độ hưu trí là một trong các cách thức để xã hội bảo vệ các thành viên của mình khi họ đối diện với tuổi già. Bởi vậy, NLĐ là chủ thể đầu tiên, cần thiết phải tham gia BHHT bắt buộc, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thiết yếu và hưởng những đãi ngộ, quyền lợi chính đáng được pháp luật công nhận, bảo vệ. Bên cạnh đó, để duy trì và tạo lập nên mối quan hệ về BHHT, cũng như thực hiện trách nhiệm quản lý, sử dụng lao động làm việc cho mình, điều tiết các hoạt động xã hội, NSDLĐ và cơ quan quản lý nhà nước cũng là các chủ thể được pháp luật quy định phải tham gia chế độ hưu trí bắt buộc. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trong quan hệ lao động cũng được được phép tham gia chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH bắt buộc, Luật BHXH năm 2014 chỉ giới hạn một nhóm đối tượng cụ thể có trách nhiệm phải tham gia theo quy định tại Điều 2 của Luật này, đây đều là các mối quan hệ lao động phổ biến có tính ổn định, góp phần tạo ra các giá trị thặng dư cho xã hội. Thứ hai, điều kiện được hưởng chế độ hưu trí bắt buộc. Để được hưởng chế độ hưu trí, NLĐ phải đáp ứng được các điều kiện về độ tuổi nghỉ hưu và thời gian tham gia BHXH bắt buộc. - Về độ tuổi nghỉ hưu. Theo lý luận pháp luật lao động, độ tuổi của một người được chia ra làm ba giai đoạn: chưa đến tuổi lao động, độ tuổi lao động và tuổi nghỉ hưu. Do đó, để được hưởng chế độ hưu trí, độ tuổi là một trong các điều kiện quan trọng xác định quyền được nghỉ hưu của một người. Độ tuổi nghỉ hưu được pháp luật xác định, đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau về sức khỏe pháp lý, về đời sống xã hội, trong đó, tuổi thọ bình quân và cơ cấu dân số là hai yếu tố then chốt quyết định đến độ tuổi nghỉ hưu của một NLĐ. Việc quyết định độ tuổi lao động không chỉ nhằm đảm bảo cân bằng nguồn thu chi của xã hội mà còn nhằm góp phần tạo ra sự bình đẳng, công bằng của các thành viên tham gia quan hệ lao động sản xuất, đây cũng là cơ sở để xác định mốc thời gian một cá nhân thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH để tính mức lương hưu và các ưu đãi khác cho người được thụ hưởng. Do đó, đối với một số ngành nghề, điều kiện làm việc đặc biệt hoặc do sự suy giảm về khả năng lao động, 15
  18. độ tuổi nghỉ hưu sẽ được điều chỉnh áp dụng phù hợp để sự cống hiến của NLĐ được xã hội, Nhà nước ghi nhận một cách thỏa đáng và bù đắp bằng quãng thời gian được nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân và bình yên bên người thân. - Về thời gian tham gia BHXH bắt buộc. Bản chất của bảo hiểm là sự tham gia của cộng đồng, do đó NLĐ với tư cách là một trong các thành viên cần phải có sự đóng góp vào quá trình phát triển của cộng đồng, xã hội. Sự đóng góp này được thể hiện cụ thể qua “thước đo” thời gian tham gia đóng BHXH bắt buộc. Đây là khoảng thời gian được tính từ khi NLĐ bắt đầu đóng BHXH cho đến khi ngừng đóng, trong trường hợp việc có sự gián đoạn về quá trình tham gia BHXH thì thời gian tham gia đóng BHXH bắt buộc được xác định là tổng thời gian đã đóng BHXH. Hoạt động đóng BHXH được thực hiện trong quá trình một người làm việc, do đó đây là điều kiện gắn liền với độ tuổi lao động và chịu sự tác động trực tiếp của tuổi thọ, môi trường làm việc của NLĐ. Thông qua điều kiện về thời gian tham gia BHXH bắt buộc, người về hưu có thể xác định được các hình thức trợ cấp của chế độ hưu trí bắt buộc mà mình được hưởng để bảo vệ lợi ích chính đáng theo pháp luật và quyền được bảo đảm về ASXH nói chung. Thứ ba, thời gian được hưởng chế độ hưu trí. Đây là khoảng thời gian vô định, được xác định thời điểm bắt đầu là kể từ khi NLĐ được hưởng lương hưu nhưng không thể nói trước được thời điểm kết thúc, bởi lẽ lương hưu sẽ được chi trả hàng tháng cho NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, quyền lợi này được kéo dài trong suốt quãng thời gian từ khi họ bắt đầu về hưu cho đến khi chết. Như vậy, đây là khoảng thời gian mang tính tương đối liên tục và phụ thuộc vào tuổi thọ của người thụ hưởng. Bên cạnh đó, thời gian hưởng lương hưu của NLĐ cũng góp phần thể hiện tuổi thọ trung bình của dân số ở một quốc gia, đây là cơ sở để giúp cơ quan quản lý nhà nước tính toán các khoản chi trả trợ cấp hưu trí bắt buộc, cân đối thu chi của hoạt động quản lý quỹ hưu trí, tạo ra sự phát triển ổn định trong hệ thống ASXH của nước ta. Thứ tư, mức hưởng chế độ hưu trí bắt buộc. Mức hưởng là vấn đề thu hút đa số sự quan tâm của mọi người tham gia BHHT bắt buộc, bởi lẽ đây chính là mục tiêu mà NLĐ mong muốn đạt được khi hết 16
  19. tuổi lao động hoặc không còn tham gia vào quan hệ lao động. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào độ tuổi và thời gian tham gia BHXH mà NLĐ khi nghỉ hưu sẽ được nhận các mức hưởng khác nhau, ngoài khoản tiền lương hưu hàng tháng họ còn có thể được nhận thêm khoản trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, ngược lại nếu như không đủ điều kiện được hưởng lương hưu, NLĐ sẽ được nhận mức BHXH một lần tương ứng từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, mức hưởng trong chế độ hưu trí bắt buộc không chỉ dừng lại ở các khoản tiền hưu trí mà còn được thể hiện ở các chính sách khác như: hỗ trợ tham gia BHYT, chế độ tử tuất khi người hưởng hưu trí chết. Như vậy, mức hưởng của chế độ hưu trí đã phần nào phản ánh sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng đối với NLĐ khi về hưu để họ có thể có được một cuộc sống đầy đủ, an bình trong tháng ngày còn lại. 1.2. Quy định chế độ hưu trí theo quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Đối tượng tham gia Sự hỗ trợ từ chế độ hưu trí bắt buộc dành cho NLĐ khi nghỉ hưu chính là kết quả của quá trình đóng góp vào BHXH bắt buộc của các chủ thể theo quy định tại Điều 2 Luật BHXH, trong đó NLĐ và Người sử dụng lao động ( sau đây viết tắc là NSDLĐ) là hai đối tượng chính bắt buộc phải tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Thứ nhất, NLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: - Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; - Người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; - Cán bộ, công nhân, viên chức; - Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong các tổ chức cơ yếu; - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2