Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 10
download
Luận văn trình bày các nội dung về những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thuế TNCN và thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí Minh; Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và tăng cường quản lý thuế TNCN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ THỊ TỐ NGA PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- LÊ THỊ TỐ NGA PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ THƯƠNG HUYỀN Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại mang tính tất yếu khách quan, là điều kiện vật chất quan trọng để nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo lập cơ sở pháp lí ổn định vững chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, đòi hỏi nhà nước cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ. Ở Việt Nam, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế-xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế-xã hội. Trong hệ thống thuế ở các nước, thuế thu nhập là một loại thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong số các loại thuế thu nhập, thuế TNCN là một sắc thuế trực thu ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và đang áp dụng rộng rãi trên các quốc gia trên thế giới. Đến nay, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được hơn 180 nước trên thế giới áp dụng, không chỉ xác định nghĩa vụ của mỗi công dân với quốc gia, mà còn thể hiện định hướng chính sách, mục tiêu phát triển của quốc gia đó. Tại Việt Nam, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Từ pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được ban hành vào tháng 12 năm 1990, được sửa đổi bổ sung 6 lần đến Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 năm 2007, được sửa đổi bổ sung lần lượt vào các vào năm 2012 và 2014 đã cho thấy nhà nước ta luôn chú trọng công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thuế thu nhập cá nhân với mục đích đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân coi trong xã hội qua từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên trong quá trình đi vào thực thi, pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TNCN gặp không ít vướng mắc nảy sinh, cần phải có các giải pháp thường xuyên và kịp thời. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống pháp luật thuế TNCN hiệu quả, công bằng, minh bạch và hiệu lực điều chỉnh cao trên thực tế. 1
- Tân Bình là một quận nội thành thuộc thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều thuận lợi về địa lý kinh tế, giao thông đường bộ đường hàng không, du lịch và các hoạt động thương mại dịch vụ. Do vậy, đây là một trong những quận có nền kinh tế mạnh và tích cực, có nhiều xu hướng phát triển cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân với nòng cốt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với lực lượng sản xuất đông. Thời gian qua, cơ quan thuế tại quận Tân Bình đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng. Tuy nhiên, quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN, mà đặc biệt là thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại nhóm các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan về thực trạng pháp luật thuế TNCN nói chung và tình hình thực thi pháp luật thuế TNCN đặc biệt là thuế TNCN từ tiền lương tiền công tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình nói riêng, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN, tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thuế TNCN của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực tiễn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng trong thời gian qua ở Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết tìm hiểu về pháp luật thuế thu nhập cá nhân . Có thể kể đến như sau: - “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế TNCN ở Việt Nam”, luận án tiến sĩ kinh tế, đại học kinh tế quốc dân của tác giả Nguyễn Hoàng, năm 2013. Luận án tập trung phân tích hoạt động quản lý thuế TNCN được thực hiện ở tất cả ba cấp độ: cấp cán bộ thuế, cấp cơ quan thuế và trong cả bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế TNCN. - “Pháp luật thuế TNCN từ thực tiễn thành phố Cần Thơ”, luận án tiến sĩ của Huỳnh Văn Diện, năm 2016. Tác giả đã tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về thuế TNCN, pháp luật thuế TNCN hiện hành và thực tiễn thực thi pháp luật thuế TNCN và quản lý thuế TNCN trên địa bàn TP.Cần Thơ. - “Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mai Dung, năm 2018. Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu tổng quát các lý thuyết về quản lý thuế TNCN, những quy định của 2
- pháp luật về quản lý thuế TNCN của Việt Nam đặt trong mối tương quan so sánh với qui định pháp luật này của một số quốc gia trên thế giới cùng tình hình thực hiện pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam. Luận án đồng thời nghiên cứu một số lĩnh vực pháp luật khác mà ở đó cá nhân có nguồn thu thuộc đối tượng chịu thuế TNCN như pháp luật về chuyển nhượng bất động sản, pháp luật về chuyển nhượng chứng khoán… nhưng trọng tâm là đi sâu vào nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế TNCN. - “Hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân của đối tượng không cư trú ở Việt Nam tại Hà Nội”, luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế của Nguyễn Thị Thu Thủy, Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết về thuế TNCN và công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân không cư trú trên địa bàn Thành phố Hà Nội; phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú trên địa bàn Thành phố Hà Nội; đồng thời đề xuất một số định hướng, giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập tại Việt Nam nhưng không cư trú tại Việt Nam. - Đề tài nghiên cứu của tác giả Trương Thi Như Ngọc tại Đại học Kinh tế Huế năm 2017 với tiêu đề “Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Cục Thuế tỉnh Quảng Bình”. Đề tài phân tích tình trạng quản lý thuế TNCN tại Cục Thuế tỉnh Quảng Bình, bên cạnh những kết quả đạt được còn có những hạn chế tồn tại. Công tác quản lý thu thuế TNCN còn gặp nhiều khó khăn do sự thay đổi liên tục của văn bản pháp luật, chưa có phương pháp hữu hiệu để quản lý các khoản thu nhập, kiểm soát giảm trừ gia cảnh, công tác kiểm tra kiểm soát khấu trừ tại nguồn chưa chặt chẽ. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với các doanh nghiệp do Cục Thuế tỉnh Quảng Bình quản lý. - “Cải cách thuế theo hướng nâng cao hiệu lưc, hiệu quả công tác quản lý”, web Tạp chí Thuế online, đăng ngày 28 tháng 1 năm 2013. Tác giả đã tóm tắt lược các hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách thuế năm 2012 và 2013: tham mưu cấp thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và các Luật thuế cùng các văn bản hướng dẫn, ban hành Tuyên ngôn ngành thuế Việt Nam; - Bài viết “Cải cách hệ thống thuế Việt Nam theo cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020” của 3 tác giả gồm: PGS.TS Sử Đình Thành, Bùi Thanh Trung, Trần Trung Kiên (Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh) đăng trên Tạp chí Phát triển 3
- kinh tế số 3 năm 2015. Bài viết phân tích về thực trạng quản lý thuế, một số kết quả đạt được trong quản lý thuế giai đoạn 2010-2015 và nêu ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đến năm 2020. - “Pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân ở việt nam thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Huyền, Đại học kinh tế luât - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết về hoạt động quản lý thuế TNCN nói chung và pháp luật về quản lý thuế TNCN nói riêng. Làm sáng tỏ thực trạng pháp luật quản lý thuế TNCN của nước ta từ khi luật thuế TNCN có hiệu lực cho đến nay. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế TNCN và góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế TNCN ở nước ta trong thời kỳ hội nhập. Trên cơ sở kế thừa những đóng góp của các công trình nghiên cứu trước về pháp luật thuế TNCN, luận văn tiếp tục giải quyết những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN ở thời điểm hiện tại, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và những kiến nghị góp phần đảm bảo thực hiện pháp luật thuế TNCN tại Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thuế Thu nhập cá nhân và pháp luật thuế TNCN. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thuế TNCN tại doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP. HCM và công tác quản lý thuế Thu nhập cá nhân tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Chi cục thuế quận Tân Bình, TP. HCM. Từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định về pháp luật thuế TNCN, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thuế Thu nhập cá nhân trên địa bàn quận Tân Bình – TP Hồ Chí Minh và công tác quản lý thuế Thu nhập cá nhân tại Chi cục thuế quận Tân Bình, TP. HCM. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt mục đích trên, đề tài sẽ tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Thứ nhất, hệ thống hóa và nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thuế TNCN và hoàn thiện pháp luật về thuế TNCN. - Thứ hai, nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam. 4
- - Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. - Thứ tư, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế TNCN tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các quan điểm khoa học, các số liệu thực tiễn có liên quan đến điều chỉnh pháp luật đối với thuế TNCN và quan hệ quản lý thuế TNCN; các quy định về thuế TNCN và quản lý thuế TNCN; thực tiễn thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn giới hạn nghiên cứu pháp luật thuế TNCN từ thực tiễn thực thi pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.HCM, cụ thể: + Về nội dung: (i) luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về việc xác định nghĩa vụ thuế TNCN từ tiền lương, tiền công và thực trạng thực thi các quy định này trên thực tế tại các doanh nghiệp; (ii) tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp hay nói cách khác việc thực hiện quản lý thuế TNCN của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp. + Về không gian: nội dung nghiên cứu của luận văn gắn với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.HCM và Chi cục Thuế quận Tân Bình. + Về thời gian: các số liệu được sử dụng để phân tích, luận giải cho các nhận định, đánh giá trong luận văn được lấy từ năm 2017 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: biện chứng duy vật và duy vật lịch sử về nhà nước và pháp luật. - Phương pháp nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài cũng như đối tượng phạm vi nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 5
- - Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, luận giải: được sử dụng chủ yếu ở chương 1 để hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về thuế TNCN và pháp luật thuế TNCN; - Phương pháp phân tích và xử lý số liệu, thống kê, so sánh, đối chiếu: được sử dụng chủ yếu ở chương 2, để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Tân Bình, TP. HCM và công tác quản lý thuế TNCN đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chi cục Thuế Quận Tân Bình, TP. HCM. - Phương pháp phân tích, luận giải và tổng hợp: sử dụng ở chương 3 nhằm đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế TNCN với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục Thuế Quận Tân Bình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa khoa học: Luận văn nghiên cứu, phân tích, trình bày một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN hiện hành tại Việt Nam. Luận văn chỉ rõ các nội dung tác động của Thuế TNCN đến người lao động và đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại quận Tân Bình. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển lý luận về hoàn thiện pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế TNCN nói riêng. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng các nhân tố ảnh hưởng vấn đề thực thi pháp luật thuế TNCN tại quận Tân Bình trong giai đoạn 2017-2019 và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đó. Từ đó, luận văn hệ thống hoá và đưa ra những giải pháp hoàn thiện chính sách thuế TNCN trong thời gian tới. Luận văn còn góp phần cho việc hoạch định chính sách, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN và trong các cơ quan quản lý thuế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 03 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật thuế TNCN và thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật thuế TNCN tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí Minh. 6
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và tăng cường quản lý thuế TNCN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế TNCN 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế TNCN 1.1.1.1. Khái niệm về thuế TNCN Về bản chất, thuế TNCN là sắc thuế trực thu, điều tiết vào thu nhập của các cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm TNCN cũng có thể tiếp cận theo nhiều cách khác nhau. Để hiểu rõ khái niệm thuế TNCN, trước tiên ta tìm hiểu hai khái niệm có tính chất tiền đề là “thu nhập” và “thuế thu nhập”. Theo định nghĩa Haig - Simons, thu nhập của một cá nhân được xem là sự gia tăng về sức mua ròng của cá nhân đó trong một giai đoạn nhất định, ví dụ là một năm. Nói cách khác, đó là “tổng chi cho tiêu dùng” cộng với “sự gia tăng ròng về mức độ giàu có” của một cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định. TNCN khi được định nghĩa theo cách này được gọi là “thu nhập toàn diện” và thường bao quát tất cả các loại hình thu nhập mà một cá nhân được hưởng dưới các hình thức khác nhau, bao gồm thu nhập từ tiền lương, tiền công, kinh doanh, tiền cho thuê, tiền bản quyền, cổ tức, tiền lãi cho vay… Ở một phạm vi hẹp hơn, TNCN có thể được định nghĩa là tổng số tiền mà cá nhân thu được trong một khoảng thời gian nhất định, thường được tính theo năm. Về “thuế”, ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định “thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kì sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ”. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như vậy nhưng chúng ta đều có thể nhận thấy nét chung sau: thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Với cách nhìn nhận khách quan về thuế, có thể thấy bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, loại quan hệ giữa nhà 8
- nước với NNT. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế, chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau. “Thuế thu nhập” là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các cá nhân hoặc các pháp nhân. Tuy nhiên, không phải toàn bộ thu nhập của các thể nhân và pháp nhân đều là đối tượng đánh thuế thu nhập, mà thuế thu nhập điều chỉnh hay thu trên phần thu nhập chịu thuế tức là khoản thu nhập sau khi đã được miễn trừ chi phí hợp lý, hợp lệ. Từ việc giải thích khái niệm về “thu nhập cá nhân” và “thuế” nói trên, định nghĩa “thuế TNCN” như sau: “Thuế TNCN là khoản tiền mà cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật”. 1.1.1.2. Đặc điểm của thuế TNCN Thuế TNCN mang những đặc tính nhất định, có thể kể đến như sau: Thứ nhất, thuế TNCN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế. Không giống các loại thuế gián thu (như thuế tiêu dùng…), khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người mua về khoản thuế mình phải nộp, thuế trực thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân, điều đó chắc chắn có ảnh hưởng mạnh về tâm lý của NNT. Chính vì vậy mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất hay thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. Thứ hai, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài 9
- cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo quy định của pháp luật thuế TNCN. [29] Thứ ba, thuế TNCN có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia, là công cụ điều tiết thu nhập dân cư, đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội, tuy nhiên mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình NNT, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội… Thứ tư, thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế. 1.1.2. Vai trò của thuế TNCN 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế - xã hội Thứ nhất, nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân càng cao thì thuế thu nhập cá nhân ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu ngân sách Nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân có diện đánh thuế rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách lớn. Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội thông qua việc áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần. Thứ tư, ở các nước phát triển thuế thu nhập cá nhân là loại thuế được Chính phủ sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế khác. Thứ năm, thuế thu nhập cá nhân làm cho mỗi người dân có ý thức hơn về nghĩa vụ và quyền của mình đối với Nhà nước. Đồng thời đóng vai trò tích cực trong việc phát hiện các thu nhập bất hợp pháp. 10
- 1.1.2.2. Đối với hệ thống thuế - Thuế TNCN góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác. Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược điểm là có tính lũy thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này. - Thuế TNCN góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường sẽ có nghĩa vụ kê khai và nộp cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế thu nhập cá nhân góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những khoản chi phí mang tính chất tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập kê khai tăng thêm đó. Lúc này, sẽ xảy ra tình huống người lao động sẽ không chấp nhận nộp số thuế TNCN tăng thêm do khoản tiền lương, tiền công bị kê khai khống như vậy. Kết quả, doanh nghiệp nếu muốn đưa các khoản tiền lương, tiền công kê khai khống vào chi phí được trừ thì đồng thời cũng phải kê khai và nộp luôn số thuế TNCN tương ứng tăng thêm cho người lao động. Như vậy, dù muốn hay không, cũng phải thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp đối với một trong hai loại thuế thu nhập này. 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thuế TNCN 1.2.1. Khái niệm pháp luật thuế Thu nhập cá nhân Pháp luật thuế Thu nhập cá nhân là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu nộp thuế TNCN giữa Nhà nước với NNT. Nội dung của pháp luật thuế TNCN bao gồm hai nhóm quy phạm: (i) nhóm quy phạm pháp luật về xác định nghĩa vụ thuế TNCN và (ii) nhóm quy phạm pháp luật về tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế TNCN (quản lý thuế TNCN). Pháp luật thuế TNCN có một số đặc trưng cơ bản như sau: 11
- - Đối tượng tác động của pháp luật thuế TNCN rất rộng, bao gồm chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế và chủ thể khác (tham gia khấu trừ tại nguồn, các tổ chức tín dụng, đại lý thuế, đơn vị được ủy nhiệm thu). Nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đều dùng tiêu chí cư trú và không cư trú của cá nhân NNT để xác định các khoản thu nhập chịu thuế, cách tính thuế và phương thức nộp của họ. Trong thực tế, đối tượng này rất đông về số lượng, đa dạng về tầng lớp, giai cấp với trình độ nhận thức và ý thức pháp luật rất khác nhau. Đặc biệt, trong điều kiện các nước thiết lập mối quan hệ trên nhiều mặt khác nhau của đời sống tạo ra sự luân chuyển thường xuyên về lao động và di dân giữa các nước làm cho tính phức tạp của đối tượng nộp thuế TNCN ngày càng tăng. - Nội dung của pháp luật thuế TNCN có quy định về chế độ giảm trừ gia cảnh. Đây là nhóm quy phạm đặc thù chỉ áp dụng đối với thuế TNCN mà không áp dụng với các loại thuế khác. Việc quy định chế độ này đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập và động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, phù hợp với khả năng chịu thuế của người nộp thuế TNCN. Ngoài ra, việc quy định chế độ giảm trừ gia cảnh này thể hiện rất rõ tính nhân văn của thuế TNCN. - Pháp luật thuế TNCN thể hiện nguyên tắc đánh thuế lũy tiến theo mức độ thu nhập. Đây là đặc trưng đặc thù của thuế TNCN so với các loại thuế khác, ngay cả các loại thuế có cùng bản chất là thuế trực thu như Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không đánh thuế theo nguyên tắc này. Việc quy định nguyên tắc đánh thuế này đã đảm bảo nguyên tắc công bằng và đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế. 1.2.2. Những quy định chủ yếu của pháp luật thuế TNCN 1.2.2.1. Quy định về xác định nghĩa vụ thuế TNCN * Đối tượng nộp thuế TNCN Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân của hầu hết các quốc gia trên thế giới được xác định dựa trên hai nguyên tắc đánh thuế, đó là nguyên tắc đánh thuế theo cư trú (sau đây gọi tắt là nguyên tắc cư trú) và nguyên tắc đánh thuế theo nguồn phát sinh thu nhập ( sau đây gọi tắt là nguyên tắc nguồn). Theo nguyên tắc cư trú, một cá nhân được coi là đối tượng cư trú tại một nước sẽ phải chịu thuế thu nhập cá nhân đối với toàn bộ thu nhập nhận được, không 12
- phân biệt nguồn thu nhập phát sinh là ở trong nước hay nước ngoài. Còn một cá nhân được coi là đối tượng không cư trú thì chỉ phải chịu nghĩa vụ thuế đối với phần thu nhập có nguồn gốc tại nước đó. Đa số các quốc gia quy định đối tượng cư trú là những người có thời gian sinh sống ở nước sở tại trên 182 hoặc trên 183 ngày trong năm tính thuế (có thể là năm dương lịch hoặc năm tài chính) hoặc trong khoảng 12 tháng liên tục. Nếu không thỏa mãn điều kiện trên thì được coi là đối tượng không cư trú. Các nước áp dụng nguyên tắc này bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Philippin, Nga, Mỹ, Thụy Điển,.. Theo tiêu thức nguồn phát sinh thu nhập, một cá nhân phải nộp thuế thu nhập cá nhân ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của cá nhân phát sinh tại nước đó. Nguyên tắc này hầu hết được áp dụng để đánh thuế đối với các khoản thu nhập phát sinh tại nước đó của các đối tượng không cư trú. Cách đánh thuế này cũng phù hợp với những nước có nhiều người nước ngoài đến làm việc, đầu tư và công dân nước đó ít ra nước ngoài làm việc hoặc đầu tư. Chẳng hạn như Hồng Kông quy định mọi cá nhân, không phân biệt cư trú hay không cư trú chỉ phải nộp thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập phát sinh tại Hồng Kông. Tùy thuộc vào chính sách và trình độ quản lý mà mỗi quốc gia quy định khác nhau về đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên quan trọng nhất để xác định đối tượng nộp thuế là sự phân biệt cá nhân cư trú hay không cư trú. * Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân Một cá nhân có thể có nhiều nguồn thu nhập khác nhau tuy nhiên không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế, là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu nhập. Thu nhập chịu thuế có thể hiểu là toàn bộ thu nhập bằng tiền, bằng hiện vật mà người chịu thuế đã thực hiện được trong một thời gian xác định và được tùy ý sử dụng. Thu nhập chịu thuế có các đặc điểm sau: Thứ nhất, tất cả các khoản thu nhập phát sinh dù bằng tiền hay hiện vật không phân biệt từ nguồn sản xuất kinh doanh hay lao động, đầu tư đều có thể xếp vào thu nhập chịu thuế sau khi trừ đi các khoản do pháp luật quy định không phải chịu thuế thu nhập. Những khoản thu nhập được quy định không chịu thuế thu nhập này thường là các khoản thu nhập sau khi đã nộp thuế thu nhập hoặc một loại thuế 13
- tương đương ở một khâu nào đó, hoặc những khoản thu nhập nhỏ không thuận tiện cho công tác quản lí. Nói cách khác, thu nhập chịu thuế phải gồm hầu hết các loại thu nhập chủ yếu phát sinh, không phân biệt hình thái và nguồn gốc hình thành. Thứ hai, thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng nghĩa là thu nhập sau khi đã trừ đi các khoảng chi phí để tạo ra nó và các khoản được phép giảm trừ. Đối với thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập chịu thuế là thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó. Thứ ba, việc xác định thu nhập chịu thuế phải khả thi cho công tác quản lí. Một số nhà kinh tế đưa ra quan điểm là nên đánh thuế trên cơ sở thu nhập hoàn chỉnh tức là thu nhập hiện hữu cộng lãi vốn dù là lãi đó có thực hay mới chỉ là hứa hẹn. Tuy nhiên, ý tưởng đánh thuế vào thu nhập hoàn chỉnh có tính khả thi kém do sự phức tạp và không chắc chắn của việc xác định thu nhập chịu thuế. Mặt khác, để có thu nhập hoàn chỉnh thì mỗi chủ thể tạo ra thu nhập lại có các chi phí khách quan khách nhau, chẳng hạn chi phí để khắc phục rủi ro, chi phí chữa bệnh,.. Nếu dựa vào thu nhập hoàn chỉnh để làm cơ sở đánh thuế thì vi phạm nguyên tắc công bằng. Do đó, đa số nhà hoạch định chính sách thuế đều nhất trí cho rằng thu nhập chịu thuế chỉ nên giới hạn trong phạm vi thu nhập hiện hữu mà thôi. Xuất phát từ sự khác nhau trong việc xác định nguyên tắc đánh thuế nên các loại thu nhập chịu thuế giữa các quốc gia cũng có sự khác nhau. Một loại thu nhập nào đó có thể thuộc diễn thu nhập chịu thuế ở quốc gia này nhưng lại có thể thuộc thu nhập miễn thuế ở quốc gia khác. Tuy nhiên, các loại thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân theo thông lệ pháp luật của các nước trên thế giới bao gồm: (i) Thu nhập kinh doanh; (ii) Thu nhập làm công; (iii) Thu nhập từ đầu tư (kể cả tiền lãi cổ phần, tiền lãi vay). Ngoài ra còn có các yếu tố thu nhập khác thường xuất hiện trọng luật thuế thu nhập cá nhân là tiền lương hưu và các khoản bảo hiểm; các khoản thanh toán bảo hiểm xã hội; thu nhập từ việc nắm giữ cổ phần; thu nhập chuyển nhượng tài sản. * Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân gồm thu nhập tính thuế trong kì tính thuế và thuế suất. (i) Về thu nhập tính thuế 14
- Trên thực tế, các nhà nghiên cứu kinh tế, pháp lí không đưa định nghĩa tổng quát mà họ thường chỉ liệt kê các khoản được gọi là thu nhập của các tổ chức, cá nhân [29]. Pháp luật thuế thu nhập ở các nước nói chung đều quy định các khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế thu nhập. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ biến và Nhà nước có thể kiểm soát được. Có như vậy, pháp luật thuế thu nhập mới bảo đảm tính khả thi, bảo đảm tính công bằng cho các đối tượng nộp thuế, bảo đảm nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước… Thu nhập tính thuế là một đại lượng dùng để chỉ tổng thu nhập chịu thuế khi đã trừ đi các khoản giảm trừ và các chi phí hợp lý dùng để tạo lập nên nguồn thu nhập đó. Tùy theo trình độ quản lý của hệ thống thuế của từng quốc gia, hiện nay trên thế giới tồn tại hai cách thức xác định thu nhập để tính thuế TNCN. - Xác định thu nhập tính thuế "từ đồng thu nhập đầu tiên" Xác định thu nhập tính thuế "từ đồng thu nhập đầu tiên”: là việc thuế thu nhập cá nhân được tính trên đồng thu nhập đầu tiên của NNT. Hiểu theo một cách đơn giản là dù NNT có thu nhập một đồng cũng phải đóng thuế trên mức thu nhập một đồng đó. Việc quy định như vậy dựa trên quan điểm thuế thu nhập cá nhân là thuế cho toàn dân không phải thuế dành cho người có thu nhập cao. Để tạo ra bất kể nguồn thu nhập nào đòi hỏi NNT phải sử dụng đến sự nguồn lực của xã hội vì vậy nên khi có thu nhập họ phải đóng thuế với mức tương ứng để bù đắp tái thiết lại những nguồn lực đó. Dạng xác định này được các quốc gia phát triển (OECD) áp dụng tương đối phổ biến và bên cạnh đó cũng đưa ra những quy định về các suất miễn thu (personal relief); nghĩa là cho trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế các khoản thu nhập được Luật thuế TNCN cho phép như khấu trừ gia cảnh khi nuôi cha mẹ già, nuôi con cái, người tàn tật; tiền lương đóng góp vào quỹ an sinh xã hội, tiền nộp cho quỹ hưu trí; chi phí khám chữa bệnh, thù lao bác sĩ; lãi tiền tiết kiệm ở số ngân hàng do Chính phủ chỉ định. Nguyên tắc hành thu: khấu trừ tại nguồn, sau đó cuối năm người chịu thuế sẽ tổng hợp thu nhập để quyết toán thuế. Áp dụng thuế suất quy định từ đồng thu nhập đầu tiên tuy khá phức tạp trong việc theo dõi và quản lý nhưng chính việc quy định các suất miễn thu lại có ý nghĩa lớn trong bảo đảm an sinh xã hội cho NNT, việc góp phần giải quyết chính sách xã 15
- hội, đảm bảo công bằng và bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều nước áp dụng căn cứ tính thuế này. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế suất ở các nước là không giống nhau. - Xác định thu nhập tính thuế theo mức khởi điểm (ngưỡng chịu thuế) Xác định thu nhập tính thuế theo mức khởi điểm là việc tính thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở cho phép khấu trừ khống một khoản thu nhập, phần thu nhập còn lại chịu thuế suất luỹ tiến từng phần. Để đưa ra mức khấu trừ này các nhà làm luật sẽ phải tính toán trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người của quốc gia và các chi phí mà NNT phải chi trả trong cuộc sống sinh hoạt thông thường. Cách này được các quốc gia đang phát triển ưa chuộng hơn và do vậy được áp dụng rộng rãi hơn trong khối này. Ví dụ: Tại Việt Nam theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, khi mức giảm trừ gia cảnh được điều chỉnh và áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2020, người dân có thu nhập từ 0 đến 11 triệu đồng/tháng và không có người phụ thuộc thì chưa đến mức chịu thuế. Tăng ngưỡng thu nhập tính thuế cũng là xu hướng chung trên thế giới. Cách làm này có ưu điểm là dễ thực hiện, chi phí hành thu thấp vì cơ quan thuế không phải tính toán và quản lý việc kê khai các khoản được miễn, giảm trừ như cách xác định thu nhập tính thuế từ đồng thu nhập đầu tiên. Tuy nhiên, cách xác định này vẫn có nhược điểm là không đáp ứng được yêu cầu về tính công bằng của thuế TNCN. Không công bằng do không xét đến gia cảnh của người chịu thuế. Nếu thuế suất được quy định thu theo mức thu nhập khởi điểm thì những người có gia cảnh khác nhau nhưng cùng một mức thu nhập lại phải đóng thuế TNCN như nhau. (ii) Thuế suất thuế thu nhập cá nhân Thuế suất là mức thuế phải nộp trên một đơn vị khối lượng chịu thuế. Đây được coi là linh hồn của mỗi sắc thuế. Định mức thu thuế (tỉ lệ %) tính trên khối lượng thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế. Thuế suất có các loại: Thuế suất lũy tiến, Thuế suất tỉ lệ thuận, Thuế suất cố định tuyệt đối, Thuế suất luỹ thoái. Thuế suất luỹ tiến là việc đánh Thuế suất cao hơn khi có thu nhập tăng hoặc giá trị tài sản chịu thuế tăng. Thuế suất tỉ lệ thuận là việc đánh thuế với thuế suất như nhau trên tất cả các khối lượng thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế. Thuế suất cố định tuyệt đối là Thuế suất quy định bằng số tiền tuyệt đối cho một hoạt động có thu nhập 16
- hoặc một đối tượng chịu thuế. Thuế suất luỹ thoái là việc đánh thuế với Thuế suất giảm khi có thu nhập hoặc giá trị tài sản chịu thuế tăng. Đối với thuế TNCN thông thường áp dụng biểu thuế suất lũy tiến (bao gồm thuế suất lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần). Trong đó biểu thuế lũy tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế càng cao. Khi xây dựng biểu thuế của thuế TNCN, các quốc gia thường sử dụng một số nguyên tắc sau: thứ nhất, đánh thuế cùng một mức vào thu nhập tổng hợp, với số lượng thuế suất vừa phải để có thể quản lý tốt hơn; thứ hai, mức thuế không nên quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao động, tiết kiệm và đầu tư; thứ ba, tùy theo đặc điểm tình hình kinh tế xã hội mà có thể sử dụng thuế suất ưu tiên linh hoạt cho từng loại thu nhập. Thông thường, các nước áp dụng thuế suất ưu đãi đối với thu nhập từ lao động hơn là thu nhập từ vốn. Hiện nay, hầu hết các quốc gia áp dụng nguyên tắc những cá nhân có mức thu nhập tiền lương, tiền công cao hơn thì phải đóng thuế cao hơn, với khung thuế suất thuế TNCN lũy tiến, như: Tại Myanmar có mức giao động từ 1% đến 25%; tại Singapore từ 0% đến 22%; tại Philippines từ 5% đến 32%; tại Malaysia từ 1% đến 28%; tại Hàn Quốc từ 6% đến 40% và tại Mỹ từ 10% đến 39,6%… [41] (iii) Miễn giảm thuế, giảm trừ gia cảnh - Về miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân: Miễn thuế, giảm thuế TNCN là việc loại trừ (miễn) hay giảm bớt (giảm) phần nghĩa vụ thuế của NNT TNCN trong những trường hợp nhất định nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế đối với các đối tượng gặp khó khăn hoặc thực hiện các mục tiêu nhất định của Nhà nước. các nước cũng có quy định về vấn đề này, mức miễn giảm tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội của từng quốc gia. - Giảm trừ gia cảnh: Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của người nộp thuế là cá nhân cư trú. Về mức giảm trừ, hiện nay, nhiều nước đều nâng 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 268 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 76 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn