intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

162
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung về một số vấn đề lý luận về hợp đồng ủy quyền; Công chứng hợp đồng ủy quyền từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh; Kiến nghị hoàn thiện pháp luật công chứng hợp đồng ủy quyền và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MINH TÂM CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MINH TÂM CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành : Luật kinh tế Mã số : 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ HÀ NỘI, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, những giao dịch dân sự, thương mại diễn ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải lúc nào những chủ thể cũng có thể trực tiếp tham gia mà việc thực hiện các giao dịch này sẽ thông qua đại diện theo ủy quyền. Hợp đồng uỷ quyền được coi là căn cứ pháp lý cho việc thực hiện các giao dịch do người đại diện theo ủy quyền thực hiện nhân danh người ủy quyền. Pháp luật quy định về các văn bản ủy quyền chính là công cụ thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự. Theo báo cáo tổng kết của công tác công chứng, chứng thực tại Uỷ ban nhân dân và các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước, nhất là ở những tỉnh, thành phố lớn cho thấy, việc công chứng, chứng thực văn bản uỷ quyền ngày càng tăng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc soạn thảo, công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền cũng như việc thực hiện văn bản uỷ quyền đã phát sinh một số vấn đề bất cập như căn cứ uỷ quyền, hình thức uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền,... Đây là những nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp hợp đồng ủy quyền, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như việc giải quyết tranh chấp. Để góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về các văn bản ủy quyền và khắc phục những bất cập trong hoạt động công chứng các văn bản ủy quyền thì việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động công chứng các văn bản ủy quyền là rất quan trọng. Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến công chứng văn bản ủy quyền. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, những quy định của pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền cũng như thực tiễn áp dụng là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa không chỉ trong nghiên cứu mà cả thực tiễn áp dụng nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Công chứng hợp đồng ủy quyền theo
  4. pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu những quy định của pháp luật về những hợp đồng dân sự thông dụng. Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Lan Hương bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Luật Dân sự với đề tài: “Hợp đồng uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam”. Ngoài ra, quy định về công chứng văn bản ủy quyền còn được đề cập trong một số bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước Pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Toà án nhân dân, ... Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ đề cập một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một số những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các văn bản uỷ quyền. Trong thời gian trước đây, cũng có một số tác giả nghiên cứu về các vấn đề khác nhưng có liên quan đến hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam như: Luận văn thạc sĩ: “Quan hệ đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thương mại”, của Đinh Thị Thanh Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Luận văn thạc sĩ: :“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của Nguyễn Thị Lan Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008; Luận văn thạc sĩ:“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của Nguyễn Thị Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017; Ngoài ra, có khá nhiều bài viết đề cập đến hợp đồng ủy quyền được đăng trên các Báo, Tạp chí pháp luật như bài viết: “Đại diện theo uỷ quyền – Từ pháp luật nội dung đến Tố tụng dân sự” của ThS. Nguyễn Minh Hằng, Giảng viên Học viện Tư pháp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2005, “Trao đổi một số vấn đề về văn bản ủy quyền” của Nguyễn Văn Phi, đăng trên Trang web Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ năm 2018, “Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự” của Trương Vũ Linh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử năm 2021, “Rủi ro cao khi vay tài sản bằng hình thức ký hợp đồng ủy quyền” của Hoài Trọng đăng trên Trang web Sở Tư pháp Bình Thuận năm 2021,... Tất cả các
  5. công trình nghiên cứu cũng như các bài viết nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau của hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ đề cập một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một số những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hợp đồng uỷ quyền. Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành Luật kinh tế thì đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về “Công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền và kiến nghị giải pháp thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Để hoàn thành mục tiêu nêu trên luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hóa cơ sở khoa học, thực tiễn về hợp đồng ủy quyền. - Đánh giá tình hình thực hiện công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện thực hiện công chứng hợp đồng ủy quyền. - Phân tích, chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của việc công chứng hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; - Kiến nghị định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công chứng hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Ủy quyền là một trong những giao dịch dân sự thông dụng, được hình thành rất sớm có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như Dân sự, Hành chính, Tố tụng, Kinh tế, ... Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật kinh tế, tác giả không đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, trọn vẹn những quy định của pháp luật Việt Nam về uỷ quyền. Đề tài, chủ yếu tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về các văn bản uỷ quyền trong lĩnh vực dân sự, đồng thời đề
  6. xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn của CCV, người có trách nhiệm công chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền trong trong hoạt động công chứng, chứng thực thường gặp. Mặt khác, qua việc nghiên cứu tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức thực hiện hợp đồng uỷ quyền. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: năm 2020 - Về nội dung: + Dựa trên chế định pháp lý về hợp đồng ủy quyền trong BLDS 2015 như quy định về quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền, người được ủy quyền, quy định về chấm dứt hợp đồng ủy quyền, cơ chế ủy quyền lại, kết hợp với các quy định pháp luật về công chứng, chứng thực hợp đồng, và có liên hệ với chế định đại diện, đề tài nghiên cứu thực tiễn chủ yếu trong hoạt động công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền. + Quy trình thực hiện việc công chứng hợp đồng ủy quyền tại các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. + Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lenin về nhà nước, pháp luật và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về công chứng hợp đồng ủy quyền. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích kết hợp với bình luận được sử dụng để làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về công chứng hợp đồng ủy quyền; Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát hóa thực trạng áp dụng pháp luật về công chứng hợp đồng ủy quyền, qua đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật; Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm vận dụng nhuần nhuyễn giữa kiến thức quy định của pháp luật và thực
  7. tiễn áp dụng pháp luật để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu về công chứng hợp đồng ủy quyền. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về các văn bản uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam. Luận văn phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng tại các tổ chức hành nghề công chứng mà cụ thể là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về văn bản ủy quyền. Những đóng góp của luận văn có giá trị không chỉ giúp cho hoạt động công chứng, chứng thực văn bản ủy quyền mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị, đề xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng ủy quyền Chương 2: Công chứng hợp đồng ủy quyền từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật công chứng hợp đồng ủy quyền và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh.
  8. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 1.1. Khái quát về đại diện theo ủy quyền 1.1.1. Một số cách thức ủy quyền 1.1.1.1. Ủy quyền trong tố tụng dân sự Để giải quyết một vụ án dân sự cần có sự tham gia của các đương sự với tư cách tham gia tố tụng khác nhau. Đương sự hoặc người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính người đó nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự, cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Trong thực tiễn có những vụ án dân sự do chính đương sự tham gia hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, không phải bất kỳ vụ án dân sự nào, người tham gia tố tụng cũng có quyền ủy quyền cho người khác. Chẳng hạn như đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích là người đại diện (Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Theo Điều 85 của BLTTDS 2015 thì người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS. Ngoài ra, trong khoản 4 tại điều này có quy định người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Nhận thấy rằng người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Căn cứ phát sinh đại diện theo ủy quyền là dựa trên sự ủy quyền của đương sự. Khác với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định thì đương sự được đại diện là người có năng lực
  9. hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong tố tụng dân sự [7]. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình không trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy quyền cho luật sư hoặc người khác tham gia tố tụng thì người được ủy quyền cũng là người đại diện theo pháp luật, trường hợp này cũng đã phát sinh đại diện theo ủy quyền. Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện. Do đó, cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó, giới hạn này cũng là phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền được xác định trong chính văn bản ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được phép thực hiện hành vi pháp lý trong khuôn khổ văn bản ủy quyền theo quy định. Việc xác lập văn bản ủy quyền và giải quyết các tranh chấp phát sinh phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền. Đại diện theo ủy quyền có hai trường hợp mà không được làm người đại diện quy định tại Khoản 2 Điều 87 của BLTTDS 2015. Bên cạnh đó, trong đại diện theo ủy quyền, pháp luật tố tụng dân sự còn quy định “cán bộ, công chức trong các ngành tòa án, kiểm sát, công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp. Việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và hậu quả của việc chấm dứt được quy định tại Điều 89 BLTTDS 2015, và cũng làm chấm dứt đại diện ủy quyền trong các trường hợp khoản 3 Điều 140 của BLDS 2015 như sau: Điều 140: Thời hạn đại diện: 3.Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây: a) Theo thỏa thuận; b) Thời hạn ủy quyền đã hết; c) Công việc được ủy quyền đã hoàn thành; d) Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
  10. đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại; e) Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này; g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được. 1.1.1.2. Ủy quyền trong tố tụng hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có quy định nào đề cập đến vấn đề ủy quyền mà trong các điều luật quy định về người bị hại (Điều 62), nguyên đơn dân sự (Điều 63), bị đơn dân sự (Điều 64), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 65) có đề cập đến người đại diện hợp pháp của họ. Người đại diện hợp pháp có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền. Như vậy, những người tham gia tố tụng bao gồm: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong vụ án hình sự có quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình bằng cách có thể ủy quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua người đại diện nếu họ không muốn hoặc không có điều kiện tham gia tố tụng. Còn đối với những đương sự khác trong tố tụng hình sự như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng được coi là bắt buộc phải tự mình tham gia trực tiếp vào các hoạt động tố tụng, không được ủy quyền cho người khác [8]. 1.1.1.3. Ủy quyền trong tố tụng hành chính Về người đại diện trong tố tụng hành chính, kể từ ngày 01/7/2016 (ngày Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực) thì việc cử người đại diện trong tố tụng hành chính trước Tòa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Luật Tố tụng hành chính quy định các đương sự tham gia tố tụng hành chính có quyền ủy quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho mình (Khoản 11 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính 2015). Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản (Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015), trừ những trường hợp Luật quy định không được làm người đại
  11. diện. Theo quy định hiện hành, người được ủy quyền thực hiện toàn bộ các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Đồng thời, người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ 3 (Khoản 5, Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015). Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính quy định người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này. Mục đích của quy định này theo lý giải của các nhà lập pháp là để bên bị kiện đánh giá chính xác, đầy đủ về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, từ đó quyết định việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc quyết định đối thoại để giải quyết vụ án với người khởi kiện. Nếu ủy quyền cho cán bộ chuyên môn tham gia tố tụng thì họ không có thẩm quyền quyết định những vấn đề trên. Nhìn từ góc độ này thấy quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 là rất tích cực, thể hiện sự tiến bộ của hoạt động lập pháp. Có như vậy mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc tranh tụng quy định tại Điều 18 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính do mình ban hành hoặc thực hiện, hướng đến xây dựng một nền hành chính “phục vụ nhân dân”. Như vậy, trong tất cả các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự, hành chính, hay trong những vụ việc khiếu nại, tố cáo, đương sự đều có thể ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong khiếu nại, tố cáo thay cho
  12. mình (Riêng trong vụ án hình sự thì bên ủy quyền chỉ giới hạn trong một số đương sự). 1.1.2. Hợp đồng ủy quyền trong các giao dịch dân sự Đại diện ngoài tố tụng là đại diện để xác lập thực hiện giao dịch ngoài phạm vi tố tụng do Tòa án tiến hành. Hay nói cách khác đó chính là việc đại diện của một chủ thể nhân danh và vì lợi ích của chủ thể khác theo quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, thương mại, lao động. Có hai hình thức đại diện gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đại diện cho pháp nhân, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, cha mẹ đối với con chưa thành viên, người giám hộ với người được giám hộ là những trường hợp đại diện theo pháp luật còn đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập bằng hợp đồng ủy quyền theo quy định của BLDS và một số luật chuyên ngành (Luật Thương mại, Luật lao động, Luật công chứng,…). Thông thường, khi tham gia vào các quan hệ dân sự thì chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Nhưng có nhiều trường hợp vì những lý do khách quan bất khả kháng hoặc những lý do chủ quan như: đau ốm, đi nước ngoài,… mà chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự không có mặt để có thể tự mình xác lập và thực hiện giao dịch đó. Do đó, để hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong giao dịch dân sự, pháp luật dân sự cho phép chủ thể này ủy quyền cho chủ thể khác thay mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, đó chính là đại diện theo ủy quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 thì “đại diện” được hiểu là việc người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLDS 2015 thì “đại diện theo ủy quyền” phải là việc chính chủ thể có quyền tự mình trao quyền cho chủ thể khác (đủ năng lực thực hiện) để thay mình tham gia vào các giao dịch dân sự. Như vậy thì đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại
  13. diện) tiến hành xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên được đại diện “trao quyền” hợp pháp. 1.2. Khái quát chung về hợp đồng ủy quyền 1.2.1. Khái niệm hợp đồng uỷ quyền Trong cuộc sống hằng ngày, không phải bất kỳ lúc nào cá nhân hoặc tổ chức có thể và buộc phải trực tiếp thực hiện công việc cũng như các quyền và nghĩa vụ của chính mình. Để hoàn tất một công việc nào đó, cá nhân hoặc tổ chức có thể nhờ hay giao lại cho người khác làm thay với danh nghĩa của chính mình. Đây chính là việc ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền là việc một người giao cho người khác nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó, văn bản ủy quyền được hiểu là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh mình thực hiện công việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp. Việc ủy quyền làm phát sinh quan hệ đại diện, theo đó, người được ủy quyền (người đại diện) nhân danh vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phạm vi đại diện được giao (Điều 134 và Điều 138 BLDS 2015), trường hợp pháp luật có quy định công việc đó không được ủy quyền, phải do chính người có quyền thực hiện. Do đó, về mặt nguyên tắc khi đã ủy quyền thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền. Kế thừa quy định của BLDS năm 1995, Điều 581 BLDS năm 2005 và và Điều 562 BLDS năm 2015 cũng đưa ra định nghĩa về hợp đồng ủy quyền, theo đó: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” 1.2.2. Hình thức của giao dịch ủy quyền được công chứng Xét về mặt hình thức, trước đây BLDS 2005 cho phép khi xác lập quan hệ ủy quyền, các bên được thỏa thuận và tự quyết định sử dụng hình thức lời nói hoặc bằng văn bản (có hay không có công chứng, chứng thực), nếu pháp luật không quy định việc ủy quyền phải thành văn bản . Ví dụ: Khi nhờ thực hiện các việc đơn giản
  14. trong sinh hoạt hàng ngày thì các bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau và người nhận giúp đồng ý thực hiện. Đối với các công việc có tính quan trọng, cần đến sự bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho giao dịch (như nhờ quản lý nhà đất, nhờ người khác bán nhà, lĩnh tiền ngân hàng) thì ủy quyền thường được lập bằng văn bản và thậm chí còn phải được công chứng, chứng thực. Tuy nhên, BLDS 2015 không còn quy định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận như trước đây, mà gián tiếp quy định về việc ủy quyền phải lập bằng văn bản khi quy định: “ Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền” tại Khoản 1 Điều 140. Đồng thời, xuất phát từ quy định tại Khoản 1 Điều 2 LCC 2014, CCV chỉ có thể chứng nhận việc ủy quyền nếu được lập thành văn bản. Xét về mặt bản chất, văn bản ủy quyền luôn là một mối quan hệ hợp đồng, được hình thành trên những nguyên tắc của quá trình giao kết hợp đồng dân sự. Nói cách khác, để phát sinh quan hệ ủy quyền và được công chứng thì các bên trong quan hệ này (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) phải có thỏa thuận và thống nhất ý chí với nhau về tất cả nội dung của ủy quyền. Ý chí đơn phương của một bên không thể làm phát sinh quan hệ ủy quyền, để từ đó, ràng buộc quyền và nghĩa vụ của bên kia phải thực hiện công việc. Do đó, ủy quyền phải là quan hệ hợp đồng và chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương. Chính vì vậy, khi đề cập đến ủy quyền dưới hình thức văn bản, BLDS đã đề cập đến ủy quyền được lập thành hợp đồng ủy quyền. Xuất phát từ tính thông dụng của ủy quyền trong đời sống. BLDS 2015 đã dành một mục (Mục 13) của chương XVI, bao gồm 8 điều luật, từ điều 562 đến Điều 569 được quy định về hợp đồng ủy quyền. Theo đó, “Hợp đồng ủy quyền là sự thảo thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tương đồng, với quy định về hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng hợp đồng của BLDS, LCC 2014 cũng đã quy định việc công chứng đối với “Hợp đồng ủy quyền” tại Điều 55. Tuy nhiên, bên cạnh hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Hợp đồng ủy quyền”, thì trong thực tiễn cuộc sống, hình thức ủy quyền bằng văn băn khác,
  15. dưới dạng “Giấy ủy quyền” cũng được sử dụng khá phổ biến. Mặc dù thuật ngữ “Giấy ủy quyền” không được đề cập trong BLDS, nhưng đã được pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến thông qua việc đề cập về một hình thức khác của văn bản ủy quyền (với tên gọi không phải là “Hợp đồng ủy quyền” ). Trong lĩnh vực công chứng, việc công chứng hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” không phải là vấn đề mới. Trước đây, việc chứng nhận “Giấy ủy quyền” được quy định tại Điều 48 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về Công chứng, chứng thực: “1. Việc uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng. 2. Việc uỷ quyền không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì không phải lập thành Hợp đồng uỷ quyền mà có thể được lập thành Giấy uỷ quyền và chỉ cần người uỷ quyền ký vào Giấy uỷ quyền”. Sau này, nội dung chứng nhận đối với loại “Giấy ủy quyền” được gián tiếp đề cập đến khi Khoản 1 Điều 18 Nghị định 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LCC 2006 quy định: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng ủy quyền”. Mặc dù hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” được trực tiếp hay gián tiếp đề cập, nhưng hiện nay chưa có bất kỳ quy định nào xác định nội hàm hay bản chất pháp lý của loại văn bản này để phân biệt với loại văn bản ủy quyền dưới dạng: “Hợp đồng ủy quyền”. Theo cách quy định của các điều luật có liên quan, có thể thấy rằng pháp luật phân biệt hai dạng của văn bản ủy quyền ở yếu tố: Đối với “Giấy ủy quyền” thì chỉ cần người ủy quyền ký vào giấy (văn bản) là đủ không buộc hai bên phải cùng ký vào văn bản. Nói cách khác, nếu cả hai bên (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) cùng ký vào văn bản ủy quyền thì được xác định là “Hợp đồng ủy quyền, nếu chỉ có bên ủy quyền ký vào văn bản thì được xác định là “Giấy ủy quyền”.
  16. Chính vì vậy, đã có sự nhầm lẫn khi cho rằng “Giấy ủy quyền” là một dạng của hành vi pháp lý đơn phương, không cần phải có sự thỏa thuận của các bên. Thực chất, như đã nêu, ủy quyền chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương (đến nay, chưa có bất kỳ quy định nào xác định “giấy ủy quyền” thuộc về dạng hành vi pháp lý đơn phương. Quan hệ ủy quyền chỉ được xác lập khi có sự thống nhất ý chí của bên ủy quyền và bên được ủy quyền, thiếu đi ý chí một bên thì quan hệ ủy quyền vẫn chưa được xác lập và nội dung ủy quyền không có giá trị pháp lý rằng buộc trách nhiệm các bên phải thực thi. Ví dụ: Ông A ủy quyền cho ông B đi lĩnh tiền lương hưu thay cho mình và được lập dưới hình thức “Giấy ủy quyền”, đã được công chứng. Cho dù giấy này thể hiện đầy đủ các nội dung thông tin về bên được ủy quyền, về công việc ủy quyền, thậm chỉ bên ủy quyền tự trình bày và cam kết việc ủy quyền đã được trao đổi và thống nhất trước bên được ủy quyền thì cho dù văn bản ủy quyền này đã được công chứng nhưng vẫn chưa đủ để phát sinh hiệu lực pháp lý ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với bên được ủy quyền phải thực hiện. Bên ủy quyền không thể khởi kiện buộc bên thực hiện công việc, bồi thường thiệt hại (nếu có) khi bên được ủy quyền không thực hiện công việc (do việc ủy quyền chưa có cơ sở thiện có sự đồng thuận của bên được ủy quyền). Thông thường, sự đồng ý của người ủy quyền được thể hiện ra bên ngoài bằng chính hành vi tự nguyện thực hiện những công việc được ủy quyền của họ. Trong thực tế, văn bản ủy quyền dưới dạng: “Giấy ủy quyền” chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm bên được ủy quyền bắt đầu thực hiện công việc ủy quyền. Như vậy, có thể thấy rằng, cho dù tên gọi “Hợp đồng ủy quyền” hay “Giấy ủy quyền” thì bản chất, chúng đề thuộc về chế định hợp đồng dân sự (không phải là hành vi pháp lý đơn phương). Đến nay, các quy định trên về công chứng đối với hình thức “Giấy ủy quyền” trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và Nghị định số 04/2013/NĐ-CP đã hết hiệu lực, đồng thời, LCC 2014 lại không đề cập đến hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền”. Tuy nhiên, vấn đề về “Giấy ủy quyền” lại được pháp luật về chứng thực đề cập đến, nhưng dưới hình thức chứng thực chữ ký bên ủy
  17. quyền (mà không phải chứng thực dưới hình thức hợp đồng, giao dịch). Nhưng cho dù tên gọi của loại văn bản ủy quyền là gì đi chăng nữa, chúng đều là quan hệ hợp đồng, do đó, khi CCV chứng nhận vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng nói chung và về dạng hợp đồng ủy quyền nói riêng để thực hiện công chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho các bên tham gia giao dịch, cơ quan chức năng nên hướng dẫn các bên lập hợp đồng ủy quyền để đảm bảo chặt chẽ, tránh rủi ro pháp lý về sau. 1.3. Giao kết hợp đồng ủy quyền 1.3.1. Hình thức của hợp đồng ủy quyền Hình thức là yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng nói chung, có mối quan hệ với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng, đó là “Sự an toàn về mặt pháp lý trong quan hệ hợp đồng cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những trường hợp hợp đồng giao kết phải tuân theo những hình thức pháp luật quy định, nếu không các bên tham gia giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi” [12, tr.23, tr 38] BLDS năm 1995 quy định hình thức hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải lập thành văn bản, trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định thì hợp đồng ủy quyền phải công chứng, chứng thực. Đây là một quy định cứng, bắt buộc các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền đều phải lập thành văn bản dù cho công việc được ủy quyền có đơn giản hay phức tạp. Điều này dẫn đến một bất cập trên thực tế đó là: Theo quy định tại BLDS năm 1995 thì với những hợp đồng ủy quyền không được lập thành văn bản sẽ bị coi là vô hiệu vì không tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng. Khắc phục bất cập của quy định trên, BLDS năm 2005 không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng ủy quyền. Thay vào đó, hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định tại Điều 401 về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Đến BLDS 2015 vẫn giữ nguyên hình thức của hợp đồng uỷ quyền cụ thể như sau:
  18. Điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” Điều 119 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Điều 562, BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” Hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định chung về hình thức của hợp đồng dân sự. Hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng hình thức như lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định; trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy về hình thức. Tương ứng với từng loại việc thì hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng dưới hình thức khác nhau. Việc xác định hình thức của hợp đồng ủy quyền căn cứ vào quy định của pháp luật, công việc ủy quyền và những giao dịch mà người được ủy quyền xác lập với người thứ ba. Theo quy định hiện hành, việc ủy quyền có thể bằng lời nói, có thể bằng văn bản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, việc ủy quyền này phải được lập thành văn bản thì mới có giá trị. Hiện nay, các trường hợp ủy quyền phải lập thành văn bản nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, cụ thể như sau: 1. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân (Khoản 1 Điều 101 BLDS 2015).
  19. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết. Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện. 2. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Khoản 2, Điều 96 Luật hôn nhân gia đình 2014) Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này. 3. Điều tra vụ tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng (Khoản 1 Điều 35 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015) Người sử dụng lao động có trách nhiệm thành lập Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở để tiến hành điều tra tai nạn lao động làm bị thương nhẹ, tai nạn lao động làm bị thương nặng một người lao động thuộc thẩm quyền quản lý của mình, trừ trường hợp đã được điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này hoặc
  20. tai nạn lao động được cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Thành phần Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở gồm có người sử dụng lao động hoặc người đại diện được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản làm Trưởng đoàn và các thành viên là đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc đại diện tập thể người lao động khi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, người làm công tác an toàn lao động, người làm công tác y tế và một số thành viên khác. 4. Người được người sử dụng lao động ủy quyền quản lý lao động yêu cầu người lao động thực hiện công việc theo yêu cầu ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc và người lao động này bị tai nạn lao động thì người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động (Khoản 1 Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015). 5. Cá nhân uỷ quyền cho người khác làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 (Khoản 3 Điều 45 Luật Lý lịch tư pháp 2009) Trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì không cần văn bản ủy quyền. 6. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ và người được ủy quyền có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ (Khoản 1 Điều 77 Luật phá sản 2014) 7. Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nếu không tham gia Hội nghị chủ nợ thì ủy quyền cho người khác tham gia. (Khoản 1 Điều 78 Luật phá sản 2014) 8. Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, yêu cầu đăng ký các việc hộ tịch theo quy định uỷ quyền cho người khác thực hiện thay, trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con (Khoản 2 Điều 6 Luật hộ tịch 2014 và Điều 2 Thông tư 15/2015/TT-BTP) (Lưu ý: Văn bản ủy quyền phải được công chứng, chứng thực; phạm vi uỷ quyền có thể gồm toàn bộ công việc theo trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận kết quả đăng ký hộ tịch).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2